✨Allosaurus

Allosaurus

Allosaurus (phát âm tiếng Anh: ) là một chi khủng long chân thú carnosauria lớn sống vào kỷ Jura Muộn cách đây 155 - 145 triệu năm (tầng Kimmeridge - tầng Tithon). Danh pháp "Allosaurus" nghĩa đen là "thằn lằn dị biệt" bởi đốt sống của loài này khá độc đáo tại thời điểm phát hiện. Cái tên này được lấy theo tiếng Hy Lạp (') ("dị biệt, khác biệt") và (') ("thằn lằn/bò sát nói chung"). Nhà cổ sinh vật học Othniel Charles Marsh là người có công mô tả di tích hóa thạch đầu tiên được công nhận của chi này vào năm 1877. Với vai trò là loài khủng long chân thú đầu tiên được nghiên cứu kĩ càng, Allosaurus từ lâu đã thu hút sự hiếu kì của công chúng bên ngoài ngành cổ sinh.

Allosaurus là chi khủng long ăn thịt lớn đi đứng bằng hai chân. Hộp sọ của chúng tuy nhẹ nhưng mạnh mẽ. Hàm của chúng trang bị hàng tá chiếc răng sắc nhọn, khi phóng to sẽ thấy có các răng cưa nhỏ men theo đường cạnh răng. Loài A. fragilis có chiều dài trung bình khoảng , với chiều dài cực đại ước tính là . Chi sau của chúng dài và khỏe song chi trước gồm ba ngón tay lại khá nhỏ. Chúng giữ thăng bằng nhờ phần đuôi dài và chắc hẳn rất cơ bắp. Chúng được xếp vào họ allosauridae, một nhóm khủng long chân thú carnosauria.

Lịch sử phân loại của chi khủng long này khá phức tạp và nó bao gồm ít nhất 3 loài chính thống, nổi tiếng nhất là A. fragilis. Phần lớn hóa thạch Allosaurus được phát hiện tại Thành hệ Morrison của Bắc Mỹ, nhưng cũng có một số di cốt được tìm thấy tại Bồ Đào Nha. Nửa đầu thế kỷ 20, các nhà cổ sinh còn gọi chi này là Antrodemus, song một nghiên cứu tại Cleveland-Lloyd Dinosaur Quarry đã chấn hưng danh pháp "Allosaurus" và khiến cho chi này trở thành một trong những chi khủng long nổi tiếng nhất từng được biết.

Bởi lẽ hóa thạch Allosaurus rất sẵn tại địa bàn Morrison, chúng có lẽ là dã thú đứng đầu chuỗi thức ăn, đi săn những con khủng long ăn cỏ đồng đại và thậm chí có lẽ cả những loài ăn thịt khác. Những con mồi tiềm năng của Allosaurus bao gồm khủng long chân chim, khủng long mái và khủng long chân thằn lằn. Một số nhà cổ sinh cho rằng Allosaurus là những dã thú với hành vi xã hội hợp tác và đi săn theo bầy, song các học giả khác thì tin rằng chúng không thể hòa hợp với nhau và các bằng chứng về việc tụ họp theo bầy thực chất là những cá thể tình cớ kiếm ăn ở cùng một chỗ.

Mô tả

nhỏ|trái|230x230px|So sánh kích thước giữa các loài Allosaurus với con người Allosaurus là loài tiêu biểu của các chi khủng long chân thú lớn, với các đặc điểm điển hình như hộp sọ to, cổ ngắn, đuôi dài và chi trước tương đối ngắn. Loài nổi tiếng nhất thuộc chi này là Allosaurus fragilis có chiều dài trung bình khoảng 8,5 m và cân nặng trung bình khoảng 1,7 tấn. Mẫu Allosaurus lớn nhất (AMNH 680) được ước tính dài 9,7 m và nặng 2,3 tấn. James H. Madsen chỉ ra một loạt kích thước xương của Allosaurus trong chuyên khảo của ông vào năm 1976, với ước tính chiều dài tối đa là 12–13 m. Như các chi khủng long khác nói chung, ước tính khối lượng còn gây tranh cãi, và từ năm 1980 đã có nhiều ước tính khối lượng trong khoảng 1.500 kg, 1.000-4.000 kg tới 1.010 kg đối với các cá thể trưởng thành yếu vị (không phải tối đa). John Foster, chuyên gia nghiên cứu thành hệ Morrison, cho rằng ước tính 1.000 kg khá hợp lý đối với loài A. fragilis, nhưng ước tính 700 kg dường như sát hơn với kết quả đo đạc ông tiến hành trên các mẫu xương đùi điển hình. Sử dụng mẫu vật có biệt danh "Big Al" thuộc loài Allosaurus jimmadseni,

thumb|Khung xương phục dựng của A. jimmadseni Nhiều mẫu khổng lồ đã được quy vào chi Allosaurus song vẫn chưa chắc chắn. Chi Saurophaganax (OMNH 1708) có lẽ dài tới 10,9 m, Một mẫu tiềm năng khác của Allosaurus từng được gán cho chi Epanterias (AMNH 5767) có thể dài tới 12,1 m.

David K. Smith sau khi kiểm định hóa thạch Allosaurus ở từng mỏ đá đã phát hiện ra rằng các mẫu tại Cleveland-Lloyd Dinosaur Quarry (bang Utah) thường nhỏ hơn so với các mẫu từ Como Bluff (bang Wyoming) và Dry Mesa Quarry (bang Colorado), song hình thái xương không khác nhau giữa các địa phương. Một nghiên cứu sau đó của Smith tích hợp các mẫu từ Garden Park (bang Colorado) và Tượng đài Quốc gia Khủng long (bang Utah) đã không tìm thấy bằng chứng về sự khác biệt hình thái xương; biến thể hộp sọ khá phổ biến và không quá đáng kể, chứng tỏ đặc điểm này đơn thuần là dị hình cá thể. Nghiên cứu sâu hơn về biến thể liên quan đến kích thước vẫn không tìm ra sự khác biệt nhất quán, mặc dù các di cốt từ Dry Mesa có vẻ gần gũi nhau hơn dựa trên cơ sở hình thái xương sên. Kenneth Carpenter khi nghiên cứu các mảnh hộp sọ từ Cleveland-Lloyd đã nhận thấy sự khác biệt rất lớn giữa các cá thể và đặt hoài nghi đối với các phân cấp loài trước đây dựa trên các đặc điểm như hình dạng của sừng và sự khác biệt được đề xuất của A. jimmadseni dựa trên hình dạng má.

Hộp sọ

thumb|Hộp sọ A. jimmadseni với các xương cấu thành tô đậm Hộp sọ và răng của Allosaurus cân đối rất khiêm tốn so với loài khủng long chân thú bình thường. Nhà cổ sinh vật học Gregory S. Paul đưa ra chiều dài 845 mm cho hộp sọ thuộc về một cá thể mà ông ước tính dài 7,9 m. Mỗi xương tiền hàm trên (xương tạo thành đầu mõm) có 5 răng với mặt cắt hình chữ D và mỗi xương hàm trên (xương mang răng chính ở hàm trên) có từ 14 đến 17 răng; số lượng răng không hoàn toàn tương ứng với kích thước của xương. Mỗi xương răng (xương mang răng ở hàm dưới) có từ 14 đến 17 răng, với số lượng trung bình là 16. Răng trở nên ngắn hơn, hẹp hơn và cong hơn khi đi về phía sau hộp sọ. Tất cả các răng đều có cạnh giống như cưa. Răng bị rụng ra dễ dàng và được thay thế liên tục, khiến chúng trở thành thành hóa thạch phổ biến. (mặc dù chúng khá dễ vỡ). Trong hàm trên là các xoang phát triển tốt hơn so với các chi nguyên thủy hơn, chẳng hạn CeratosaurusMarshosaurus; đặc điểm này có lẽ liên quan đến khứu giác, có thể chứa bộ phận Jacobson. Mái của hộp bao não mỏng, có lẽ để cải thiện sự điều nhiệt cho não. Hộp bao não và xương trán có thể có khớp nối. Số lượng đốt sống đuôi chưa biết và tùy vào kích thước cá thể; James Madsen ước tính khoảng 50, Lồng xương sườn rộng so với các khủng long chân thú nguyên thủy như Ceratosaurus.

Allosaurus có xương bụng, nhưng ít khi tìm được mẫu có xương này, Một xương chạc có mặt, nhưng chỉ được công nhận từ năm 1996 trở đi; nhiều khi xương chạc bị nhầm lẫn với xương bụng. Ilium, xương hông chính, rất lớn và xương mu có một mặt đế kéo dài nổi bật cho cơ bắp bám vào và làm điểm tựa cho cơ thể khi chúng ngồi trên mặt đất. Madsen lưu ý rằng trong khoảng một nửa số cá thể từ Cleveland-Lloyd Dinosaur Quarry, không kể kích thước, các xương mu không hợp nhất với nhau ở đầu đế. Ông cho rằng đây là một đặc điểm giới tính, với những con cái thiếu xương hợp nhất để việc đẻ trứng dễ dàng hơn. và có ba ngón tay với vuốt lớn, cong và nhọn. Khối xương cổ tay hình lưỡi liềm giống ở các maniraptoran tân tiến hơn. Trong ba ngón tay, ngón trong cùng (hoặc ngón cái) lớn nhất, Đôi chân không dài hoặc phù hợp cho hành động chạy như của tyrannosaurid, và móng vuốt của ngón chân không phát triển và giống móng guốc hơn so với các khủng long chân thú nguyên thủy hơn.

Cổ sinh thái học

thumb|left|Phần trồi lên của Brushy Basin Member, thành hệ Morrison, phía Tây sông Green, Utah, trên [[cao nguyên Colorado.]] Hóa thạch Allosaurus chiếm 70 - 75% số mẫu vật khủng long chân thú được tìm thấy tại thành hệ Morrison; Bản thân Morrison là một vùng đá rộng 1.5 triệu km2 nằm ở phía Tây Hoa Kỳ, với kiểu khí hậu đặc trưng là nửa khô hạn, 2 mùa mưa, khô rõ rệt cùng các bãi bồi bằng phằng. Thảm thực vật tại đây thay đổi từ các rừng thông, dương xỉ mộc, dương xỉ dọc theo sông; cho đến các xavan dương xỉ xen lẫn vài cây khác như chi thông đã tuyệt chủng dạng bách tán Brachyphyllum.

Thành hệ Morrison là một trong những nơi giàu hóa thạch nhất Bắc Mỹ. Rất nhiều loài động thực vật cổ đại đã được tìm thấy tại đây, gồm, thực vật: tảo lục Chlorophyta, nấm, rêu, mộc tặc, dương xỉ, tuế, bạch quả cùng vài họ thông; động vật: các loài thân mềm hai mảnh, ốc, cá vây tia, động vật lưỡng cư không đuôi và có đuôi, rùa, động vật đầu mỏ, thằn lằn, các loài crocodylomorpha trên cạn và dưới nước, vài dực long, nhiều loại khủng long và một số bộ thú thủy tổ như Docodonta, Multituberculata, Symmetrodonta và Eutriconodonta. Khủng long tại đây có khủng long chân thú Ceratosaurus, Ornitholestes, Torvosaurus; chân thằn lằn Apatosaurus, Brachiosaurus, Brontosaurus, Camarasaurus, Diplodocus; và hông chim Camptosaurus, Dryosaurus, Stegosaurus. Hóa thạch Allosaurus thường nằm chung một nơi với Apatosaurus, Camarasaurus, Diplodocus, và Stegosaurus.

Không chỉ ở Mỹ, Allosaurus còn được tìm thấy tại Bồ Đào Nha. Các thành hệ niên đại Jura Muộn này cũng có những nét tương tự như thành hệ Morrison, có điều chúng mang ảnh hưởng của đại dương nhiều hơn. Nhiều chi khủng long trong thành hệ Morrison cũng là những chi được tìm thấy trong các thành hệ Bồ Đào Nha (chủ yếu là Allosaurus, Ceratosaurus, Torvosaurus, và Apatosaurus), hoặc là họ hàng gần của chúng (Brachiosaurus so với Lusotitan, Camptosaurus so với Draconyx). thumb|[[Thành hệ Morrison (màu vàng) ở miền Tây Hoa Kỳ. Các dấu chấm và cộng là những nơi Allosaurus được tìm thấy.]] Ở cả hai thành hệ trên, Allosaurus tồn tại song song cùng với 2 chi khủng long chân thú ăn thịt lớn khác là CeratosaurusTorvosaurus. Sọ Ceratosaurus thì cao và hẹp, còn răng của chúng thì lớn và rộng hơn Allosaurus. Đây là một trong những đặc điểm giải phẫu học dễ nhận biết để phân biệt 2 chi này. Thịt Allosaurus cũng có thể được các loài khủng long khác tiêu thụ, như dấu răng trên xương mu của một mẫu Allosaurus cho thấy, có thể là của Ceratosaurus hay Torvosaurus. Vị trí của xương này (một trong những phần cuối cùng của thân và được che chắn một phần bởi chân), cùng với thực tế rằng nó là một trong những phần cứng nhất trong bộ xương, cho thấy rằng con Allosaurus này đã chết và đang bị (các) cá thể khủng long ăn xác thối ăn.

Cổ sinh vật học

Đời sống

thumb|left|Skeletons at different growth stages Số lượng lớn các hóa thạch Allosaurus thuộc đủ mọi lứa tuổi khác nhau ("trẻ" nhất có thể là các trứng tại Colorado)

Medullary bone tissue (endosteally derived, ephemeral, mineralization located inside the medulla of the long bones in gravid female birds) has been reported in at least one Allosaurus specimen, a shin bone from the Cleveland-Lloyd Quarry. Today, this bone tissue is only formed in female birds that are laying eggs, as it is used to supply calci to shells. Its presence in the Allosaurus individual has been used to establish sex and show it had reached reproductive age. However, other studies have called into question some cases of medullary bone in dinosaurs, including this Allosaurus individual. Data from extant birds suggested that the medullary bone in this Allosaurus individual may have been the result of a bone pathology instead.

Não và các giác quan

Kết quả chụp cắt lớp vi tính nội đúc não Allosaurus cho thấy nó có nhiều nét tương đồng với bộ cá sấu hơn là chim. Qua cấu trúc hệ tiền đình của nó, người ta biết được, ở trạng thái nghỉ, hộp sọ Allosaurus nằm ngang, không chúc lên hay chúc xuống. Tai trong Allosaurus cũng giống như cá sấu, vì thế có lẽ nó nghe tốt nhất là ở tần số thấp, và gặp khó khăn với những âm thanh nhỏ. Hành khứu giác thì lớn, có vẻ như rất thích hợp cho việc đánh hơi, mặc dù vùng xử lý thông tin mùi khá là nhỏ.

👁️ 4 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_Allosaurus_** (phát âm tiếng Anh: ) là một chi khủng long chân thú carnosauria lớn sống vào kỷ Jura Muộn cách đây 155 - 145 triệu năm (tầng Kimmeridge - tầng Tithon). Danh pháp "Allosaurus"
Hơn 200 triệu năm trước, khi con người còn chưa xuất hiện trên hành tinh xanh này, mặt đất đã rung chuyển dưới những bước chân nặng nề của các loài khủng long to lớn,
Dưới đây là **danh sách toàn bộ các chi khủng long** **đã biết** thuộc liên bộ Dinosauria, trừ lớp Aves (chim). Danh sách này bao gồm cả những chi mà bây giờ không được xem
**_Acrocanthosaurus_** (, hay **thằn lằn gai sống cao**) là một chi khủng long chân thú từng tồn tại ở khu vực ngày nay là Bắc Mỹ vào tầng Apt và giai đoạn đầu của tầng
**Kỷ Jura** là một kỷ trong niên đại địa chất kéo dài từ khoảng 200 triệu năm trước, khi kết thúc kỷ Tam điệp (_Trias_) tới khoảng 146 triệu năm trước, khi bắt đầu kỷ
là phim điện ảnh anime thể loại khoa học viễn tưởng của đạo diễn Imai Kazuaki và biên kịch Kawamura Genki, nằm trong loạt manga và anime _Doraemon_. Đây là phim chủ đề thứ 40
**Jura Muộn** là thế thứ ba trong kỷ Jura, ứng với niên đai địa chất từ 161.2 ± 4.0 to 145.5 ± 4.0 triệu năm trước (Ma),được lưu giữ trong các địa tầng **Thượng Jura**.
**_Ceratosaurus_** (tiếng Hy Lạp _κερας/κερατος, keras/keratos_ nghĩa là "sừng" và _σαυρος_/_sauros_ nghĩa là "thằn lằn") là một chi khủng long chân thú ăn thịt lớn sống vào kỷ Jura muộn (Kimmeridgia tới Tithonia), được phát
**_Tenontosaurus_** (có nghĩa là _thằn lằn cơ bắp_) là một chi khủng long có kích thước từ trung bình đến lớn thuộc nhóm khủng long chân chim của bộ khủng long hông chim. Chi này
**Bảo tàng Đá ở Kamień Pomorski** (tiếng Ba Lan: _Muzeum Kamieni w Kamieniu Pomorskim_) là một bảo tàng tư nhân tọa lạc tại Phố Słowacki, Kamień Pomorski, Ba Lan. Trụ sở của Bảo tàng là
nhỏ|phải|Những mô hình khủng long đầu tiên là [[Iguanodon và Mantellodon được đặt ở Crystal Palace, Luân Đôn vốn có từ thời Victoria, là những hình tượng sớm nhất về khủng long]] nhỏ|phải|Tượng khủng long
**_Stegosaurus_** (phát âm tiếng Anh: ; ) là một chi khủng long phiến sừng thuộc cận bộ Stegosauria, sống từ Jura muộn (giai đoạn Kimmeridgia đến tiền Tithonia) ở miền Tây Bắc Mỹ ngày nay.
**_Tyrannosaurus_** (, có nghĩa là _thằn lằn bạo chúa_, được lấy từ tiếng Hy Lạp "_tyrannos_" (τύραννος) nghĩa là "_bạo chúa_", và "_sauros_" (σαῦρος) nghĩa là "_thằn lằn_"), còn được gọi là **Khủng long bạo
**_Dilophosaurus_** (phát âm tiếng Anh: ) là một chi khủng long chân thú sống ở Bắc Mỹ vào đầu kỷ Jura, khoảng 193 triệu năm trước. Ba bộ xương được phát hiện ở miền bắc
**_Herrerasaurus_** (nghĩa là "thằn lằn của Herrera", theo tên của chủ trại chăn nuôi đã khám phá ra hóa thạch đầu tiên của con vật) là một trong những giống khủng long sơ khai nhất.
**_Theropoda_** (nghĩa là "chân thú") là một nhóm khủng long hông thằn lằn _(saurischia)_, phần lớn là ăn thịt, nhưng cũng có một số nhóm ăn tạp hoặc ăn thực vật hoặc ăn sâu bọ.
**_Carcharodontosaurus_** là một chi khủng long Carcharodontosauridae ăn thịt sống khoảng 100 đến 93 triệu năm trước, vào cuối tầng Alba tới đầu tầng Cenoman của kỷ Creta. Hiện có hai loài được xếp vào
**_Camarasaurus_** (tạm dịch là _khủng long có khoang rỗng_, do có những phần rỗng bên trong đốt sống (_καμαρα/kamarat_ theo tiếng Hy Lạp cổ là _phòng có mái vòm_, và _σαυρος/sauros_ là _thằn lằn_), là
**_Barosaurus_** ; là một chi khủng long khổng lồ, đuôi dài, cổ dài, là loài khủng long ăn thực vật liên quan chặt chẽ và là họ hàng với _Diplodocus_. Vẫn có thể tìm thấy
**_Bruhathkayosaurus_** (; có nghĩa là "thằn lằn rất lớn") có thể là loài khủng long lớn nhất từng sống trên trái đất. Tuy nhiên, tính chính xác của tuyên bố này đã bị sa lầy
**_Fukuiraptor_** ( , _kẻ trộm của Fukui_) là một chi khủng long ăn thịt cỡ trung bình sống vào đầu kỷ Phấn trắng (Barremian) tại nơi bây giờ là Nhật Bản. Các nhà khoa học
**_Torvosaurus_** là một chi khủng long Theropoda sống cách nay khoảng từ 153 tới 148 triệu năm trước vào cuối kỷ Trias tại ngày nay là Colorado và Bồ Đào Nha. Có hai loài được
_Phân loại học động vật có xương sống_' được trình bày bởi John Zachary Young trong quyển sách_ The Life of Vertebrates_ (1962) là hệ thống phân loại tập trung vào nhóm động vật này.
**Carcharodontosaurids** (từ tiếng Hy Lạp καρχαροδοντόσαυρος, _carcharodontósauros_: "thằn lằn răng cá mập") là một nhóm khủng long chân thú ăn thịt. Năm 1931 Ernst Stromer đưa **Carcharodontosauridae** thành một họ, trong cổ sinh vật học
**Allosauroidea** là một siêu họ hay nhánh các loài khủng long chân thú chứa bốn họ - họ Metriacanthosauridae, Allosauridae, Carcharodontosauridae và Neovenatoridae. Loài khủng long trong nhóm này được biết đến nhiều nhất, _Shidaisaurus
**Megalosauroidea** ('dạng thằn lằn lớn') là một liên họ (hoặc nhánh) của khủng long chân thú đuôi cứng, sống từ Jura giữa đến Phấn trắng muộn. Liên họ này gồm các chi gần với _Megalosaurus
**Thế giới khủng long: Vương quốc sụp đổ** (tên gốc tiếng Anh: **_Jurassic World: Fallen Kingdom_**) là một bộ phim phiêu lưu khoa học viễn tưởng Mỹ năm 2018 và là phần tiếp nối của
**Majungasaurus** (phát âm tiếng Anh: ; nghĩa đen là "thằn lằn Mahajanga") là một chi khủng long chân thú Abelisauridae từng sinh sống ở Madagascar 70-66 triệu năm trước đây, vào cuối kỷ Creta. Chi
**_Utahraptor_** (nghĩa là "kẻ săn mồi vùng Utah") là một chi khủng long Theropoda. Hiện chỉ có một loài duy nhất được công nhận, **_Utahraptor ostrommaysorum_**, cũng là thành viên có kích thước lớn nhất
**_Chilantaisaurus_** là một chi khủng long, được Hu S. mô tả khoa học năm 1964. Chilantaisaurus là một loài khủng long hông thằn lằn lớn, ước tính nặng từ 2,5 tấn (2,8 tấn ngắn) đến
**_Ornithosuchus_** (nghĩa là "cá sấu chim") là một chi Pseudosuchia tuyệt chủng, hóa thạch của chúng có niên đại từ thời kỳ Trias muộn (Carnia) tại nơi ngày nay là Scotland. Ban đầu nó được
**_Yangchuanosaurus_** là một chi tuyệt chủng của nhóm khủng long theropod Metriacanthosauridae, sống ở Trung Quốc trong giai đoạn Bathonian đến Callovian của Trung Jura, có kích thước và ngoại hình tương tự với người
thumb|Sơ đồ sọ _[[Allosaurus_. Xương góc trên màu vàng kí hiệu _sa_.]] thumb|Sơ đồ sọ _[[Heterodontosaurus_. Xương góc trên kí hiệu _sa_.]] **Xương góc trên** (tiếng Anh: _surangular_, kí hiệu _sa_) là phần xương sau