✨Acrocanthosaurus

Acrocanthosaurus

Acrocanthosaurus (, hay thằn lằn gai sống cao) là một chi khủng long chân thú từng tồn tại ở khu vực ngày nay là Bắc Mỹ vào tầng Apt và giai đoạn đầu của tầng Alba thuộc kỷ Phấn Trắng. Giống như hầu hết các chi khủng long khác, Acrocanthosaurus chỉ có một loài duy nhất: A. atokensis. Phần lớn các hóa thạch của chi này được tìm thấy ở tiểu bang Hoa Kỳ Oklahoma, Texas, Wyoming; tuy nhiên, đã phát hiện một số răng về phía đông xa tận Maryland, ám chỉ một vùng phân bố rộng khắp châu lục.

Acrocanthosaurus là động vật ăn thịt hai chân. Như tên "thằn lằn gai sống cao" cho thấy, nó được biết đến với những gai thần kinh cao trên các đốt sống, mà rất có thể được dùng để nâng đỡ một dãy bướu thịt trên lưng, cổ và hông. Acrocanthosaurus là một trong những loài khủng long chân thú lớn nhất, có thể dài tới và nặng đến . Những dấu chân lớn của khủng long chân thú tại Texas rất có thể là của chi này, mặc dù không có mối liên hệ trực tiếp nào với hóa thạch xương ở đó.

Khám phá gần đây đã làm sáng tỏ thêm nhiều chi tiết về giải phẫu học, cho phép nghiên cứu chuyên ngành tập trung vào cấu trúc não bộ và chức năng chi trước. Acrocanthosaurus là khủng long chân thú lớn nhất trong hệ sinh thái của nó lúc bấy giờ và rất có thể là một động vật ăn thịt đầu bảng. Nó có thể săn các khủng long chân thằn lằn, khủng long chân chim và giáp long lớn.

Mô tả hóa thạch

thumb|left|Kích thước Acrocanthosaurus so với người Acrocanthosaurus là một trong các chi khủng long chân thú lớn nhất từng tồn tại. Mẫu vật lớn nhất (NCSM 14345) được ước tính dài đến khoảng ,

Sọ Acrocanthosaurus, như phần lớn các dị long khác, đều dài, dẹp và hẹp. Vùng cửa sổ trước hố mắt khá là lớn, chiếm hơn 1/4 chiều dài và 2/3 chiều cao. Phần bên ngoài hàm trên và phần bên trên xương mũi không thô ráp nhiều như ở GiganotosaurusCarcharodontosaurus. Xương mũi chạy 2 đường thấp và dài từ lỗ mũi, dọc theo sống mũi, tới mắt rồi kết thúc tại xương lệ. Khác với Allosaurus, không có một chỏm nào gồ lên đặc biệt ở vùng xương này. Xương lệ và xương sau hố mắt gặp nhau phía trên mắt, làm cho vùng lông mày lồi lên, thường thấy ở dị long răng cá mập và khủng long Abel. Mỗi bên hàm trên có 19 cái răng cong, rời nhau. Số lượng răng cho hàm dưới hiện chưa được công bố chính thức. Răng Acrocanthosaurus rộng hơn Carcharodontosaurus nhưng không có những vết nhăn như ở các dị long răng cá mập khác. Phía trước xương hàm dưới khá là vuông vức như ở Giganotosaurus, và nông, trong khi các phần phía sau rất là sâu. AcrocanthosaurusGiganotosaurus có một cạnh dày ở mặt ngoài xương góc trên, bên dưới phần khớp nối với hộp sọ. Những gai thấp hơn có các búi cơ to được đắp, tương tự như ở bò rừng bizon hiện đại, cho nên có lẽ ở đây đã có một đường cao và dày chạy dọc trên lưng.

Trừ các đốt sống, Acrocanthosaurus có một bộ xương tiêu biểu của một dị long. Nó đi bằng 2 chân, với một cái đuôi dài và nặng đối trọng với đầu và mình, giữ cho trọng tâm ở trên eo. Hai chi trước ngắn và khỏe hơn Allosaurus, nhưng các đặc điểm còn lại thì đều giống: mỗi tay có 3 ngón, các ngón đều có móng vuốt. Khác với nhiều loài khủng long thích nghi để chạy, xương đùi Acrocanthosaurus dài hơn xương chày và xương bàn chân, Tuy thế, chân nó mạnh hơn Allosaurus. Mỗi bàn chân có 4 ngón, một đặc điểm thường thấy ở các loài khủng long chân thú, nhưng ngón cái thì nhỏ hơn nhiều so với các ngón khác, và cũng không bao giờ chạm đất. nhưng cuối cùng tên chính thức được đổi thành Acrocanthosaurus atokensis. Acrocanthosaurus nghĩa là "thằn lằn gai sống cao", dựa trên từ Hy Lạp cổ ɑκρɑ/akra ('cao'), ɑκɑνθɑ/akantha ('gai') và σɑʊρος/sauros ('thằn lằn'). Loài duy nhất, A. atokensis, đặt tên theo hạt Atoka tại bang Oklahoma, nơi mà nó được tìm thấy.

Các mẫu khác

thumb|left|Sọ mẫu NCSM 14345, [[Bảo tàng Khoa học Tự nhiên North Carolina]] Sau đó người ta đào được hai mẫu khác hoàn chỉnh hơn nhiều, miêu tả vào thập niên 1990. Mẫu thứ nhất (SMU 74646) là một bộ xương không hoàn chỉnh, thiếu phần lớn hộp sọ, tìm thấy ở nông trại Hobson trong thành hệ Twin Mountains ở Texas, hiện nằm trong bộ sưu tập của Bảo tàng Khoa học và Lịch sử Forth Worth.

Không chỉ ở Oklahoma, Texas, Wyoming, hóa thạch Acrocanthosaurus cũng được tìm thấy ở Arizona và một số nơi khác nữa. Người ta cho rằng một mẫu răng và những vết răng tìm thấy trên xương của khủng long chân thằn lằn ở miền Nam Arizona là của Acrocanthosaurus. Vài mẫu răng từ thành hệ Arundel ở Maryland cũng mang những đặc điểm hầu như giống hệt với Acrocanthosaurus, và người ta nghĩ những mẫu này đại diện cho 1 chi bà con nào đó với nó tại miền đông. Nhiều mẫu răng và mẫu xương khác từ nhiều thành hệ địa chất khác nhau ở phía tây nước Mỹ cũng đã được nghĩ là của Acrocanthosaurus, nhưng phần lớn là phân loại sai; Dù thế, vẫn có những bất đồng xung quanh việc này.

Lúc mới được phát hiện, Acrocanthosaurus chỉ được biết qua một số mẩu vụn như phần lớn các chi khủng long chân thú khác, do vậy đã có rất nhiều cách phân loại khác nhau. Đầu tiên, J. Willis Stovall và Wann Langston, Jr. xếp nó vào họ "Antrodemidae", tức Allosauridae ngày nay. Sau đó năm 1956 Alfred Sherwood Romer chuyển nó vào đơn vị phân loại thùng rác Megalosauridae (đại long). Việc có hàng gai trên lưng cũng làm cho một số học giả nghĩ rằng Acrocanthosaurus có quan hệ nào đó với Spinosaurus. Việc mô tả Acrocanthosaurus như là một đại long xương gai rất phổ biến vào thập kỷ 1980, trong các sách bán chuyên thời đó về khủng long.

Vào đầu thập niên 1850, người ta tìm thấy 3 gai thần kinh cao tại Anh có niên đại kỷ Phấn Trắng sớm. Lúc đầu những gai thần kinh này được xem là rất giống với các gai của Acrocanthosaurus, Điều này đã làm cho ít nhất một học giả nhầm rằng Altispinax là đồng nghĩa của Acrocanthosaurus. 3 gai thần kinh này hiện nay được xếp vào chi Becklespinax, chẳng phải Acrocanthosaurus hay là Altispinax.

Phần lớn các phân tích miêu tả theo nhánh học xếp Acrocanthosaurus vào họ Carcharodontosauridae, ở vị trí cơ bản so với họ hàng Carcharodontosaurus từ châu Phi và Gigantosaurus từ Nam Mỹ. Nó được xem là đồng cơ bản với chi Eocarcharia, cũng ở châu Phi, trong khi chi Neovenator, phát hiện ở Anh, thường được xem là còn cơ bản hơn nữa, hoặc là một thành viên cơ bản của nhóm chị em Neovenatoridae.

Đặc điểm cổ sinh

Tuổi thọ và tốc độ tăng trưởng

thumb|right|Tái dựng cảnh [[hành vi tán tỉnh|tán tỉnh của Acrocanthosaurus dựa trên những vết tích hóa thạch trong thành hệ Dakota]] Dựa vào các đặc điểm xương từ mẫu định danh OMNH 10146 cũng như mẫu NCSM 14345, người ta ước tính Acrocanthosaurus mất 12 năm để đạt tới kích thước trưởng thành. Con số này có thể cao hơn nhiều do trong quá trình tái tạo xương và phát triển khoang tủy, một số đường Harris đã bị mất. Nếu tính cả các đường này thì Acrocanthosaurus mất khoảng 18-24 năm để lớn lên.

Tại thời điểm chết, cá thể mẫu định danh đã sống được ít nhất 21 năm, trong khi NCSM 14345 chết khi vừa trưởng thành. Hai cá thể này có tốc độ phát triển không đồng đều, có thể là do khác biệt về giới tính, sức khỏe, hoặc thể trạng của từng con. Nghiên cứu đặc biệt quan tâm đến các phần khớp để xem chúng có thể di chuyển đến mức nào mà không bị trật. Ở rất nhiều vùng khớp, các phần xương không thực sự 'ăn' nhau lắm, chỉ ra ở đây có rất nhiều sụn, một đặc điểm thường thấy ở các thằn lằn chúa. Người ta còn thấy, ở tư thế nghỉ, phần xương cánh tay của nó hơi chếch về phía sau, khuỷu tay gập lại còn móng vuốt thì hướng vào trong.

Não Acrocanthosaurus hơi có dạng xích ma (hình chữ S). Hai bán cầu não không phát triển lắm, giống với cá sấu hơn là chim. Đặc điểm này thường thấy trong các chi khủng long ngoài nhánh Khủng long đuôi rỗng. Acrocanthosaurus có một hành khứu giác lớn và phồng ra, một dấu hiệu cho thấy nó có khả năng đánh hơi tốt. Vùng ống bán khuyên màng (có trách nhiệm giữ thăng bằng) cho thấy đầu Acrocanthosaurus chúc xuống 25° dưới đường nằm ngang. Người ta biết được điều này bằng cách xoay bản nội đúc sao cho vùng ống bán khuyên màng song song với mặt đất, một tư thế thường thấy khi động vật đang trong trạng thái tỉnh. Rất nhiều nơi khác trong bang Texas cũng có những mẫu dấu tương tự. Tuy nhiên, không thể nào biết chắc được loài nào đã làm ra những dấu đó, vì không có hóa thạch nào kèm theo cả. Dù vậy, các nhà khoa học từ lâu đã cho rằng những dấu chân đó là của Acrocanthosaurus. Trong một nghiên cứu năm 2001, người ta lấy những dấu chân tại Glen Rose đem so với những bàn chân của nhiều loài khủng long chân thú lớn khác nhau. Dù không thể xác định được chính xác loài nào nhưng họ cũng đi tới nhận định rằng hình dạng và kích thước những dấu chân này phù hợp với Acrocanthosaurus. Thành hệ Glen Rose gần với thành hệ Antlers và Twin Mountains, cả về tuổi lẫn vị trí, mà chi khủng long chân thú duy nhất được biết trong 2 thành hệ này là Acrocanthosaurus, cho nên nghiên cứu trên kết luận Acrocanthosaurus là chi khủng long có khả năng nhất đã làm nên các dấu này.

Mẫu dấu Glen Rose nổi tiếng được đề cập ở trên gồm dấu chân của nhiều cá thể khủng long chân thú khác nhau di chuyển cùng hướng với 12 cá thể khủng long chân thằn lằn. Các dấu chân khủng long chân thú thường nằm đè lên các dấu chân khủng long chân thằn lằn, cho thấy các dấu này được hình thành sau đó. Điều này tạo nên giả thiết một đàn Acrocanthosaurus nhỏ lén đi theo một đàn khủng long chân thằn lằn. Tại một điểm giao với đường đi của một trong số các con khủng long chân thằn lằn, đường đi của một cá thể khủng long chân thú thiếu mất một dấu chân, tạo nên cảm giác đã xảy ra một cuộc "tấn công". Dù vậy, nhiều nhà khoa học nghi ngờ tính chính xác của giả thiết này, vì nếu có một con khủng long ăn thịt lớn đang bám vào, dáng đi của con khủng long chân thằn lằn phải thay đổi, đằng này nó vẫn giữ nguyên.

Đặc điểm cổ sinh thái

left|thumb|Tái dựng cảnh Acrocanthosaurus tha một con [[Tenontosaurus khỏi một cặp Deinonychus]] Hóa thạch của Acrocanthosaurus được tìm thấy ở thành hệ Twin Mountains ở miền Bắc Texas, thành hệ Antlers ở miền Nam Oklahoma, thành hệ Cloverly ở bắc-trung Wyoming, và có thể cả thành hệ Arundel ở Maryland. Các thành hệ địa chất kể trên không được định tuổi bằng phương pháp đồng vị phóng xạ, nhưng thông qua các đặc điểm sinh địa tầng. Dựa vào những thay đổi trong phân lớp Cúc đá, người ta thấy được sự chuyển tiếp giữa tầng Apt và tầng Alba của Phấn Trắng sớm trong thành hệ Glen Rose. Thành hệ này có hai đặc điểm: 1) nó nằm ngay trên thành hệ Twin Mountains và 2) các dấu chân được tìm thấy ở đây rất có thể là của Acrocanthosaurus. Điều này cho thấy thành hệ Twin Mountains nằm hẳn trong tầng Apt, có niên đại từ 125 đến 112 triệu năm trước đây. Hơn thế nữa, trong thành hệ Antlers người ta còn tìm thấy hóa thạch của DeinonychusTenontosaurus. Hai chi này cũng có tại thành hệ Cloverly, mà thành hệ này đã được định tuổi bằng phương pháp đồng vị phóng xạ cho kết quả tầng Apt và tầng Alba. Thành thử ra thành hệ Antlers cũng có lẽ thuộc 2 giai đoạn này. Do đó, có khả năng nhất Acrocanthosaurus đã tồn tại từ khoảng 125 đến 100 triệu năm trước đây. có lẽ cả Sauroposeidon khổng lồ nữa, và những chi khủng long chân chim như Tenontosaurus. Deinonychus, một chi khủng long ăn thịt khác, cũng kiếm ăn trong khu vực này. Nhưng với chiều dài chỉ , khó có thể nó là đối thủ cạnh tranh được với Acrocanthosaurus.

Trong văn hóa đại chúng

Cũng như các loài khủng long ăn thịt khác như Tyrannosaurus, Spinosaurus, Acrocanthosaurus được hưởng sự ái mộ từ công chúng và xuất hiện nhiều lần trong nhiều phương tiện truyền thông khác nhau: Acrocanthosaurus xuất hiện trong tập 5 của Monster Resurrected dưới dạng một con trưởng thành và một con non. Cả hai bị giết bởi một đàn Deinonychus. Acrocanthosaurus xuất hiện trong tập 15, mùa 1 "Volcanic threat" trong series Dinosaur King. Acrocanthosaurus xuất hiện trong Jurassic Park, trong các game Android "Jurassic World the game" và "Jurassic Park Builder", cũng như game Jurassic Park Operation Genesis, Warparth: Jurassic Park và trong Jurassic World Evolution với "Carnivore Dinosaur Pack ". Acrocanthosaurus là một trong các khủng long có thể chơi được trong game Primal Carnage Extinction và cũng là một trong các boss trong mode Survival. *Acrocanthosaurus có trong "The Isle" trên Steam.

Bảo tàng

Một số nơi để xem hóa thạch hoặc xương phục dựng của Acrocanthosaurus:

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_Acrocanthosaurus_** (, hay **thằn lằn gai sống cao**) là một chi khủng long chân thú từng tồn tại ở khu vực ngày nay là Bắc Mỹ vào tầng Apt và giai đoạn đầu của tầng
**_Tyrannosaurus_** (, có nghĩa là _thằn lằn bạo chúa_, được lấy từ tiếng Hy Lạp "_tyrannos_" (τύραννος) nghĩa là "_bạo chúa_", và "_sauros_" (σαῦρος) nghĩa là "_thằn lằn_"), còn được gọi là **Khủng long bạo
**Carcharodontosaurids** (từ tiếng Hy Lạp καρχαροδοντόσαυρος, _carcharodontósauros_: "thằn lằn răng cá mập") là một nhóm khủng long chân thú ăn thịt. Năm 1931 Ernst Stromer đưa **Carcharodontosauridae** thành một họ, trong cổ sinh vật học
**John Willis Stovall** (1891– 24/7, 1953) là một nhà cổ sinh người Mỹ, làm việc tại trường Đại học Oklahoma. Cùng với học trò Wann Langston, Jr., ông định danh cho con khủng long chân
Tầng **Apt** là một kỳ trong niên đại địa chất hay bậc trong thang địa tầng. Đây là phân vị của thế/thống Phấn trắng sớm/hạ và kéo dài từ khoảng 125,0 ± 1.0 Ma đến
Dưới đây là **danh sách toàn bộ các chi khủng long** **đã biết** thuộc liên bộ Dinosauria, trừ lớp Aves (chim). Danh sách này bao gồm cả những chi mà bây giờ không được xem
Chất liệu: an toàn, không độc hai CÔNG DỤNG - Rèn luyện sự khéo léo, tỉ mỉ: Trong suốt quá trình mày mò lắp ráp, bé sẽ tập tính kiên trì, nhẫn nại. - Kích