Abusir (tiếng Ả Rập: ابو صير; tiếng Ai Cập: pr wsjr; tiếng Copt: ⲃⲟⲩⲥⲓⲣⲓ busiri; tiếng Hy Lạp cổ đại: Βούσιρις, "Ngôi nhà hay Đền thờ của thần Osiris") là một di chỉ khảo cổ tại Ai Cập, nằm cách Saqqara vài cây số về phía bắc. Đây là khu nghĩa trang hoàng gia được sử dụng vào thời Cổ vương quốc, cùng với Meidum.
Một số làng ở Ai Cập được đặt tên là Abusir hoặc Busiri, lấy từ tên của địa danh này. Abusir là một phần nhỏ của"Cánh đồng kim tự tháp"kéo dài từ phía bắc của Giza đến tận phía nam Saqqara. Đây là nơi chôn cất của một gia đình hoàng gia thuộc Vương triều thứ 5, pharaon Sahure cùng Neferirkare Kakai (con trai), Neferefre và Nyuserre Ini (2 người cháu nội). Nhiều hậu phi của các ông cũng có mộ phần tại đây nhưng không tìm thấy xác ướp. Vì vùng Giza gần đó đã được"lấp đầy"bởi những kim tự tháp lớn và các lăng mộ khác thuộc Vương triều thứ 4 khiến các pharaon Vương triều thứ 5 phải tìm một địa điểm khác để xây nơi an nghỉ cho mình.
Abusir nổi tiếng vì là nơi phát hiện ra Cuộn giấy cói Abusir. Theo nhà Ai Cập học người Pháp Nicolas Grimal, đây là cuộn giấy coi quan trọng nhất từ thời Cổ vương quốc. Cuộn giấy này ghi lại những hoạt động cúng bái trong hoàng gia cũng như sự phân công nhiệm vụ của các tư tế, cụ thể là sự kiểm kê những vật phẩm tế lễ trong các phòng kho tại các đền thờ. Các mảnh của cuộn giấy này được tìm thấy tại phức hợp của vua Neferirkare Kakai, Neferefre và hoàng hậu Khentkaus II (mẹ của họ).
Viện Khoa học Ai Cập của Đại học Karl (Cộng hòa Séc) đã tiến hành khai quật tại Abusir từ năm 1976, dẫn đầu bởi Miroslav Bárta.
Nghĩa trang
Có tổng cộng 14 kim tự tháp được tìm thấy tại địa điểm này. Vật liệu xây dựng của các kim tự tháp tại Abusir kém hơn nhiều so với các kim tự tháp của Vương triều thứ 4, có lẽ báo hiệu sự suy yếu quyền lực hoàng gia hoặc một nền kinh tế suy kém dưới thời kỳ này. Những kim tự tháp tại Abusir nhỏ hơn nhiều sơ với những kim tự tháp của các vua tiền nhiệm trước đây và được xây dựng bằng loại đá chất lượng thấp. Tất cả các kim tự tháp chính tại Abusir được xây dựng theo hình dạng của kim tự tháp bậc thang (tương tự của Djoser). Ngay cả kim tự tháp lớn nhất trong số đó, Kim tự tháp Neferirkare, ban đầu được xây dựng dưới dạng kim tự tháp bậc thang và sau đó mới được chuyển sang hình dạng của kim tự tháp chóp nhọn.
Nhiều ngôi mộ của các tư tế và đại thần thuộc các vương triều thứ 3 đến thứ 6 cũng được chôn cất tại đây.:
- Mộ của Ity (triều đại thứ 3)
- Mộ của tư tế Hetepi (triều đại thứ 3)
- Mộ của kiến trúc sư và tư tế Kaaper (triều đại thứ 4)
- Mộ của tư tế Rahotep (triều đại thứ 5)
- Mộ của tư tế Fetekti (triều đại thứ 5)
- Mộ của tể tướng Qar và các con trai (triều đại thứ 6)
- Mộ đá của người đánh xe ngựa Nakhtmin (thời Ramesses II)
nhỏ|Bản đồ khu vực Abusir
Các kim tự tháp
- Kim tự tháp Sahure, nổi tiếng với những phù điêu chạm khắc tinh xảo của nó
- Kim tự tháp Neferirkare, kim tự tháp cao nhất trong các kim tự tháp nơi đây
- Kim tự tháp Neferefre chưa được hoàn thành do nhà vua chết sớm, mang hình dáng của một ngôi mộ mastaba
- Kim tự tháp Niuserre, kim tự tháp hầu như còn nguyên vẹn nhất tại khu vực này
- Kim tự tháp Khentkaus II, vợ của Neferirkare và mẹ của Neferefre và Niuserre
- Kim tự tháp chưa hoàn thành, có lẽ là của vua Shepseskaf (thực ra ngôi mộ chính thức của ông là Mastaba al-Fir'aun). Nền của nó chỉ mới được san phẳng và một cấu hình chữ T mới được đào bên dưới, đã bị bỏ dỡ
- Kim tự tháp Lepsius XXIV gần phía nam Kim tự tháp Niuserre, không rõ của ai nhưng lại tìm được xác ướp đã bị hủy hoại của một phụ nữ chết trẻ.
👁️
2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Abusir** (tiếng Ả Rập: ابو صير; tiếng Ai Cập: _pr wsjr_; tiếng Copt: ⲃⲟⲩⲥⲓⲣⲓ _busiri_; tiếng Hy Lạp cổ đại: Βούσιρις, _"Ngôi nhà hay Đền thờ của thần Osiris"_) là một di chỉ khảo cổ
**Kim tự tháp Neferirkare**, hay _"Ba của Neferirkare"_, được xây dựng bởi pharaon Neferirkare Kakai - thường gọi là Neferirkare - vua thứ ba của Vương triều thứ năm của Ai Cập. Đây là kim
**Kim tự tháp Neferefre**, còn được gọi là **Kim tự tháp Raneferef** là một kim tự tháp chưa hoàn thành của pharaon Neferefre, nằm trong khu nghĩa trang Abusir. Neferefre ở ngôi không lâu thì
**Kim tự tháp Khentkaus II**, được xây dựng tại nghĩa trang Abusir, là lăng mộ của hoàng hậu Khentkaus II, vợ vua Neferirkare Kakai và là mẹ của 2 vị vua kế vị sau này,
**Kim tự tháp Sahure** hay _"Sự tái sinh của linh hồn Ba của Sahure"_, là kim tự tháp đầu tiên được xây tại nghĩa trang Abusir vào khoảng năm 2480 TCN. Đây là lăng mộ
**Lepsius XXIV** là một kim tự tháp nằm trong khu nghĩa trang hoàng gia Abusir tại Ai Cập, giáp phía đông của Kim tự tháp Neferefre và phía nam của Kim tự tháp Khentkaus II.
**Kim tự tháp Nyuserre** (hay **Niuserre**), là một khu phức hợp chôn cất được xây dựng cho pharaon Nyuserre Ini, vua thứ sáu của Vương triều thứ 5 trong lịch sử Ai Cập. Người ta
**Neferefre Isi** (còn được gọi là **Raneferef**, **Ranefer** và tên gọi theo tiếng Hy Lạp là Cherês, _Χέρης_) là một pharaon của Ai Cập cổ đại, ông có thể là vị vua thứ tư nhưng
**Nyuserre Ini** (còn được viết là **Neuserre Ini** hay **Niuserre Ini**, và đôi khi là **Nyuserra**; trong tiếng Hy Lạp tên của ông được gọi là Rathoris, _Ραθούρης_), là một pharaon của Ai Cập cổ
**Neferirkare Kakai** (được biết đến trong tiếng Hy Lạp là Nefercherês, Νεφερχέρης) là một pharaon của Ai Cập cổ đại, ông là vị vua thứ ba của vương triều thứ Năm. Neferirkare là con trai
**Djedkare Isesi** (được biết đến trong tiếng Hy Lạp là **Tancherês**), là một vị pharaon của Ai Cập cổ đại, ông là vị vua thứ tám và cũng là vị vua áp chót của vương
**Sahure** (có nghĩa là "Ngài là người gần gũi với Re") là một pharaon của Ai Cập cổ đại, ông còn là vị vua thứ hai của vương triều thứ năm và đã cai trị
**Shepseskare** hoặc **Shepseskara** (có nghĩa là "Cao quý thay khi là linh hồn của Ra") là một pharaon của Ai Cập cổ đại, ông có thể là vị vua thứ tư hoặc thứ năm của
**Menkauhor Kaiu** (còn được gọi là **Ikauhor**, tiếng Hy Lạp cổ là **Mencherês**, Μεγχερῆς) là một vị pharaon của Ai Cập cổ đại thuộc thời kỳ Cổ vương quốc. Ông là vị vua thứ bảy
**Userkaf** (được biết đến trong Tiếng Hy Lạp cổ đại như là **Usercherês**, **Ούσερχέρης**) là một pharaoh Ai Cập, ông là người sáng lập ra Vương triều thứ 5, ông trị vì từ 7 tới
thumb|upright=1.2|[[Queen Elizabeth II Great Court|Great Court được phát triển vào năm 2001 và bao quanh Phòng đọc.]] **Bảo tàng Anh** là một bảo tàng công cộng dành riêng cho lịch sử loài người, nghệ thuật
**Unas** hoặc **Wenis**, hay còn được phát âm là **Unis** (cách viết theo tiếng Hy Lạp của **Oenas** hoặc **Onnos**), là một pharaon Ai Cập cổ đại, ông là vị vua thứ chín và cũng
**Lepsius XXV** là một kim tự tháp nằm trong khu nghĩa trang hoàng gia Abusir tại Ai Cập, nằm ở phía nam kim tự tháp Lepsius XXIV và kim tự tháp Khentkaus II. Kim tự
Có một cộng đồng nhỏ **người Nhật Bản ở Ai Cập**, chủ yếu là những người nước ngoài đến từ Nhật Bản. Theo Bộ Ngoại giao Nhật Bản, có khoảng 1.051 cư dân Nhật Bản
**Huni**, hay **Hoeni**, (2637 TCN - 2613 TCN) là vị pharaon cuối cùng của vương triều thứ 3 thuộc thời kỳ Cổ Vương Quốc. Theo bản danh sách vua Turin, ông thường được coi là
nhỏ|[[Eva khỏa thân giữa thiên nhiên]] thumb|Ảnh một cậu bé [[thanh thiếu niên từ mặc quần áo đến khỏa thân]]thumb|Bãi [[tắm tiên]] phải|nhỏ|[[Rám nắng|Tắm nắng tại một bãi biển Đức năm 1989.]] **Khỏa thân** hay
**Memphis** (; ) từng là kinh đô của Aneb-Hetch - vùng đầu tiên của Hạ Ai Cập - từ khi thành lập cho đến khoảng năm 2200 trước Công nguyên. Tên của thành phố trong
**Maaibre Sheshi** (cũng là **Sheshy**) là một vị vua của các vùng đất thuộc Ai Cập trong thời kỳ Chuyển tiếp thứ Hai. Vương triều, vị trí trong biên niên sử, khoảng thời gian và
**Quần thể kim tự tháp Giza** (, "các kim tự tháp Giza") là một địa điểm khảo cổ ở bình nguyên Giza, Giza, ngoại ô thủ đô Cairo, Ai Cập. Quần thể các di tích
nhỏ|261x261px|Từ trái qua phải lần lượt là lăng mộ của [[Djoser, Unas, Userkaf]] **Saqqara** (Tiếng Ả Rập: سقارة), còn được viết là **Sakkara** hay **Saccara**, là một khu nghĩa trang của người Ai Cập cổ
**Kim tự tháp Cụt đầu** là một kim tự tháp tại nghĩa trang Saqqara. Nó được gọi là _"Nơi linh thiêng của Menkauhour"_. Vì lẽ đó mà kim tự tháp này rất có thể được
**Khamerernebty A** là con gái của vua Nyuserre Ini của Ai Cập cổ đại từ triều đại thứ 5. Bà đã kết hôn với Ptahshepkes (một tể tướng). Tên của bà có nghĩa là _Ngoại
nhỏ|267x267px| Bức tượng gỗ của Công chúa Khekeretnebti, được tìm thấy trong mastaba của Abousir - Bảo tàng Náprstek ở Prague **Kekheretnebti** hay **Khekeretnebty** là một Công chúa Ai Cập, sống trong triều đại thứ
**Meretnebty** là một vương hậu Ai Cập cổ đại sống vào thời kỳ Vương triều thứ 5, được đặt theo tên của Hai quý bà, một cặp nữ thần bảo vệ pharaon. ## Tiểu sử
**Giả thuyết người Ai Cập Da đen** là giả thuyết cho rằng Ai Cập cổ đại là một nền văn minh phần lớn là người Da đen, vì thuật ngữ này hiện được hiểu theo
|- id="26" | colspan="3" id="27" style="text-align:center; font-size:95%; padding:0.6em 0em 0.6em 0em;" |thế=|giữa|510x510px|Vị trí của Cổ vương quốc
Cổ Vương quốc Ai Cập (khoảng năm 2686 TCN - khoảng năm 2181 TCN), lãnh
**Zawyet El Aryan** () là một thị trấn tại tỉnh Giza, nằm giữa khu Giza và Abusir. ### Kim tự tháp Bắc chưa hoàn thành của Zawyet El Aryan Kim tự tháp chưa hoàn thành
:_Đối với vương hậu cùng tên, xem Khentkaus I và Khentkaus III_ **Khentkaus II** là một vương hậu thuộc Vương triều thứ 5 trong lịch sử Ai Cập cổ đại. ## Tiểu sử trái|nhỏ|205x205px|Những mảnh
:''Đối với các vương hậu cùng tên, xem Khentkaus I và Khentkaus II **Khentkaus III**, hay **Khentakawess III**, là một vương hậu Ai Cập cổ đại sống vào Vương triều thứ 5. ## Tiểu sử
thumb|Một hệ thống đường ống thép cứng và van khóa phức tạp điều chỉnh lưu lượng đến các khu vực khác nhau của [[tòa nhà, với sự ưu tiên rõ ràng cho các đường ống
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Lepsius-Expedition-Cheops-Pyramide.jpg|nhỏ|300x300px|Các thành viên của đoàn thám hiểm người Phổ đến Ai Cập kỷ niệm ngày sinh của Hoàng đế [[Friedrich Wilhelm IV của Phổ|Frederick William IV trên đỉnh Đại kim tự tháp Giza]] **Danh sách
**Karl Richard Lepsius** (tiếng Latinh: _Carolus Richardius Lepsius_) (23 tháng 12 năm 1810 - 10 tháng 7 năm 1884) là một nhà Ai Cập học tiên phong, nhà ngôn ngữ học và nhà khảo cổ
**Taposiris Magna** là một thành phố được thành lập bởi pharaoh Ptolemaios II Philadelphos từ năm 280 đến năm 270 trước Công nguyên. Tên của nó có nghĩa là "lăng mộ của Osiris", mà Plutarchus