✨Kim tự tháp Neferefre

Kim tự tháp Neferefre

Kim tự tháp Neferefre, còn được gọi là Kim tự tháp Raneferef là một kim tự tháp chưa hoàn thành của pharaon Neferefre, nằm trong khu nghĩa trang Abusir. Neferefre ở ngôi không lâu thì qua đời khi tầm hơn 20 tuổi, và vì thế kim tự tháp của ông nhanh chóng được xây thành một ngôi mộ mastaba. Mặc dù chưa được hoàn thành, khu phức hợp của ông vẫn tiếp tục được mở rộng bởi người kế vị của nhà vua.

Neferefre đã đặt tên cho kim tự tháp của mình là nTri bAw nfrf ra ("Uy quyền thiêng liêng của Neferefre" hay "Linh hồn Ba thiêng liêng của Neferefre"). Kim tự tháp của Neferefre chỉ cao khoảng 7 mét, với chiều dài các cạnh là 65 mét. Khu phức hợp của kim tự tháp nằm ở tận phía nam của Abusir, trở thành phức hợp nằm xa nhất so với tất cả các kim tự tháp trong nghĩa trang.

Lịch sử khảo cổ

Nhiều nhà khảo cổ đã khai quật nơi này, bao gồm John Shae Perring (1835 - 1837), Karl Richard Lepsius (1842 - 1846), Jacques de Morgan và Ludwig Borchardt cùng nhiều người khác. Một số người đồng tình rằng đây là kim tự tháp của Neferefre, số khác thì lại gán nó cho Shepseskare nhưng một số khác vẫn để ngỏ về vấn đề chủ nhân của kim tự tháp này. Lepsius đã gọi nó là Lepsius XXVI trong danh sách các kim tự tháp của ông.

Ludwig Borchardt đã thử đào một đường hầm kéo dài từ phía bắc đến trung tâm khu lăng mộ. Ông nghĩ rằng, nếu đây là một ngôi mộ đã hoàn thành, nó phải có một hành lang dẫn vào phòng chôn cất. Tuy nhiên, cuộc thử nghiệm thất bại, và Borchardt đã kết luận rằng đây là một công trình chưa hoàn thiện.

Vào năm 1974, nhóm nghiên cứu người Séc đến từ trường Đại học Charles đã tiến hành một cuộc khai quật có hệ thống. Họ phát hiện một khối đá bên trong lõi kim tự tháp có ghi tên bằng mực đen của Neferefre. Trước đó, họ cũng phát hiện được một mảnh giấy cói tại đền thờ pharaon Neferirkare, cha của Neferefre, ghi lại rằng, có ít nhất một ngôi đền của Neferefre tại Abusir, và có lẽ rất gần với khu phức hợp của Neferirkare.

Cuộc nghiên cứu vẫn tiếp tục cho đến khoảng thập niên 1980. Trong đống đổ nát, họ tìm được những mảnh vỡ của một cỗ quan tài bằng đá granite hồng cùng với bàn tay trái của một xác ướp. Các kết quả điều tra cho thấy, bàn tay này thuộc về một người đàn ông đã chết trong độ tuổi từ 20 - 23. Kết hợp các bằng chứng khảo cổ học và giải phẫu này, Neferefre gần như chắc chắn là chủ nhân của kim tự tháp này.

Hai con dấu bằng đất sét mang tên Horus của Shepseskare được phát hiện trong đền thờ của Neferefre trong quá trình khai quật của đoàn nghiên cứu người Séc. Nếu con dấu này chỉ ra rằng, Shepseskare đã cho hoàn công ngôi mộ của Neferefre, thì Shepseskare sẽ là người kế nhiệm trực tiếp của Neferefre và không phải là Nyuserre.

Khu phức hợp kim tự tháp

nhỏ|279x279px|Sơ đồ khu phức hợp chôn cất của pharaon [[Neferefre]] Do cái chết đột ngột của Neferefre, kim tự tháp của ông đã nhanh chóng chuyển thành một ngôi mộ mastaba và một đền thờ tang lễ được xây bằng gạch bùn cạnh bên (không phải bằng đá vôi như ở các kim tự tháp khác). Các vua kế tục của ông đã tiếp tục cho mở rộng và hoàn thiện khu phức hợp này, nhưng vẫn giữ nguyên hình dáng ngôi mộ của ông. Văn thư trong những cuộn giấy cói tại đền thờ đều gọi kim tự tháp của Neferefre là "gò đất".

Thực tế, một lớp đất sét dày vài cm đã được phủ lên mộ của Neferefre, lâu dần, chúng khô lại và trở thành một lớp đá thô, thực sự trông như một gò đất nổi lên giữa sa mạc. Hơn nữa, do bản chất chưa hoàn thành của khu phức hợp mà nó trở nên ít hấp dẫn đối với những tên trộm mộ và khai thác đá (mặc dù chúng cũng gây ra một thiệt hại đáng kể). nhỏ|208x208px|Bên trong kim tự tháp

Kim tự tháp

Cũng như những kim tự tháp khác, lối vào nằm ở ngay nhà nguyện phía bắc. Hành lang dẫn vào không được thẳng, lệch về phía phòng ngoài, nằm ngay trung tâm của kim tự tháp. Cửa chặn bằng đá granite hồng ở phía tây của phòng ngoài dẫn đến phòng chính, cả hai phòng được lát đá vôi trắng. Viên đá có ghi tên Neferefre cũng được tim thấy tại đây.

Nyuserre đã cho mở rộng ngôi đền này dưới thời trị vì của ông. Một điều đặc biệt là cấu trúc của ngôi đền được xây hoàn toàn bằng gạch bùn. Mặc dù ít bền hơn đá, nó lại ít tốn kém và xây dựng với đỡ mất thời gian hơn. Nhiều căn phòng chứa đồ cũng được xây dựng thêm.

Lối vào ngôi đền mới dẫn tới một tiền sảnh rộng với 20 cây cột gỗ hình dạng hoa sen. Những mảnh vỡ từ mái trần cho thấy chúng được sơn màu xanh và điểm những ngôi sao vàng. Những mảnh vỡ từ những bức tượng của ông tại đây cho thấy chúng được làm từ những vật liệu khác nhau như đá bazan, thạch anh, đá vôi, diorit và gỗ. Chỉ có 6 bức tượng hầu như là còn nguyên vẹn. Trong đó có một bức tượng nhỏ bằng thạch anh hồng của nhà vua được cho là đẹp nhất. Trong thời gian cai trị của Djedkare, các tư tế đã cho xây những căn phòng gạch bên trong tiền sảnh, nhưng đã không còn sau khi vương triều kết thúc.

Một đền thờ để tiến hành những nghi lễ giết mổ, được gọi là "Ngôi đền của những con dao mổ", ở phía đông nam kim tự tháp. Nơi đây, những con vật sẽ bị giết để đem đi hiến tế, thịt của chúng sẽ được phơi khô trên tầng mái, sau đó được cất giữ trong những phòng kho ở phía bắc. Sử sách ghi lại, có hơn 100 con bò đực đã bị giết để làm tế phẩm cho nhà vua. Ngôi đền này đã bị phá hủy vào thời kỳ Vương triều thứ 6.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Kim tự tháp Neferefre**, còn được gọi là **Kim tự tháp Raneferef** là một kim tự tháp chưa hoàn thành của pharaon Neferefre, nằm trong khu nghĩa trang Abusir. Neferefre ở ngôi không lâu thì
**Lepsius XXIV** là một kim tự tháp nằm trong khu nghĩa trang hoàng gia Abusir tại Ai Cập, giáp phía đông của Kim tự tháp Neferefre và phía nam của Kim tự tháp Khentkaus II.
**Kim tự tháp Neferirkare**, hay _"Ba của Neferirkare"_, được xây dựng bởi pharaon Neferirkare Kakai - thường gọi là Neferirkare - vua thứ ba của Vương triều thứ năm của Ai Cập. Đây là kim
**Kim tự tháp Nyuserre** (hay **Niuserre**), là một khu phức hợp chôn cất được xây dựng cho pharaon Nyuserre Ini, vua thứ sáu của Vương triều thứ 5 trong lịch sử Ai Cập. Người ta
**Kim tự tháp Khentkaus II**, được xây dựng tại nghĩa trang Abusir, là lăng mộ của hoàng hậu Khentkaus II, vợ vua Neferirkare Kakai và là mẹ của 2 vị vua kế vị sau này,
**Neferefre Isi** (còn được gọi là **Raneferef**, **Ranefer** và tên gọi theo tiếng Hy Lạp là Cherês, _Χέρης_) là một pharaon của Ai Cập cổ đại, ông có thể là vị vua thứ tư nhưng
**Nyuserre Ini** (còn được viết là **Neuserre Ini** hay **Niuserre Ini**, và đôi khi là **Nyuserra**; trong tiếng Hy Lạp tên của ông được gọi là Rathoris, _Ραθούρης_), là một pharaon của Ai Cập cổ
**Shepseskare** hoặc **Shepseskara** (có nghĩa là "Cao quý thay khi là linh hồn của Ra") là một pharaon của Ai Cập cổ đại, ông có thể là vị vua thứ tư hoặc thứ năm của
**Abusir** (tiếng Ả Rập: ابو صير; tiếng Ai Cập: _pr wsjr_; tiếng Copt: ⲃⲟⲩⲥⲓⲣⲓ _busiri_; tiếng Hy Lạp cổ đại: Βούσιρις, _"Ngôi nhà hay Đền thờ của thần Osiris"_) là một di chỉ khảo cổ
**Neferirkare Kakai** (được biết đến trong tiếng Hy Lạp là Nefercherês, Νεφερχέρης) là một pharaon của Ai Cập cổ đại, ông là vị vua thứ ba của vương triều thứ Năm. Neferirkare là con trai
**Menkauhor Kaiu** (còn được gọi là **Ikauhor**, tiếng Hy Lạp cổ là **Mencherês**, Μεγχερῆς) là một vị pharaon của Ai Cập cổ đại thuộc thời kỳ Cổ vương quốc. Ông là vị vua thứ bảy
**Userkaf** (được biết đến trong Tiếng Hy Lạp cổ đại như là **Usercherês**, **Ούσερχέρης**) là một pharaoh Ai Cập, ông là người sáng lập ra Vương triều thứ 5, ông trị vì từ 7 tới
**Sahure** (có nghĩa là "Ngài là người gần gũi với Re") là một pharaon của Ai Cập cổ đại, ông còn là vị vua thứ hai của vương triều thứ năm và đã cai trị
**Djedkare Isesi** (được biết đến trong tiếng Hy Lạp là **Tancherês**), là một vị pharaon của Ai Cập cổ đại, ông là vị vua thứ tám và cũng là vị vua áp chót của vương
|- id="26" | colspan="3" id="27" style="text-align:center; font-size:95%; padding:0.6em 0em 0.6em 0em;" |thế=|giữa|510x510px|Vị trí của Cổ vương quốc
Cổ Vương quốc Ai Cập (khoảng năm 2686 TCN - khoảng năm 2181 TCN), lãnh
:_Đối với vương hậu cùng tên, xem Khentkaus I và Khentkaus III_ **Khentkaus II** là một vương hậu thuộc Vương triều thứ 5 trong lịch sử Ai Cập cổ đại. ## Tiểu sử trái|nhỏ|205x205px|Những mảnh
:_Đối với vương hậu cùng tên, xem Khentkaus II và Khentkaus III_ **Khentkaus I** là một vương hậu thuộc những năm cuối cùng của giai đoạn Vương triều thứ 4 trong lịch sử Ai Cập