✨Kim tự tháp Khentkaus II

Kim tự tháp Khentkaus II

Kim tự tháp Khentkaus II, được xây dựng tại nghĩa trang Abusir, là lăng mộ của hoàng hậu Khentkaus II, vợ vua Neferirkare Kakai và là mẹ của 2 vị vua kế vị sau này, Neferefre và Nyuserre Ini. Kim tự tháp này đã bị hư hỏng hoàn toàn, chủ yếu là do nạn trộm cắp đá và sự xói mòn.

Lịch sử khảo cổ

Nhà Ai Cập học người Đức Ludwig Borchardt là người đầu tiên khám phá ra kim tự tháp của Khentkaus II. Ban đầu, Borchardt nghĩ rằng, đây chỉ là một ngôi mộ mastaba đôi thông thường và không thực sự nghiên cứu sâu về nó. Chỉ khi được khai quật một lần nữa vào khoảng năm 1975 - 1980 bởi nhóm khảo cổ đến từ Cộng hòa Séc, dẫn đầu là Miroslav Verner, nó mới được xác định là một phức hợp kim tự tháp nhưng với quy mô nhỏ.

Qua quá trình nghiên cứu, Verner đã tìm ra được tên chủ nhân của kim tự tháp, là một hoàng hậu tên là Khentkaus. Vì ngôi mộ kim tự tháp này được xây tại Abusir - nghĩa trang của tầng lớp hoàng gia và quý tộc thuộc Vương triều thứ 5, nên không ai khác có cái tên Khentkaus ngoài vợ của Neferirkare Kakai, Khentkaus II (một bà hoàng hậu khác ở Vương triều thứ 4 cũng tên là Khentkaus I, là vợ của Shepseskaf).

Một dòng chữ trên tường đề cập đến hoàng hậu với danh hiệu "Vợ của Vua". Sau đó, công việc xây mộ được tiếp tục, nhưng lần này bà được gọi là "Mẹ của Vua", ở đây ám chỉ đến con trai của bà, pharaon Nyuserre Ini.

Cấu trúc

nhỏ|Sơ đồ khu phức hợp. Phần xám nhạt: được xây dựng đầu tiên dưới thời vua [[Neferirkare Kakai. Phần xám đậm: được xây sau này]] Ban đầu, khu phức hợp được dự tính sẽ xây trong một bờ tường bao bằng những khối đá vôi. Sau này, khi phức hợp được mở rộng, những viên gạch này sau đó được tháo dỡ vào đem đi xây kim tự tháp vệ tinh trong khu phức hợp của bà; tường bao sau đó được xây bằng gạch bùn. Nhiều mảnh sứ xanh Ai Cập từ những viên đá khảm và những thanh nhỏ được tìm thấy xung quanh đền có mang tên của hoàng hậu.

Ngôi đền đầu tiên bằng đá vôi có cổng vào ở phía đông, có 2 hàng cột chạy dọc hai bên, dẫn vào sân trong. Các cột bằng đá vôi được sơn đỏ, trên đó khắc tên của Khentkaus. Sân có tám cái cột đỡ bằng đá vôi, tại đây chứa 16 bức tượng thờ của hoàng hậu dựa vào những mảnh giấy từ cuộn giấy cói Abusir; ngoài ra sảnh thờ ở đây có dựng một bệ thờ, một cửa giả bằng đá granite hồng và nhiều phòng kho. Tất cả những cột và tường đều được trang trí bởi các phù điêu mô tả một nữ hoàng đội vương miện rắn Uraeus trên đầu, điều này cho thấy có thể Khentkaus đã có một triều đại riêng cho mình, khi con bà còn quá nhỏ để chấp chính. Những cảnh vẽ khác mô tả những bữa ăn, những đám cuộc diễu hành và hình ảnh gia đình hoàng gia của hoàng hậu. Có một cầu thang dẫn lên tầng mái, có thể là nơi thực hiện những nghi lễ liên quan đến thiên văn.

Ở phần mở rộng sau này của ngôi đền, được xây dưới thời con bà, cổng vào cũng nằm ở hướng đông và có hai hàng cột đá vôi được trang trí tương tự ở ngôi đền đầu tiên. Nhiều phòng kho và nơi ở của các tư tế được xây thêm. Gạch bùn được dùng để xây dựng các cấu trúc này. trái|nhỏ|Tàn tích bên trong của ngôi đền tang lễ

Kim tự tháp vệ tinh

Kim tự tháp vệ tinh có chiều dài các cạnh là 2,5 mét, cao 4,5 mét và dốc 60°. Kim tự tháp này được xây bằng đá vôi từ bức tường bao đầu tiên, ngày nay nó đã bị hư hỏng hoàn toàn. Không phát hiện một cấu trúc ngầm nào tại đây.

Khentkaus II có thể là hoàng hậu đầu tiên mà phức hợp lăng mộ của bà được xây một kim tự tháp vệ tinh. Vì vậy, nhiều người vẫn nhận định rằng, hoàng hậu Khentkaus đã có một khoảng thời gian cai trị độc lập, là nữ hoàng chứ không đơn thuần là một hoàng hậu.

Kim tự tháp chính

Kim tự tháp có các cạnh dài 25 mét và dốc 52°. Kim tự tháp được ước tính ban đầu có chiều cao khoảng 17 mét, nhưng ngày nay nó chỉ còn là một đống gạch vụn cao 4 mét. 3 bậc lõi của kim tự tháp được xây bằng những khối đá vôi cỡ nhỏ, kết dính bằng vữa đất sét, sau đó được phủ một lớp vôi trắng; đỉnh được xây từ đá granite màu xám đen, mảnh vỡ của nó được tìm thấy trong đống tàn dư. Những vật liệu này được lấy từ những vật liệu còn dư sau khi xây xong kim tự tháp cho vua Neferirkare.

Lối vào của kim tự tháp nằm ở phía bắc, nơi có một nhà nguyện nhỏ đã biến mất hoàn toàn, chỉ còn lại rất ít dấu vết của nó. Hành lang lát đá vôi, chạy thẳng một đường xuống phòng chôn cất nhưng cũng hơi lệch về phía đông. Phòng chôn cất cũng được xây bằng đá vôi trắng, trần phẳng, bị chặn bởi một cửa đá đơn giản. Rất ít vật dụng được tìm thấy trong phòng, chủ yếu là những mảnh vỡ của cỗ quan tài bằng đá granite hồng, những mảnh vải quấn xác ướp cùng những cái hũ thạch cao đã bị vỡ có mang tên của Khentkaus. Điều này chứng tỏ rằng, hoàng hậu đã được an táng tại nơi đây, nhưng không tìm thấy được xác ướp của bà.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Kim tự tháp Khentkaus II**, được xây dựng tại nghĩa trang Abusir, là lăng mộ của hoàng hậu Khentkaus II, vợ vua Neferirkare Kakai và là mẹ của 2 vị vua kế vị sau này,
**Lepsius XXIV** là một kim tự tháp nằm trong khu nghĩa trang hoàng gia Abusir tại Ai Cập, giáp phía đông của Kim tự tháp Neferefre và phía nam của Kim tự tháp Khentkaus II.
**Lepsius XXV** là một kim tự tháp nằm trong khu nghĩa trang hoàng gia Abusir tại Ai Cập, nằm ở phía nam kim tự tháp Lepsius XXIV và kim tự tháp Khentkaus II. Kim tự
**Kim tự tháp Neferirkare**, hay _"Ba của Neferirkare"_, được xây dựng bởi pharaon Neferirkare Kakai - thường gọi là Neferirkare - vua thứ ba của Vương triều thứ năm của Ai Cập. Đây là kim
:_Đối với vương hậu cùng tên, xem Khentkaus I và Khentkaus III_ **Khentkaus II** là một vương hậu thuộc Vương triều thứ 5 trong lịch sử Ai Cập cổ đại. ## Tiểu sử trái|nhỏ|205x205px|Những mảnh
:_Đối với vương hậu cùng tên, xem Khentkaus II và Khentkaus III_ **Khentkaus I** là một vương hậu thuộc những năm cuối cùng của giai đoạn Vương triều thứ 4 trong lịch sử Ai Cập
**Abusir** (tiếng Ả Rập: ابو صير; tiếng Ai Cập: _pr wsjr_; tiếng Copt: ⲃⲟⲩⲥⲓⲣⲓ _busiri_; tiếng Hy Lạp cổ đại: Βούσιρις, _"Ngôi nhà hay Đền thờ của thần Osiris"_) là một di chỉ khảo cổ
**Menkaure**, hay **Menkaura** hoặc _Men-Kau-Re_ (còn gọi là **Mykerinus** theo tiếng Latin, **Mykerinos** theo tiếng Hy Lạp và **Menkheres** theo Manetho), là một vị pharaon của Vương triều thứ 4 thuộc thời kì Cổ vương
**Shepseskaf** là vị pharaon thứ sáu và cũng là vị vua cuối cùng của vương triều thứ 4 thuộc thời kỳ Cổ Vương quốc của Ai Cập. Ông đã cai trị một triều đại kéo
**Nyuserre Ini** (còn được viết là **Neuserre Ini** hay **Niuserre Ini**, và đôi khi là **Nyuserra**; trong tiếng Hy Lạp tên của ông được gọi là Rathoris, _Ραθούρης_), là một pharaon của Ai Cập cổ
**Neferirkare Kakai** (được biết đến trong tiếng Hy Lạp là Nefercherês, Νεφερχέρης) là một pharaon của Ai Cập cổ đại, ông là vị vua thứ ba của vương triều thứ Năm. Neferirkare là con trai
**Neferefre Isi** (còn được gọi là **Raneferef**, **Ranefer** và tên gọi theo tiếng Hy Lạp là Cherês, _Χέρης_) là một pharaon của Ai Cập cổ đại, ông có thể là vị vua thứ tư nhưng
**Userkaf** (được biết đến trong Tiếng Hy Lạp cổ đại như là **Usercherês**, **Ούσερχέρης**) là một pharaoh Ai Cập, ông là người sáng lập ra Vương triều thứ 5, ông trị vì từ 7 tới
**Menkauhor Kaiu** (còn được gọi là **Ikauhor**, tiếng Hy Lạp cổ là **Mencherês**, Μεγχερῆς) là một vị pharaon của Ai Cập cổ đại thuộc thời kỳ Cổ vương quốc. Ông là vị vua thứ bảy
**Shepseskare** hoặc **Shepseskara** (có nghĩa là "Cao quý thay khi là linh hồn của Ra") là một pharaon của Ai Cập cổ đại, ông có thể là vị vua thứ tư hoặc thứ năm của
**Djedkare Isesi** (được biết đến trong tiếng Hy Lạp là **Tancherês**), là một vị pharaon của Ai Cập cổ đại, ông là vị vua thứ tám và cũng là vị vua áp chót của vương
**Khuit II** là vợ của vua Teti, pharaoh đầu tiên của triều đại thứ sáu của Ai Cập. ## Tiểu sử Khuit có thể là người vợ hoàng gia nổi bật đầu tiên từ triều
**Teti**, còn được biết đến với tên gọi ít phổ biến hơn là **Othoes**, được đọc là **Tata** và phát âm là **Atat** hay **Athath**, là vị pharaon đầu tiên thuộc vương triều thứ Sáu