✨Kim tự tháp Neferirkare

Kim tự tháp Neferirkare

Kim tự tháp Neferirkare, hay "Ba của Neferirkare", được xây dựng bởi pharaon Neferirkare Kakai - thường gọi là Neferirkare - vua thứ ba của Vương triều thứ năm của Ai Cập. Đây là kim tự tháp lớn nhất và cũng là kim tự tháp nằm ở vị trí cao nhất tại khu nghĩa trang Abusir. Kim tự tháp của Neferirkare đóng một vai trò quan trọng trong việc tìm ra cuộn giấy cói Abusir.

Kim tự tháp ban đầu được dự tính xây dựng theo cấu trúc bậc thang với 6 bậc. Tuy nhiên, vì một lý do nào đó, ngay sau khi xây xong bậc thứ nhất, các kiến trúc sư đã cho mở rộng kim tự tháp và chuyển xây theo mô hình một kim tự tháp hình chóp. Lõi của kim tự tháp mới này có 8 bậc, những bậc ở bên dưới được phủ một lớp đá granite trong khi những bậc trên lại không được như vậy. Ngày nay kim tự tháp chỉ còn lại 4 bậc, với chiều cao đo được là hơn 40 mét (trong khi chiều cao dự tính của nó lên đến 72,8 mét), các cạnh dài 105 mét và có độ nghiêng là 54°30'.

Đang trong quá trình xây dựng kim tự tháp thì Ngay cả tới khi Neferirkare Kakai băng hà, kim tự tháp của ông vẫn chưa được xây xong. Công việc này sau đó được hoàn thành bởi những người kế nhiệm và là con trai của Neferirkare, Neferefre và Nyuserre Ini. Tuy nhiên, những cấu trúc được xây dựng sau này được hoàn thành một cách khá vội vàng, vật liệu xây dựng cũng được chọn những thứ rẻ hơn.

Chính vì điều này mà kim tự tháp của Neferirkare lại thiếu đi 3 cấu trúc cơ bản của một phức hợp, đó là đền thung lũng, đường đắp cao và kim tự tháp vệ tinh. Phần móng của đền thung lũng và đường đắp cao của Neferirkare đã được hợp nhất với phức hợp của Nyuserre sau khi vị vua này tiếp quản công trình.

Xung quanh phức hợp của Neferirkare là những lăng mộ kim tự tháp của các thành viên trong hoàng gia, bao gồm phức hợp của Sahure (cha của Neferirkare), Neferefre, Nyuserre (2 người con trai của Neferirkare) và Khentkaus II (hoàng hậu chính thất của Neferirkare, mẹ của 2 vua kế nhiệm ông). Tất cả những công trình kể trên đều được hoàn thành dưới thời trị vì của Nyuserre.

Lịch sử khảo cổ

trái|nhỏ|Mô hình phức hợp kim tự tháp của vua [[Neferirkare Kakai]] Năm 1838, nhà Ai Cập học người Anh John Shae Perring đã tìm thấy lối vào các kim tự tháp của Sahure, Neferirkare và Nyuserre. 5 năm sau, Karl Richard Lepsius đã đánh số thứ tự cho kim tự tháp này là XXI. Năm 1902, nhà Ai Cập học người Đức Ludwig Borchardt đã tái khảo sát các kim tự tháp Abusir và phát hiện ra được sự thông nhau giữa các đền đài qua con đường đắp cao. Một nhóm các nhà khảo cổ đến từ Đại học Charles (Cộng hòa Séc) cũng tiến hành khai quật nơi này vào những năm 1960.

Cuộn giấy cói Abusir

Một phát hiện quan trọng đó là việc tìm ra những mảnh giấy của cuộn giấy cói Abusir bên trong các phòng kho ở đền thờ tang lễ của Neferirkare. Theo nhà Ai Cập học người Pháp Nicolas Grimal, đây là cuộn giấy coi quan trọng nhất từ thời Cổ vương quốc.

Những mẩu giấy đầu tiên của cuộn giấy được phát hiện bởi những người đào lậu vào năm 1893 tại Abu Gorab, sau đó đem bán ra thị trường cổ vật. Nhà Ai Cập học người Đức Ludwig Borchardt cũng đã tìm ra thêm nhiều mẩu giấy khác từ nơi mà những tên đào lậu đã tìm được, trong khi nhà Ai Cập học người Pháp Paule Posener-Kriéger tìm thấy những mẩu khác ở bên trong đền thờ của vua Neferirkare.

Cuộn giấy này ghi lại những hoạt động cúng bái trong hoàng gia cũng như sự phân công nhiệm vụ của các tư tế, theo đó là sự kiểm kê những vật phẩm tế lễ trong các phòng kho tại các đền thờ. Nhiều phần của cuộn giấy này được tìm thấy tại phức hợp của vua Neferefre và hoàng hậu Khentkaus II.

Cấu trúc phức hợp

Bao quanh phức hợp là một bức tường gạch bùn, mặc dù một số đoạn đã không còn nhìn thấy ngày nay. Và bởi vì không có một ngôi đền thung lũng nào được xây dựng nên một dãy nhà bằng gạch bùn được xây ở phía nam để dành cho các tư tế. Trong khi khu vực bên trong được xây bằng đá, những phần còn lại của đền tang lễ lại được dựng bằng gạch bùn và gỗ, những vật liệu rẻ tiền và nhanh chóng hư hỏng. Điều này dẫn đến phần lớn ngôi đền bị xói mòn, mục rữa trước mưa và gió, nơi mà đáng lý ra phải xây bằng đá sẽ tạo độ vững chắc hơn.

Hàng lang dẫn vào đền và khu vực tiền sảnh được xây bằng gạch bùn trên nền đất sét, được dựng rất nhiều các trụ cột bằng gỗ, được trang trí theo hình dạng một búp sen.

Nhiều mảnh vỡ của các phù điêu được tìm thấy rải rác trong khu vực đền thờ, trên đó khắc tên và hình ảnh của vua Neferirkare cùng chính thất Khentkaus II và con trai cả, vua Neferefre.

Ngoài 5 pho tượng đá được đặt trong 5 hốc tại nhà nguyện, cuộn giấy cói còn nhắc đến bốn con thuyền đưa tang của nhà vua được chôn trong khu phức hợp này. Theo đó, các nhà khảo cổ đã tìm được hai con thuyền nằm trong những phòng kho đã được niêm ấn, hai con thuyền còn lại nằm ở 2 phía bắc-nam của khu vực sân trong của kim tự tháp.

Lối vào kim tự tháp nằm ở mặt bắc, nối với một hành lang xây bằng đá vôi dài 4 mét dẫn xuống một tiền sảnh cách kim tự tháp 2,5 mét. Từ đây, đi một đoạn nữa sẽ gặp một cửa chặn bằng đá granite. Hành lang thứ hai sau đó chia làm 2 ngả rẽ, nhưng đều quay về phòng ngoài ở phía đông, thông với phòng chôn cất.

Các nhà khảo cổ vẫn không phát hiện một dấu hiệu nào là nhà vua đã được chôn tại đây, bởi vì không tìm thấy xác ướp hay cỗ quan tài nào cả. Phòng chôn cất đã bị hư hỏng hoàn toàn, chịu chung số phận như bao kim tự tháp khác, vì thế cuộc khai quật không thể tiếp tục được thêm.

Các lăng mộ hoàng gia

trái|nhỏ|Kim tự tháp của vua [[Sahure]]

Kim tự tháp của Sahure

Kim tự tháp này được xây cho pharaon Sahure, cha của Neferirkare, là kim tự tháp đầu tiên được xây tại nghĩa trang Abusir. Nó có tên là "Sự tái sinh của linh hồn Ba của Sahure". Kim tự tháp này cao 48 mét, các cạnh dài khoảng 78,5 mét và dốc khoảng 50°. Cả phòng mộ lẫn phòng ngoài của kim tự tháp đều bị thiệt hại nghiêm trọng, và trong đống tàn dư đó, chỉ tìm được đúng một mảnh vỡ của cỗ quan tài bằng đá bazan.

Cả hai nhà khảo cổ Maragioglio và Rinaldi đã không dám trò chuyện với nhau trong lúc khai quật bên dưới đó vì họ sợ rằng tiếng vang sẽ làm căn phòng sụp đổ bất cứ lúc nào.

Kim tự tháp của Neferefre

Đây là một kim tự tháp chưa được hoàn thành của pharaon Neferefre, con trai cả của Neferirkare. Neferefre qua đời khi còn rất trẻ, chỉ mới hơn 20 tuổi, và vì thế kim tự tháp của ông nhanh chóng được xây thành một ngôi mộ mastaba. Việc này được thực hiện dưới triều vua Shepseskare và Neferirkare. Ngôi mộ của ông được gọi là "Uy quyền thiêng liêng của Neferefre". nhỏ|Kim tự tháp của [[Nyuserre Ini (trái) và Neferirkare Kakai (phải)]]

Kim tự tháp của Nyuserre

Tên gọi của phức hợp kim tự tháp này là "Nơi ở vĩnh hằng của Nyuserre", là lăng mộ của pharaon Nyuserre Ini, con trai thứ hai của Neferirkare. Kim tự tháp của ông nằm giữa phức hợp kim tự tháp của ông nội và cha. Điều này đã cho phép Nyuserre nối con đường đắp cao còn đang dang dở của Neferirkare vào phức hợp của mình, nhưng phần đất xây dựng của Nyuserre bị thu hẹp đi khá nhiều.

Kim tự tháp của Khentkaus II

Kim tự tháp này ban đầu được cho là một mastaba thông thường do cấu trúc đã bị đổ nát của nó. Mãi đến những năm 1970, nhóm nghiên cứu đến từ Cộng hòa Séc mới xác định rằng, đây là một lăng mộ kim tự tháp của vợ vua Neferirkare, Khentkaus II. Khentkaus được chứng thực là vị hôn phối của Neferirkare dựa vào một khối đá vôi tại khu phức hợp của ông. Bà cũng xuất hiện nhiều trên những bức phù điêu cùng với các thành viên hoàng gia trên mộ của con trai là Neferefre.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Kim tự tháp Neferirkare**, hay _"Ba của Neferirkare"_, được xây dựng bởi pharaon Neferirkare Kakai - thường gọi là Neferirkare - vua thứ ba của Vương triều thứ năm của Ai Cập. Đây là kim
**Kim tự tháp Nyuserre** (hay **Niuserre**), là một khu phức hợp chôn cất được xây dựng cho pharaon Nyuserre Ini, vua thứ sáu của Vương triều thứ 5 trong lịch sử Ai Cập. Người ta
**Kim tự tháp Khentkaus II**, được xây dựng tại nghĩa trang Abusir, là lăng mộ của hoàng hậu Khentkaus II, vợ vua Neferirkare Kakai và là mẹ của 2 vị vua kế vị sau này,
**Kim tự tháp Neferefre**, còn được gọi là **Kim tự tháp Raneferef** là một kim tự tháp chưa hoàn thành của pharaon Neferefre, nằm trong khu nghĩa trang Abusir. Neferefre ở ngôi không lâu thì
**Neferirkare Kakai** (được biết đến trong tiếng Hy Lạp là Nefercherês, Νεφερχέρης) là một pharaon của Ai Cập cổ đại, ông là vị vua thứ ba của vương triều thứ Năm. Neferirkare là con trai
:_Đối với vương hậu cùng tên, xem Khentkaus I và Khentkaus III_ **Khentkaus II** là một vương hậu thuộc Vương triều thứ 5 trong lịch sử Ai Cập cổ đại. ## Tiểu sử trái|nhỏ|205x205px|Những mảnh
**Neferefre Isi** (còn được gọi là **Raneferef**, **Ranefer** và tên gọi theo tiếng Hy Lạp là Cherês, _Χέρης_) là một pharaon của Ai Cập cổ đại, ông có thể là vị vua thứ tư nhưng
**Abusir** (tiếng Ả Rập: ابو صير; tiếng Ai Cập: _pr wsjr_; tiếng Copt: ⲃⲟⲩⲥⲓⲣⲓ _busiri_; tiếng Hy Lạp cổ đại: Βούσιρις, _"Ngôi nhà hay Đền thờ của thần Osiris"_) là một di chỉ khảo cổ
**Meretnebty** là một vương hậu Ai Cập cổ đại sống vào thời kỳ Vương triều thứ 5, được đặt theo tên của Hai quý bà, một cặp nữ thần bảo vệ pharaon. ## Tiểu sử
**Shepseskaf** là vị pharaon thứ sáu và cũng là vị vua cuối cùng của vương triều thứ 4 thuộc thời kỳ Cổ Vương quốc của Ai Cập. Ông đã cai trị một triều đại kéo
**Nyuserre Ini** (còn được viết là **Neuserre Ini** hay **Niuserre Ini**, và đôi khi là **Nyuserra**; trong tiếng Hy Lạp tên của ông được gọi là Rathoris, _Ραθούρης_), là một pharaon của Ai Cập cổ
**Shepseskare** hoặc **Shepseskara** (có nghĩa là "Cao quý thay khi là linh hồn của Ra") là một pharaon của Ai Cập cổ đại, ông có thể là vị vua thứ tư hoặc thứ năm của
**Sahure** (có nghĩa là "Ngài là người gần gũi với Re") là một pharaon của Ai Cập cổ đại, ông còn là vị vua thứ hai của vương triều thứ năm và đã cai trị
**Userkaf** (được biết đến trong Tiếng Hy Lạp cổ đại như là **Usercherês**, **Ούσερχέρης**) là một pharaoh Ai Cập, ông là người sáng lập ra Vương triều thứ 5, ông trị vì từ 7 tới
|- id="26" | colspan="3" id="27" style="text-align:center; font-size:95%; padding:0.6em 0em 0.6em 0em;" |thế=|giữa|510x510px|Vị trí của Cổ vương quốc
Cổ Vương quốc Ai Cập (khoảng năm 2686 TCN - khoảng năm 2181 TCN), lãnh
:_Đối với vương hậu cùng tên, xem Khentkaus II và Khentkaus III_ **Khentkaus I** là một vương hậu thuộc những năm cuối cùng của giai đoạn Vương triều thứ 4 trong lịch sử Ai Cập
**Huni**, hay **Hoeni**, (2637 TCN - 2613 TCN) là vị pharaon cuối cùng của vương triều thứ 3 thuộc thời kỳ Cổ Vương Quốc. Theo bản danh sách vua Turin, ông thường được coi là
**Djedkare Isesi** (được biết đến trong tiếng Hy Lạp là **Tancherês**), là một vị pharaon của Ai Cập cổ đại, ông là vị vua thứ tám và cũng là vị vua áp chót của vương
**Raneb** hay **Nebra** là tên Horus của vị vua thứ hai thuộc Vương triều thứ hai của Ai Cập. Năm cai trị của ông không được biết chính xác: _Danh sách Vua Turin_ không cho
nhỏ|Sách nhỏ|Một cuốn sách ghép bằng [[tre (bản chép lại của Binh pháp Tôn Tử) của Trung Quốc trong bộ sưu tập của Học viện California]] nhỏ|Sách đồng của vương triều [[nhà Nguyễn (thời vua