✨Władysław IV Vasa

Władysław IV Vasa

Władysław IV Vasa (; ; ; hoặc Ladislaus IV Vasa; 9 tháng 6 năm 1595 - 20 tháng 5 năm 1648) là một hoàng tử Ba Lan của dòng họ Vasa. Ông trị vì như là Vua Ba Lan và Công tước xứ Lithuania từ ngày 8 tháng 11 năm 1632 cho đến năm 1648.

Władysław IV là con trai của Zygmunt III Waza (Ba Lan: Zygmunt III Waza) và vợ của ông, Anna xứ Áo (còn được gọi là Anna xứ Habsburg). Năm 1610, Władysław IV được Hội đồng bảy boyars chọn làm vua Nga nhưng không thừa nhận ngai vàng của Nga do sự phản đối của cha mình. Tuy nhiên, cho đến năm 1634 ông đã sử dụng danh hiệu Đại công tước Moscow.

Được bầu làm vua Ba Lan năm 1632, Władysław khá thành công trong việc bảo vệ Thịnh vượng chung Ba Lan - Lietuva chống lại cuộc xâm lược, đáng chú ý nhất là cuộc Chiến tranh Smolensk năm 1632–34. Ông ủng hộ sự khoan dung tôn giáo và thực hiện các cải cách quân sự, chẳng hạn như việc thành lập Hải quân Liên bang. Ông cũng là một người bảo trợ nổi tiếng về nghệ thuật và âm nhạc. Mặc dù thất bại trong việc giành lại ngai vàng ở Thụy Điển, nhưng ông cũng thành công trong việc đánh bại Đế quốc Ottoman, tăng cường quyền lực hoàng gia và cải cách Thịnh vượng chung.

Ông đã chết mà không có một người thừa kế hợp pháp và ngai vàng Ba Lan được kế thừa thành công bởi người em cùng cha khác mẹ của ông, Jan II Kazimierz Waza (Jan Kazimierz Waza). Cái chết của Władysław đánh dấu sự kết thúc của sự ổn định tương đối trong Thịnh vượng chung Ba Lan - Lietuva, khi các cuộc xung đột và căng thẳng đã phát triển qua nhiều thập kỷ đã đến đầu với những hậu quả tàn phá, đáng chú ý là cuộc nổi dậy lớn nhất của người Cossack -Cuộc nổi dậy Khmelnytsky (1648) - và cuộc xâm lược của Thụy Điển ("the Deluge", 1655–60).

Cuộc đời

Cha của Władysław, Zygmunt III Waza, cháu trai của vua Gustav I của Thụy Điển, đã kế vị cha mình lên ngôi Thụy Điển năm 1592, nhưng lại để mất ngôi vào năm 1599 bởi chú của ông là vua Karl IX của Thụy Điển. Điều này dẫn đến một mối thù lâu năm, khi các vị vua nhà Vasa tuyên bố minh là người kế thừa ngai vàng ở Thụy Điển. Điều này dẫn đến cuộc Chiến tranh Ba Lan - Thụy Điển từ 1600–29 và sau đó đến Chiến tranh phương Bắc năm 1655.

Thiếu niên

trái|nhỏ|Chân dung của Władysław IV lúc 1 tuổi. Cuộc hôn nhân của Anne của Austria với Sigismund III là một cuộc hôn nhân truyền thống, có động cơ chính trị, nhằm kết nối nhà vua họ Vasa với vương triều Habsburg danh tiếng. Władysław sinh ngày 9 tháng 6 năm 1595 tại dinh thự mùa hè của nhà vua ở Łobzów, gần Kraków, một vài tháng sau khi lâu đài Wawel bị lửa thiêu rụi.

Mẹ của Władysław mất ngày 10 tháng 2 năm 1598, chưa đầy ba năm sau khi sinh ra ông. Ông được nuôi dưỡng bởi người hầu của mẹ mình, bà Urszula Meierin, người cuối cùng đã trở thành một người có uy tín mạnh mẽ tại triều đình, với nhiều ảnh hưởng lớn đến ông. Khoảng đầu thế kỷ 17 Urszula mất dần ảnh hưởng của mình, vì Władysław đã có được những giáo viên và cố vấn mới, như linh mục Gabriel Prowancjusz, Andrzej Szołdrski và Marek Łętkowski, và trong các vấn đề quân sự, Zygmunt Kazanowski. Phần lớn chương trình học của ông được thiết kế bởi linh mục Piotr Skarga, được quý trọng bởi Sigmismund III. Władysław học nhiều năm tại Học viện Kraków, và trong hai năm, ở Rome

Ở tuổi 10 Władysław được phong là hoàng tử. Władysław thành lập một tình bạn với Adam Kazanowski và anh trai của ông, Stanisław. Đó là thông báo rằng Władysław trẻ quan tâm đến nghệ thuật; sau này điều này đã khiến ông trở thành một người bảo trợ quan trọng của nghệ thuật. Ông đã nói và viết bằng tiếng Đức, tiếng Ý và tiếng Latinh.

Sa hoàng Nga

Để tăng cường can thiệp vào nội tình nước Nga, năm 1609 vua Ba Lan chuyển triều đình ra Vilnius (thủ đô của Đại vương công Lietuva). Nhưng Vilnius bị phóng hỏa làm triều đình Ba Lan phải rút vào lâu đài Vilnius. Ngay sau đó, Władysław, 15 tuổi, được bầu làm Sa hoàng bởi hội đồng quý tộc Moscow sau khi lật đổ Sa hoàng Vasily Shuysky trong Chiến tranh Ba Lan-Muscovite. Cuộc bầu cử ở Nga đã bị phá hoại bởi cha ông, Sigismund, người nhằm mục đích chuyển đổi dân số của Moscow từ Chính thống giáo sang Công giáo. Thay vào đó, Sigismund muốn con trai phải làm Nhiếp chính, điều này làm cha con bất đồng sâu sắc. Một thời gian ngắn sau, bắt đầu vào năm 1610, Władysław đem quân đánh vào nước Nga và tự tuyên bố là Đại công tước Moscow.

Bị quân dân Nga đánh bại ở nhiều nơi, quân Ba Lan của cựu Sa hoàng Władysław cố gắng chống trả nhưng không thể chiếm được Moscow. Cuối cùng, Khối thịnh vượng chung đã đạt được một số lãnh thổ tranh chấp trong Hòa ước Deulino, nhưng Władysław không bao giờ có thể trị vì ở Nga - người thay thế làm Sa hoàng Nga mới là Mikhail I của Nga. Władysław giữ được danh hiệu Đại công tước Moscow, nhưng không bao giờ cai trị thực tế ở nước Nga cho đến năm 1634. Nguyên nhân của thất bại này là: các chỉ huy Ba Lan ở Nga lạm quyền, Quốc hội Ba Lan không cấp tiền cho cuộc chiến vì quá tốn kém.

Hoàng tử nhà Vasa

nhỏ|Chân dung Vương tử Władysław vào năm 1623

Tham gia chiến tranh Ba mươi năm

Trước khi ông được bầu làm vua của Khối thịnh vượng chung, Władysław đã chiến đấu trong nhiều chiến dịch để tìm kiếm vinh quang cá nhân. Sau chiến dịch cuối cùng chống lại người Nga vào năm 1617-1618 (cuối thời kỳ Dymitriads), năm 1619 ông tới Silesia, tìm kiếm cơ hội để giúp Habsburgs trong cuộc chiến chống lại người Hussites của Séc trong cuộc chiến ba mươi năm. Cơ hội đó chưa bao giờ đến, nhưng từ thời điểm đó trở đi, Władysław có mối quan hệ tốt với George William, Tuyển hầu tước Brandenburg.

Năm sau Władysław tham gia vào giai đoạn thứ hai của Chiến tranh Ba Lan - Ottoman, hậu quả của một loạt các cuộc đấu tranh kéo dài giữa Ba Lan và Ottoman trên đất Moldavia. Năm 1621 Władysław là một trong những chỉ huy Ba Lan trong Trận Chocim; giữa trận thì ông bị bệnh nhưng đã dùng tiếng nói của lý trí, thuyết phục các chỉ huy Ba Lan khác ở lại và chiến đấu., và gia tăng sự nổi tiếng của ông trong chính Khối thịnh vượng chung.

Học hỏi phương Tây vả cải cách đất nước

Năm 1623, trong khi gần Gdańsk (Danzig), ông chứng kiến ​​thái độ kiêu ngạo của Gustav II Adolf khi Gustav tuyên bố hải quân Thụy Điển có nhiều ưu thế trên biển và yêu cầu lấy Gdańsk (Khối thịnh vượng chung không có hải quân). Năm 1624, vua Sigismund quyết định cho Władysław để đi du lịch đến Tây Âu. Vì lý do an ninh, Władysław du hành dưới cái tên giả, Snopkowski (từ Snopek của Ba Lan nghĩa là "trong vòng tay của nhà Vasa"). Trong chuyến hành trình của mình (1624–1625), ngài được Albrycht Stanisław Radziwiłł đi cùng và các cận thần theo. Đầu tiên, ông tới Wrocław (Breslau), rồi đến Munich, nơi ông gặp Maximilian I, Tuyển hầu tước Bavaria. Tại Brussels, ông gặp Infanta Isabella Clara Eugenia của Tây Ban Nha; ở Antwerp thì gặp Rubens. Gần Breda, ông gặp Ambrosio Spinola. Trong thời gian ở lại với Spinola, ông đã bị ấn tượng bởi các kỹ thuật quân sự phương Tây; điều này sau này được phản ánh khi ông trở thành vua, vì các vấn đề quân sự luôn quan trọng đối với ông. Trong khi không phải là một thiên tài quân sự, và được vượt qua bởi vị tướng lĩnh Ba Lan đương thời của ông, Stanisław Koniecpolski, Władysław được biết đến như một chỉ huy quân sự khá khéo léo. Tại Rome, ông được Giáo hoàng Urbanô VIII chào đón, người đã chúc mừng ông về cuộc chiến chống lại người Ottoman. Trong thời gian lưu trú tại Florence, ông đã rất ấn tượng với opera, và quyết định mang hình thức nghệ thuật này đến Thịnh vượng chung, nơi mà trước đây nó chưa được biết đến. Ở Genoa và Venice, ông rất ấn tượng với các xưởng đóng tàu địa phương, và ở Pisa, ông đã chứng kiến ​​một cuộc chiến hải quân được tổ chức đặc biệt, những kinh nghiệm dẫn đến nỗ lực sau này của ông để tạo ra Hải quân Liên bang Ba Lan – Litva

Trở về Ba Lan và kế thừa ngôi vua

Sau khi trở về Ba Lan, ông đã chiến đấu năm 1626 chống lại người Thụy Điển trong giai đoạn cuối của Chiến tranh Ba Lan - Thụy Điển, nơi ông tham gia vào trận chiến Gniew. Sự tham gia của ông trong cuộc xung đột này, kéo dài cho đến khi ký kết Hòa ước Altmark năm 1629 mà không giành được thắng lợi nào. Trở về nước, Władysław được cha vận động các quý tộc bầu lên ngôi vua Ba Lan bất chấp các khó khăn trước mắt. Sau khi Sigismund qua đời vì đột quỵ sáng 30/4/1632, vấn đề bầu cử ngai vàng Ba Lan được đặt ra lần nữa

Vua

nhỏ|Chân dung Wladyslaw IV, khoàng năm 1635. Cuộc bầu cử Sejm năm 1632 kết thúc với chiến thắng thuộc về Wladyslaw mà không có những ứng cử viên nghiêm túc nào khác. Quyết định về ai sẽ là vị vua kế tiếp của Khối thịnh vượng chung cũng được đặt ra tại Hội nghị kế tiếp vào ngày 13/11/1632, và Wladyslaw là ứng cử viên sáng giá cho ngôi vua Ba Lan. Trong hội nghị, Wladyslaw cam kết tự tài trợ cho một trường quân sự và trang thiết bị; tìm cách tài trợ cho một hạm đội hải quân; để duy trì liên minh hiện tại; không hỗ trợ nhiều về nơi ở cho người nước ngoài cư trú; không đàm phán hiệp ước hòa bình hoặc tuyên chiến mà không có sự chấp thuận của Sejm; không lấy vợ mà không có sự chấp thuận của Thượng viện. Khi kết quả bầu cử được công bố bởi Thái Đại Nguyên soái, Łukasz Opaliński, giới quý tộc (szlachta), người đã tham gia cuộc bầu cử, đã bắt đầu lễ hội để vinh danh vị vua mới, kéo dài ba tiếng đồng hồ. Władysław được trao vương miện tại Nhà thờ Wawel, tại Kraków vào ngày 6 tháng 2 năm sau (năm 1633).

Chiến dịch quân sự

Chiến dịch Smolensk (1632 - 1633)

nhỏ|Vua Władysław IV tiếp nhận sự đầu hàng của quân Nga tại thành Smolensk vào năm 1634. Trong một nỗ lực để đánh bật ảnh hưởng của Ba Lan ở nước Nga ngay khi tân vương Wladyslaw IV vừa lên ngôi, Sa hoàng Mikhail I của Nga đã ra lệnh tấn công vào Khối thịnh vượng chung. Tháng 10/1632, một đội quân Nga bất ngờ vượt biên giới phía đông để vào Khối thịnh vương chung, vây hãm đội quân Khối thịnh vượng chung ở Smolensk gồm 1.600 binh sĩ với 170 quân pháo binh dưới sự chỉ huy của Voivensk của Smolensk, Aleksander Korwin Gosiewski vào tháng 12/1632. Đến Smolensk, quân Nga nã đại bác vào thành và lính Nga tấn công mãnh liệt làm quân của Khối thịnh vương chung bị thiệt hại một số. Để cứu nguy, tân vương Ba Lan đã đề nghị Quốc hội cho viện binh ra cứu thành Smolensk. Đề nghị nhanh chóng được chấp thuận và Quốc hội chuẩn y một khoảng chiến phí 6,5 triệu zlotys, 21.500 quân và khoảng 10.000 ngựa chiến. Đến mùa hè năm 1633, viện binh của vua Ba Lan sang Smolensk với 25.000 người và tiếp tục đến tháng 9 thì tăng lên thêm 14.000 người nữa, nâng tổng số quân Khối thịnh vượng chung là 36.000 người. Phòng ngừa sự phản công của Khối thịnh vượng chung, vua Nga điều thêm 25.000 quân nữa sang Smolensk; tiếp đó quân Cossak với khoảng 20.000 người nữa ra hỗ trợ quân triều đình Nga, đã đồng loạt tấn công vào Smolensk. Quân đội của Khối thịnh vượng chung ra sức chống trả quyết liệt. Ở trong Ba Lan, nhà vua đưa ra chiến trường lực lượng pháo binh mạnh mẽ (đưa lính ngự lâm vào bắn pháo), phổ biến toàn quân cách xây dựng pháo đài theo ý tưởng phương Tây để quân đội thực hành. Kết quả, kỵ binh của Khối thịnh vượng chung ở Smolensk đã đẩy lùi hiệu quả cuộc tấn công của quân Nga, buộc họ phải ở trong chiến hào. Trong một loạt các cuộc đụng độ dữ dội, các lực lượng Thịnh vượng chung dần dần đánh chiếm các pháo đài của Nga, và cuộc vây hãm đã đến giai đoạn cuối cùng của nó vào cuối tháng Chín. Bị vây hãm lâu ngày và không có viện trợ từ triều đình Nga, quân Nga ở Smolensk đầu hàng. Tướng Nga là Shein khởi sự đàm phán với Khối thịnh vượng chung ở Smolensk, ký Hòa ước Polyanovka (30/4/1634). Theo Hòa ước, Nga phải bồi thường chiến phí là 20.000 ruble và phải giải tán phần lớn lực lượng pháo binh, đổi lại vua Ba Lan từ bỏ các danh hiệu Đại công ở Nga.

Chiến dịch với Ottoman

nhỏ|Mề đay 12 ducat được đúc năm 1637 kỉ niệm chiến thắng của Władysław IV trước người Nga, Ottoman và Thụy Điển. Sau chiến dịch Smolensk, Khối thịnh vượng chung đã bị đe dọa bởi một cuộc tấn công khác của Đế chế Ottoman. Khi đang chiến tranh với Nga, vua Ba Lan cử một đội quân dưới sự chỉ huy của hetman Stanisław Koniecpolski để tiến về biên giới phía nam để ngăn chặn Ottoman tấn công. Kết quả, hiệp ước hòa bình được ký kết với nội dung là kiềm chế các cuộc tấn công biên giới bởi Cossacks và Tatars, Ottoman thừa nhận Khối thịnh vượng chung là quốc gia độc lập có chủ quyền.

Chiến dịch với Thụy Điển

Kết thúc chiến dịch phía nam, vua Ba Lan quay sang Thụy Điển. Lợi dụng vua Thụy Điển Gustav II Adolf vừa mất và chính quyền Thụy Điển đang lục đục, Hiệp ước của chiến tranh Ba Lan - Thụy Điển vừa hết hạn, vua Ba Lan khởi sự chiến tranh với Thụy Điển nhằm mục đích: chiếm lại ngôi vua Thụy Điển (Wladyslaw IV ngay từ lúc lên ngôi đã muốn chiếm ngai vàng Thụy Điển, song bị Tể tướng Thụy Điển Axel Oxenstierna bác bỏ)., cướp đoạt một số vùng đất của Thụy Điển chiếm đóng để mở rộng lãnh thổ. Thụy Điển, bị suy yếu bởi sự tham gia trong Chiến tranh Ba mươi năm, tuy nhiên đã mở ra một giải pháp hòa bình. Władysław không thể chống lại quyết định của Sejm và Thượng viện, và đồng ý ủng hộ hiệp ước. Vì vậy, cả hai bên đã nhất trí ký Hiệp ước Stuhmsdorf (Sztumska Wieś) vào ngày 12 tháng 9 năm 1635, thuận lợi cho Khối thịnh vượng chung, giành lại lãnh thổ Phổ, và kêu gọi Thụy Điển giảm thuế quan đối với thương mại hàng hải

Chính trị

Sau khi lên ngôi, Wladyslaw IV tính đến việc chiếm lấy ngai vàng Thụy Điển sau khi vua Gustav II Adolf qua đời. Vua Ba Lan tìm cách hòa giải với Thụy Điển để phục vụ mưu đồ trên, nhưng bị Tể tướng Thụy Điển bác bỏ thẳng thừng.

Władysław IV tiếp tục củng cố quan hệ với Đế quốc La Mã Thần thánh và từ chối quan hệ với các kẻ thù của Đế quốc La Mã Thần thánh, nhất là Pháp. Năm 1635, Hồng y Richelieu đề nghị được liên minh với Ba Lan nhằm chia sẻ quyền lợi ở vùng Silesia, nhưng vua Ba Lan lịch sự từ chối vì không muốn Cộng đồng Công giáo bị rối loạn và quyền lực của mình hiện đang bị hạn chế bởi Quốc hội Ba Lan.

Dầu vậy, Wladyslaw vẫn cố gắng giữ vai trò dẫn đầu hệ thống chính trị châu Âu, người trung gian hòa bình cho Chiến tranh Ba Mươi Năm. Sau cuộc đình chiến của Stuhmsdorf, Władysław ngày càng nhận ra rằng triển vọng của mình để lấy lại ngai vàng Thụy Điển là mờ nhạt. Trong những năm 1636-1638, Wladyslaw đề ra nhiều cải cách mới: (1) bảo vệ một vùng đất có di sản để ngăn ngừa thay đổi chính quyền về sau; (2) thiết lập một cấu trúc xã hội mới nhằm giảm quyền lực của quý tộc; (3) tăng mức thuế trong thương mại nhằm phá vỡ độc quyền của quý tộc tư sản và thương gia. Nhưng cải cách này bị thất bại do sự chống đối quyết liệt của các đại quý tộc và Kasper Doenhoff, Hoàng đế chấp thuận. Hoàng đế La Mã thần thánh Ferdinand II gửi hồi môn 100.000 złoty, chi tiền cấp dưỡng cho hai người mẹ của vua Ba Lan: Anna và Konstance; chấp nhận luôn phong cho con trai của cặp vợ chồng Władysław và Nữ Tổng Giám mục Cecilia Renata được làm công tước Opole và Racibórz ở Silesia. Sau cái chết bất ngờ của cha mình, Thái tử lên ngôi là Ferdinand III của Thánh chế La Mã xúc tiến và hai nước Ba Lan - La Mã thần thánh chính thức ký một văn bản "liên minh chính trị". Theo văn bản này, Ba Lan (Khối thịnh vượng chung) không ký bất kỳ hiệp ước nào với kẻ thù để chống lại Habsburgs, chuyển giao quyền của mình cho ngai vàng Thụy Điển trong trường hợp hai vợ chồng không có con thừa kế. Đổi lại, Habsburg hứa sẽ hỗ trợ những nỗ lực của ông để lấy lại vương miện Thụy Điển, và chuyển giao cho ông một số lãnh thổ trong trường hợp có lợi trong cuộc chiến chống lại người Ottoman. Cuộc hôn nhân được tổ chức hoành tráng vào ngày 12/9/1637. nhỏ|Chân dung Władysław IV khoảng năm 1644. Họa phẩm được cho là của [[Pieter Soutman|Pieter Claesz Soutman.]] Sau cuộc hôn nhân, tình hình Khối thịnh vượng chung đang xuống dốc thảm hại: Wladyslaw dự tính đem quân sang giúp Hoàng đế La Mã thần thánh đánh Inflanty vào năm 1639; lại lập liên minh với Tây Ban Nha chống lại Pháp trong 1640-1641 và 1641-1643, với Đan Mạch chống lại Thụy Điển. Wladyslaw cũng tìm cách hòa giải giữa Công giáo và Tin lành, nhưng không thành công. Ông cố gắng tổ chức một hội nghị tại Toruń (Thorn) bắt đầu vào ngày 28 tháng 1 năm 1645, nhưng nó không đạt được bất kỳ kết luận nào.

Sau cái chết của Cecilia vào năm 1644, mối quan hệ giữa Władysław và Habsburgs phần nào bị nới lỏng. Đổi lại, quan hệ với Pháp được cải thiện, và cuối cùng Władysław kết hôn với công chúa Pháp Ludwika Maria Gonzaga de Nevers, con gái của Karol I Gonzaga, hoàng tử de Nevers, năm 1646

Đến cuối đời, Władysław khởi sự chiến tranh với Ottoman bất chấp sức khỏe bị suy sụp khi biết tin quân Ottoman bất ngờ tấn công làm 30.000 người dân ở Khối thịnh vương chung bị chết. Lúc đầu, nhà vua tìm cách chiêu mộ quân Cossack và thuyết phục các quý tộc ở Quốc hội chấp thuận cuộc viễn chinh này, nhưng bị Quốc hội từ chối. Lần khác, nhà vua vận động được ông trùm Jeremi Wiśniowiecki (người tổ chức các cuộc tập trận quân sự gần biên giới Ottoman) hỗ trợ chiến phí. Nhưng cái chết bất ngờ của con trai mới 7 tuổi là Sigismund Casimir (con của Cecilia) làm nhà vua suy sụp hẳn (ông còn một con trai nữa là Władysław Konstanty, đã sang làm tướng ở Thụy Điển thời nữ hoàng Christina)

Băng hà

Trong khi săn bắn gần Merkinė (Merecz) vào đầu năm 1648, Władysław bị bệnh sỏi mật hoặc sỏi thận. Tình trạng của ông trở nên xấu đi vì uống sai thuốc điều trị. Ông được yêu cầu trở về hoàng cung và qua đời khoảng 2 giờ sáng trong đêm 20 tháng 5 năm 1648.

Nhà vua qua đời mà không có người thừa kế hợp pháp. Wladyslaw được thừa kế thành công bởi người em cùng cha khác mẹ là Jan II Kazimierz Waza

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Władysław IV Vasa** (; ; ; hoặc _Ladislaus IV Vasa_; 9 tháng 6 năm 1595 - 20 tháng 5 năm 1648) là một hoàng tử Ba Lan của dòng họ Vasa. Ông trị vì như
**Vương tộc Vasa** hoặc **Wasa** (, , ) là một Vương tộc thuộc thời kỳ cận đại được thành lập vào năm 1523 tại Thụy Điển. Các thành viên của gia tộc là người cai
**Jan II Kazimierz Waza** (tiếng Đức: Johann II. Kasimir Wasa; tiếng Litva: Jonas Kazimieras Vaza; ngày 22 tháng 3 năm 1609 - 16 tháng 12 năm 1672) là Vua Ba Lan và Công tước của
**Sigismund III Vasa** (tên khác: **Sigismund III của Ba Lan**, , ; 20 tháng 6 năm 1566 – 30 tháng 4 năm 1632 N.S.) là vua của Ba Lan và Đại công tước của Litva,
thumb|Bản sao của [[Vương miện của Bolesław I Dũng cảm, quả cầu hoàng gia và vương trượng được dùng trong lễ đăng quang của Stanisław August Poniatowski năm 1764]] thumb|right|Biểu chương của Vua [[August III
**Khởi nghĩa Khmelnytsky**, còn gọi là **Chiến tranh Cossack–Ba Lan**, **Khởi nghĩa Chmielnicki**, **cuộc nổi dậy Khmelnytsky**, là một cuộc nổi loạn của người Cossack diễn ra từ năm 1648 đến năm 1657 trên các
nhỏ|248x248px|Cung điện Kazanowski (thế kỷ 17) nhỏ|248x248px|Các tòa nhà mới tại vị trí từng là cung điện, Phố Krakowskie Przedmieście (2006) **Cung điện Kazanowski** (tiếng Ba Lan: **Pałac Kazanowskich** _-_ tên gọi khác: **Cung điện
**Piotr Baryka** (1600–1675) là người lính và nhà văn Ba Lan thế kỷ 17. Ông là một trong những tác giả có mặt tại lễ đăng quang của Władysław IV. ## Lịch sử Piotr Baryka
**Michał Korybut Wiśniowiecki** (tiếng Litva: Mykolas I Kaributas Višnioveckis; còn có tên theo tiếng Anh là Michael I, ngày 31 tháng 5, 1640 - 10 tháng 11 năm 1673) là người cai trị của Khối
**Mikhail Fyodorovich** (, tiếng Slav Đông cổ: _Міхаи́лъ Ѳео́доровичь_; 22 tháng 7 [12 tháng 7 theo lịch cũ] năm 1596 – 23 tháng 7 [13 tháng 7 theo lịch cũ] năm 1645), còn được gọi
**Anna của Áo** (16 tháng 8 năm 1573 – 10 tháng 2 năm 1598) là Vương hậu Ba Lan và Thụy Điển và là Đại Công tước phu nhân xứ Litva với tư cách là
**Izydor Jabłoński** (sinh ngày 7 tháng 2 năm 1865 tại Kraków - mất ngày 13 tháng 11 năm 1905 tại Kraków) là một họa sĩ người Ba Lan, giáo sư tại Học viện Mỹ thuật
**_Bài thuyết pháp của Piotr Skarga_** hoặc **_Bài thuyết pháp của Skarga_** () là một bức tranh sơn dầu khổ lớn của Jan Matejko, hoàn thành vào năm 1864 và hiện đang trưng bày ở
**Phổ** (tiếng Đức: Preußen; tiếng Latinh: _Borussia_, _Prutenia_; tiếng Anh: Prussia; tiếng Litva: _Prūsija_; tiếng Ba Lan: _Prusy_; tiếng Phổ cổ: _Prūsa_) là một quốc gia trong lịch sử cận đại phát sinh từ Brandenburg,
**Jan III Sobieski** (17 tháng 8 năm 1629 - 17 tháng 6 năm 1696) là một trong những vị vua nổi tiếng nhất của Vương quốc Ba Lan và Đại Công quốc Litva, là vua
**Sa quốc Nga** ( hay **Nước Nga Sa hoàng**, ) hay nó có một tên gọi khác là **Sa quốc Muscovy** là giai đoạn trung ương tập quyền hóa trong lịch sử Nga, bắt đầu
**Nhà thờ St. Martin** ( _Marcina_) là một nhà thờ ở Warsaw, Ba Lan. Nó nằm trên _ulica Piwna_ ("Phố bia") ở khu vực Phố cổ của thủ đô Ba Lan. ## Lịch sử Nó
**Cơn lũ dữ** (tiếng Ba Lan: _pоtор szwedzki_, tiếng Litva: _švedų tvanas,_ ), hay còn được biết tới là **Con lũ dữ Thụy Điển**, là một trong những sự kiện bi thảm nhất trong lịch
nhỏ|360x360px|[[Nikolai II của Nga|Nikolai II, Sa hoàng cuối cùng của nước Nga]] **Sa hoàng** (tiếng Anh: _Tsar_; hay ; Tiếng Slav Giáo hội cổ: ц︢рь), còn gọi là **Nga hoàng**, là tước vị chính thức
**Thịnh vượng chung Ba Lan và Litva** (, ) hay **Liên bang Ba Lan – Litva** hay **Thịnh vượng chung Ba Lan – Litva** là một trong những quốc gia rộng lớn và đông dân
**Hiệp ước Polyanovka** (tiếng Ba Lan: _Polanów_, còn được gọi là Hòa ước Polyanovka/Polanów) là một hòa ước được ký vào ngày 14 tháng 6 năm 1634 giữa Liên bang Ba Lan và Lietuva và
Lịch sử của nước Nga, bắt đầu từ việc người Slav phương Đông tái định cư ở Đồng bằng Đông Âu vào thế kỷ thứ 6-7, những người sau đó được chia thành người Nga,
**Cột Sigismund** (), ban đầu được xây dựng vào năm 1644, nằm ở Quảng trường lâu đài, Warsaw, Ba Lan và là một trong những địa danh nổi tiếng nhất của Warsaw cũng như là
thumb|right|Vị trí của hố Tycho được nhìn từ [[Bắc Bán cầu]] **Tycho** () là một hố Mặt Trăng (hố va chạm) nằm ở vùng cao phía nam của Mặt Trăng, được đặt tên theo sau
**Đền thánh Święta Lipka** (tiếng Ba Lan: _Sanktuarium w Świętej Lipce_; tiếng Đức: _Heiligelinde_), tiếng Anh được gọi là _Holy Linden_, là một vương cung thánh đường Công giáo La Mã nằm tại làng Święta
nhỏ|250x250px| Tu viện Camaldolese của Bielany ở [[Kraków, Ba Lan ]] nhỏ|250x250px| Nội thất tu viện nhỏ|250x250px| Chi tiết kiến trúc nội thất **Tu viện Hermit Camaldolese ở Kraków** () là một tu viện Camaldolese
nhỏ| Tổ hợp [[Quảng trường Nhà hát (Warszawa)|nhà hát tại Quảng trường Nhà hát, Warsaw ]] nhỏ|Chơi với sự có mặt của vua Stanisław Augustus, 1790. Bức tranh mô tả nội thất của Nhà hát
**Thời kì Đại Loạn** () là quãng thời gian từ 1598 đến 1613 khi Sa quốc Nga trống ngôi chúa và xứ sở đứng trước nguy cơ tiêu vong. Đây cũng được coi là giai
thumb|Chân dung của Pieter Danckerts de Ry trong _Nội các Het Gulden_ của [[Cornelis de Bie.]] thumb|Ví dụ về sự hợp tác Dankerts-Sandrart trong bản in của [[Pieter Corneliszoon Hooft|PC Hooft. Bản khắc năm 1642
thumb|Thoả thuận Pereiaslav được mô tả trên tem của Liên Xô năm 1954. [[Người Cossack đứng bên trái với trang phục truyền thống và một bandura. Vasiliy Buturlin đứng bên phải đang tuyên bố.]] thumb|Tem
**Bánh mì gừng Toruń** (, ) là một loại bánh mì gừng truyền thống của Ba Lan, được sản xuất từ thời Trung cổ ở thành phố Toruń. ## Lịch sử nhỏ|Khuôn bánh mì gừng
**Âm nhạc Ba Lan** bao gồm các khía cạnh khác nhau của âm nhạc đương đại và âm nhạc dân gian có nguồn gốc từ Ba Lan. Các nghệ sĩ đến từ Ba Lan bao
**Cung điện Kazimierz** () là một cung điện được xây dựng lại ở Vác-sa-va, Ba Lan. Nó tiếp giáp với Tuyến đường Hoàng gia, tại _Krakowskie Przingmieście 26-28_. Được khởi công xây dựng vào năm
Đây là danh sách tất cả các vị vua trị vì trong lịch sử nước Nga, bao gồm các danh hiệu Đại vương công Novgorod, Đại vương công Kiev, Đại vương công Vladimir, Đại vương