✨Triết học khoa học

Triết học khoa học

Triết học khoa học là một nhánh của triết học quan tâm đến nền tảng, phương pháp và các hậu quả của khoa học. Các câu hỏi trung tâm của môn học này bao gồm cái gì được xem như khoa học, tính đáng tin cậy của các lý thuyết khoa học, và mục đích tối hậu của khoa học. Môn học này chồng lấn với siêu hình học, bản thể học và nhận thức luận, lấy ví dụ, khi chúng ta khảo sát mối quan hệ giữa khoa học và chân lý.

Không có sự đồng thuận giữa các nhà triết học về nhiều vấn đề trung tâm trong triết học về khoa học, bao gồm việc liệu khoa học có thể khám phá chân lý về những thứ không quan sát được (xem Chủ nghĩa hiện thực khoa học) liệu lý tính khoa học có thể được biện minh hay không (xem vấn đề quy nạp). Bên cạnh những câu hỏi tổng quát về khoa học như một toàn thể này, các nhà triết học khoa học cũng xem xét các vấn đề được áp dụng vào các khoa học cụ thể (chẳng hạn vật lý và sinh học.) Một số nhà triết học khoa học cũng sử dụng các kết quả đương đại của khoa học nhằm đưa ra kết luận về chính triết học.

Trong khi các tư tưởng triết học về khoa học có thể truy về tận thời Aristotle, triết học khoa học nổi lên như là một môn độc lập chỉ từ giữa thế kỷ 20 theo gót của phong trào thực chứng logic, phong trào này có mục đích hình thành các tiêu chuẩn nhằm đảm bảo sự có ý nghĩa của tất cả các lời phát biểu triết học và đánh giá chúng một cách khách quan. Năm 1962, Thomas Kuhn cho ra đời một quyển sách bước ngoặt mang tên Cấu trúc của các cuộc Cách mạng Khoa học, thách thức quan điểm về tiến bộ khoa học như là một quá trình tích lũy ổn định của tri thức dựa trên một phương pháp cố định của việc quan sát có hệ thống mà thay vào đó, quyển sách lập luận, rằng bất kỳ sự phát triển nào là có liên quan tới một "hệ hình", một tập hợp các câu hỏi, khái niệm và thực hành mà định nghĩa một bộ môn khoa học trong một thời kỳ lịch sử nhất định.

Hệ quả là, một cách tiếp cận theo chủ nghĩa nhất quán tới khoa học, mà theo đó một lý thuyết được chấp nhận nếu những quan sát nó đưa ra có ý nghĩa như là một phần của toàn thể mạch lạc, trở thành phổ biến bởi W. V. Quine và những người khác. Một số nhà tư tưởng như Stephen Jey Gould tìm kiếm nền của khoa học trong các giả định tiên đề, như là tính đồng nhất của tự nhiên.Đặc biệt, một số ít các nhà triết học như Paul Feyerabend (1924–1994) lập luận rằng không có gì như là "phương pháp khoa học", và do vậy tất cả các cách tiếp cận tới khoa học đều nên được chấp nhận, bao gồm cả những giải thích hoàn toàn siêu nhiên. Một hướng tư duy khác về khoa học bao gồm việc tìm hiểu làm thế nào mà kiến thức được tạo ra từ giác độ xã hội, tiêu biểu là David Bloor và Barry Barnes. Cuối cùng, một truyền thống triết học đại lục tiếp cận tới khoa học theo quan niệm về một sự phân tích cặn kẽ kinh nghiệm con người.

Triết học về các khoa học cụ thể trải dài từ những câu hỏi về bản chất của thời gian được sinh ra từ thuyết tương đối rộng của Einstein, đến các hàm ý của kinh tế học hay chính sách công. Một chủ đề trung tâm là liệu một môn khoa học có thể bị quy giản về một môn khác hay không. Chẳng hạn, liệu hóa học có thể bị quy giản về vật lý, hay liệu xã hội học có thể bị quy giản về tâm lý học cá nhân? Những câu hỏi chung về triết học khoa học cũng được sinh ra với đặc trưng lớn hơn trong những khoa học cụ thể. Chẳng hạn, tính đúng đắn của lập luận khoa học được tìm thấy trong nhiều lớp vỏ khác nhau của nền tảng thống kê học. Câu hỏi về những gì được xem như là hay không phải là khoa học nổi lên như là một vấn đề sinh tử trong triết học về y học. Thêm nữa, các nhà triết học về sinh học, tâm lý học và các khoa học xã hội cũng tìm hiểu liệu các nghiên cứu khoa học về bản chất con người có thể đạt được tính khách quan hay bị định hình một cách không tránh khỏi bởi các giá trị và quan hệ xã hội.

Giới thiệu tổng quan

phải|nhỏ|Karl Popper, 1980

Định nghĩa khoa học

Việc phân biệt giữa khoa học và phi khoa học liên quan tới vấn đề ranh giới. Ví dụ, có nên coi phân tâm học như một khoa học? Và còn các môn như khoa học tạo hóa, giả thuyết đa vũ trụ lạm phát hay kinh tế học vĩ mô? Karl Popper gọi đây là câu hỏi trung tâm trong triết học về khoa học. Tuy nhiên, không có một giải pháp thống nhất nào được đồng thuận bởi các nhà triết học, một số nhà triết học cho rằng vấn đề này không thể giải quyết được hoặc là không thú vị. Martin Garner ủng hộ việc sử dụng tiêu chuẩn Potter Stewart ("Tôi biết nó khi tôi thấy nó") để nhận biết giả khoa học.

Những nỗ lực ban đầu của các nhà thực chứng logic đặt nền tảng của khoa học trong sự quan sát trong khi coi những gì không quan sát được là phi khoa học và do đó vô nghĩa. Popper lập luận rằng đặc tính trung tâm của khoa học là tính có thể sai. Theo đó, một tuyên bố mang tính khoa học đích thực đều phải có khả năng bị chứng minh là sai, ít nhất là trên nguyên tắc.

Một lĩnh vực nghiên cứu hay tư tưởng mà giả mạo như khoa học nhằm cố gắng để đạt được tính chính đáng nó không có thì có thể được xem là ngụy khoa học, khoa học bên lề hay khoa học rác. Nhà vật lý học Richard Feyman đặt ra thuật ngữ "khoa học giáo phái - hàng hóa" cho trường hợp mà nhà nghiên cứu tin rằng họ đang làm khoa học bởi hoạt động của họ có vẻ ngoài giống khoa học nhưng thực sự thiếu "một kiểu trung thực hoàn toàn" để cho phép đánh giá chặt chẽ chính xác các kết quả của họ.

Giải thích khoa học

Một câu hỏi liên quan mật thiết là việc đánh giá thế nào là một giải thích tốt về mặt khoa học. Nhằm nhiệm vụ cung cấp các dự đoán về các sự kiện tương lai, xã hội thường dùng các lý thuyết khoa học để cung cấp lời giải thích cho những sự kiện thường xảy ra hoặc đã xảy ra. Các nhà triết học cũng khảo sát tiêu chuẩn mà với nó, một lý thuyết khoa học có thể được coi là đã giải thích thành công một hiện tượng, cũng như việc làm rõ ý nghĩa khi nói rằng một lý thuyết khoa học có "năng lực giải thích".

Biện minh cho khoa học

Mặc dù thường xuyên được dùng, nó là không rõ ràng việc làm thế nào chúng ta có thể đưa ra sự hợp lý của một mệnh đề tổng quát từ một số riêng lẻ các trường hợp hay là việc suy ra chân lý của một lý thuyết từ một chuỗi các thử nghiệm thành công. Lấy ví dụ, một con gà quan sát rằng mỗi sáng người nông dân đến và đưa cho nó thức ăn, trong 100 ngày liên tục. Con gà có thể sử dụng lập luận quy nạp để suy ra rằng người nông dân sẽ đem thức ăn tới mọi buổi sáng. Tuy nhiên, một buổi sáng, người nông dân đến và giết con gà. Làm thế nào mà tư duy khoa học lại đáng tin cậy hơn tư duy của một con gà?

Một cách tiếp cận khả dĩ là thừa nhận rằng quy nạp không thể đạt tới sự chắc chắn, nhưng việc quan sát càng nhiều các trường hợp của một mệnh đề tổng quát ít nhất sẽ khiến nó đáng tin hơn. Cho nên con gà đã đúng khi kết luận từ tất cả các buổi sáng đó rằng rất có thể người nông dân sẽ đến với thức ăn lần nữa vào sáng mai, ngay cả khi điều đó là không chắc chắn. Tuy nhiên, vẫn còn câu hỏi khó về việc đâu là xác suất chính xác mà tại đó bằng chứng đưa ra biện minh được cho một mệnh đề tổng quát. Một cách thoát khỏi những khó khăn này là tuyên bố rằng mọi niềm tin về các lý thuyết khoa học là chủ quan, mang tính cá nhân và tư duy, và sửa đổi tư duy chỉ thuần túy là việc bằng chứng đã thay đổi niềm tin chủ quan của một người theo thời gian.

Một số lập luận cho rằng những gì các nhà khoa học làm hoàn toàn không phải là tư duy quy nạp nhưng là tư duy giả định (abductive reasoning - tư duy "thám tử"), hay là suy luận tới lời giải thích tốt nhất. Theo cách này, khoa học không phải là việc khái quát hóa các trường hợp riêng biệt nhưng là việc giả thiết hóa các giải thích cho những gì được quan sát. Không phải luôn luôn rõ ràng về việc thế nào là "lời giải thích tốt nhất." Dao cạo Ockham, đưa ra tiêu chuẩn về sự đơn giản để lựa chọn những giải thích, đóng một vai trò quan trọng trong vài phiên bản của cách tiếp cận này.

Quan sát không thể tách rời khỏi lý thuyết

Mục đích của khoa học

Các giá trị và khoa học

Lịch sử

Thời cận đại

Thời hiện đại

Chủ nghĩa thực chứng logic

Thomas Kuhn

Những hướng tiếp cận hiện nay

Các giả định tiên đề

Thuyết nhất quán

Những chủ đề khác

Chủ nghĩa rút gọn

Trách nhiệm xã hội

Triết học về một số ngành khoa học cụ thể

Triết học về thống kê

Vấn đề quy nạp được thảo luận trên đây được coi như là một hình thức khác trong cuộc tranh luận về các cơ sở của môn thống kê. Các chủ đề có liên quan trong triết học về thống kê bao gồm sự diễn giải tính xác suất, sự khác biệt giữa tương quan (correlation) và nhân quả (causation)

Triết học về toán học

Triết học về toán học quan tâm tới nền tảng triết học và các ngụ ý hàm ẩn của toán học. Các câu hỏi trung tâm là liệu các con số, hình hình học và các thực thể toán học khác có tồn tại độc lập với tâm trí con người hay không; bản chất của các mệnh đề toán học là gì? Liệu việc hỏi "1+1=2 hay không?" có khác biệt về căn bản với việc hỏi một quả bóng "có phải màu đỏ không"? Liệu đại số được sáng tạo ra hay phát hiện ra? Một câu hỏi có liên quan là liệu việc học toán có đòi hỏi kinh nghiệm không hay chỉ thuần lý? Chứng minh một mệnh đề toán học có nghĩa là gì và làm thế nào một người biết được một chứng minh toán học là đúng? Các nhà triết học về toán học cũng muốn làm rõ mối quan hệ giữa logic và toán học, những năng lực con người như trực giác, và thế giới vật chất.

Triết học về vật lý

Triết học về vật lý là môn nghiên cứu về những câu hỏi mang tính triết học và căn bản của vật lý học hiện đại, nghiên cứu về vật chất, năng lượng và cách chúng tương tác. Những câu hỏi chính bao gồm bản chất của không gian và thời gian, các nguyên tử (nguyên tử hiểu theo nghĩa triết học) và thuyết nguyên tử triết học. Nó cũng bao gồm cả việc dự đoán vũ trụ học, việc diễn giải cơ học lượng tử, nền tảng của cơ học thống kê, tính nhân quả, thuyết tất định và bản chất của các định luật vật lý. Một cách kinh điển, nhiều câu hỏi này đã được nghiên cứu như là một phần của siêu hình học (lấy ví dụ, tính nhân quả, thuyết tất định, không gian và thời gian).

Triết học về hóa học

Triết học về hóa học là nghiên cứu triết học về phương pháp luận và các nội dung của khoa hóa học. Nó được thực hiện bởi các nhà triết học, hóa học và các đội hóa học - triết học liên ngành. Nó bao gồm nghiên cứu chung về các vấn đề của triết học khoa học được ứng dụng tới hóa học, chẳng hạn, liệu tất cả các hiện tượng hóa học có thể được giải thích bằng cơ học lượng tử hay là chúng không thể quy giản về vật lý học? Một ví dụ khác, các nhà hóa học đã thảo luận khía cạnh triết học của việc làm thế nào mà các lý thuyết được khẳng định như là các cơ chế phản ứng. Việc xác định cơ chế phản ứng hóa học là khó khăn bởi chúng không thể quan sát được trực tiếp. Các nhà hóa học có thể sử dụng một số các đo lường gián tiếp như là bằng chứng để đưa ra các cơ chế nhất định, nhưng chúng thường là không chắc chắn bởi vì có nhiều cơ chế khả dĩ khác chưa được thử nghiệm hay thậm chí, chưa được nghĩ đến. Các nhà triết học cũng tìm cách làm rõ ý nghĩa của các khái niệm hóa học mà không đề cập tới một thực thể vật chất nào, như là các liên kết hóa học.

Triết học về sinh học

Triết học về sinh học quan tâm tới các vấn đề đạo đức, siêu hình học và nhận thức luận trong các khoa sinh học và y sinh.

Mặc dù các nhà triết học về khoa học nói riêng và các nhà triết học nói chung từ lâu đã quan tâm tới sinh học (ví dụ Aristotle, Descartes, Leibniz và cả Kant), triết học về sinh học chỉ nổi lên như một lĩnh vực độc lập của triết học vào thập niên 60 và 70 thế kỷ trước.

Các nhà triết học về khoa học bắt đầu chú ý hơn đến sự phát triển của sinh học, kể từ khi thuyết tiến hóa hiện đại tổng hợp ra đời vào những thập niên 30, 40 khám phá ra cấu trúc của DNA vào năm 1953 cho đến những tiến bộ gần đây về kỹ thuật di truyền.

Một trong các ý tưởng trung tâm khác là sự quy giảm mọi quá trình của sự sống về các phản ứng hóa - sinh, cũng như đề xuất sáp nhận tâm lý học vào lĩnh vực rộng hơn của khoa học thần kinh.

Các nghiên cứu triết học gần đây về sinh học bao gồm nền tảng của lý thuyết tiến hóa, vai trò của vi rút như là vật cộng sinh trong bộ gen vật chủ. Hệ quả là các tiến hóa về trật tự nội dung của gen được xem như là kết quả của những kiểu gen cạnh tranh nhau hơn là quan niệm cũ về sự ưu thế của đột biến.

Các quan điểm triết học kinh điển về sinh học là thuyết quy giản (reductionism), thuyết toàn thể (holism) và thuyết sức sống (vitalism).

Triết học về y khoa

Không giới hạn trong vấn đề y đức hay đạo đức sinh học, triết học về y khoa là một nhánh của triết học mà bao gồm các nghiên cứu nhận thức luận, bản thể học/siêu hình học về y khoa. Trong nhận thức luận về y khoa, y học dựa trên bằng chứng (EBM - evidence-based medicine) hoặc thực hành dựa trên bằng chứng (evidence-based practice (EBP)) thu hút được nhiều chú ý, đặc biệt là vai trò của sự ngẫu nhiên hóa, các kiểm soát hiệu ứng placebo và hiệu ứng mù. Có một sự quan tâm tăng dần về siêu hình học của y học, đặc biệt là ý niệm về nhân quả sử dụng trong y học. Các nhà triết học về y khoa có thể không quan tâm tới việc làm thế nào để phổ biến các tri thức y khoa, nhưng lại quan tâm về bản chất của hiện tượng đó. Nhân quả được quan tâm bởi vì mục đích của các nghiên cứu y học là thiết lập mối quan hệ nhân quả, ví dụ cái gì gây nên bệnh tật hay cái gì khiến người ta khỏe mạnh.

Triết học về tâm lý học

Triết học về tâm lý học đề cập đến các nền tảng lý thuyết của tâm lý học hiện đại. Một vài trong những vấn đề này là các quan tâm nhận thức luận liên quan đến phương pháp luận của nghiên cứu tâm lý học. Lấy ví dụ, liệu phương pháp tốt nhất để nghiên cứu tâm lý học có phải là chỉ tập trung vào hành vi, phản ứng đáp trả tới kích thích của môi trường bên ngoài hay là các nhà tâm lý học nên tập trung vào các tri giác tinh thần và các quá trình tư duy? Nếu là cái sau, thì một câu hỏi quan trọng là làm thế nào các kinh nghiệm bên trong của người khác có thể đo lường. Sự tự thuật về cảm giác và niềm tin (của thân chủ) có thể không đáng tin cậy, bởi ngay cả trong trường hợp không có động cơ nào để thân chủ cố tình nói dối trong các câu trả lời của họ, việc tự lừa dối hay trí nhớ có chọn lọc có thể ảnh hưởng đến lợi ích của họ. Ngay cả trong trường hợp của các tự thuật chính xác, thì làm thế nào các phản ứng khác nhau có thể được so sánh giữa các cá nhân khác nhau? Ngay cả khi hai cá nhân trả lời giống nhau tới một câu hỏi như là thang đánh giá Likert thì họ vẫn có thể đang trải nghiệm những thứ rất khác nhau.

Một vấn đề khác của triết học về tâm lý học là các câu hỏi triết học về bản chất của tâm trí, não bộ và nhận thức, như là một phần của khoa học nhận thức hoặc triết học về tâm trí. Lấy ví dụ, liệu có người có phải là những sinh vật lý trí? Trong nghĩa nào thì con người có tự do ý chí, và nó liên quan như thế nào đến trải nghiệm về sự lựa chọn? Triết học về tâm lý học cũng theo dõi chặt chẽ các nghiên cứu đương đại được thực hiện trong các lĩnh vực khoa học thần kinh nhận thức, tâm lý học tiến hóa và trí thông minh nhân tạo, đặt câu hỏi về việc liệu chúng có thể được giải thích bằng tâm lý học hay không.

Triết học về tâm thần học

Triết học về kinh tế học

Triết học về khoa học xã hội

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Triết học khoa học** là một nhánh của triết học quan tâm đến nền tảng, phương pháp và các hậu quả của khoa học. Các câu hỏi trung tâm của môn học này bao gồm
**Triết học lịch sử** là nghiên cứu triết học về lịch sử và chuyên ngành của nó. Thuật ngữ này được nhà triết học người Pháp Voltaire đưa ra. Trong triết học đương đại, một
**Triết học hậu hiện đại** là một trào lưu triết học phát sinh vào nửa sau của thế kỷ 20 như là một phản ứng phê phán đối với các giả định được cho là
**Tự nhiên** có hai ý nghĩa liên quan đến nhau trong triết học. Một mặt, nó có nghĩa là tập hợp của tất cả mọi thứ là tự nhiên, hoặc chịu sự hoạt động bình
**Chủ nghĩa tự nhiên** triết học đã được miêu tả theo nhiều kiểu. Theo nghĩa rộng nhất và mạnh nhất, chủ nghĩa tự nhiên là quan điểm siêu hình rằng "tự nhiên là tất cả
**Triết học kinh tế** là một nhánh triết học quan tâm đến các vấn đề kinh tế như sự lựa chọn duy lý; đánh giá sản lượng kinh tế, các định chế và các tiến
nhỏ|516x516px|Một phần của trật tự của các ngành khoa học được đề xuất bởi Balaban và Klein. Hóa học thường được gọi là **khoa học trung tâm** vì vai trò của nó trong việc kết
**Cộng đồng khoa học** là một mạng lưới đa dạng các nhà khoa học tương tác với nhau. Nó bao gồm nhiều " cộng đồng phụ " làm việc trên các lĩnh vực khoa học
Một **lý thuyết khoa học** là một cách giải thích một lĩnh vực nào đó của thế giới tự nhiên mà có thể, căn cứ theo phương pháp khoa học, được kiểm nghiệm lặp lại
**Triết học toán học** là nhánh của triết học nghiên cứu các giả định, nền tảng và ý nghĩa của toán học, và các mục đích để đưa ra quan điểm về bản chất và
**Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn** ( – **VNU-USSH**) là một trường đại học thành viên của Đại học Quốc gia Hà Nội. Trụ sở chính của Trường đặt tại số
**Triết học Marx-Lenin** (phiên âm tiếng Việt: **Triết học Mác - Lênin**) hay **học thuyết Marx-Lenin** là một trong ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa Marx-Lenin, được Marx, Engels sáng lập vào giữa
**Xã hội học** là khoa học về các quy luật và tính quy luật xã hội chung, và đặc thù của sự phát triển và vận hành của hệ thống xã hội xác định về
**Tâm lý học** () là ngành khoa học nghiên cứu về tâm trí và hành vi, tìm hiểu về các hiện tượng ý thức và vô thức, cũng như cảm xúc và tư duy. Đây
phải|Aristotle là một trong những triết gia có ảnh hưởng đến phát triển của đạo đức học. **Luân lý học** hay **triết học đạo đức** là một nhánh của triết học "liên quan đến việc
**Văn học** (chữ Hán: 文學) theo cách nói chung nhất, là bất kỳ tác phẩm nào bằng văn bản. Hiểu theo nghĩa hẹp hơn, thì văn học là dạng văn bản được coi là một
Toán học không có định nghĩa được chấp nhận chung. Các trường phái tư tưởng khác nhau, đặc biệt là trong triết học, đã đưa ra các định nghĩa hoàn toàn khác nhau. Tất cả
**Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh** (, viết tắt là **VNUHCM**), mã đại học **QS**, là một trong hai hệ thống đại học quốc gia của Việt Nam bên cạnh Đại học
nhỏ|Tòa nhà chính của Đại học Khoa học và Công nghệ Huazhong **Trường Đại học Khoa học Kỹ thuật Hoa Trung** là trường đại học trọng điểm cấp quốc gia trực thuộc Bộ Giáo dục
nhỏ|phải|Một phụ nữ khỏa thân đang làm một nghi thức dâng cúng thần linh **Khoả thân trong tôn giáo** (_Nudity in religion_) liên quan đến niềm tin tôn giáo làm cơ sở cho thái độ
Trong cuộc tranh cãi kéo dài hàng nghìn năm nay, các nhà triết học khoa học, tức là những người đề ra phương pháp luận cho nghiên cứu, hết đưa ra giả thuyết này lại
**Địa chất học** là môn khoa học nghiên cứu về các vật chất rắn và lỏng
phải|nhỏ|450x450px| Tòa nhà của Viện Sinh học thuộc Đại học Rzeszów **Đại học Rzeszów** là một trường đại học ở Rzeszów, Ba Lan. Nhà bảo trợ của trường đại học là Saint Queen Jadwiga của
**Trường Đại học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh** là một trường đại học từng tồn tại 20 năm trong lịch sử Việt Nam. Trường này chính thức thành lập ngày 1 tháng 12
**Trường Đại học Rennes 1** (tiếng Pháp: _Université Rennes 1_) là một trường đại học công lập của thành phố Rennes, Pháp. Trường chuyên đào tạo về các chuyên ngành Luật, Kinh tế, Quản lý
thumb|Nhà nguyện Chính tòa Sorbonne **Đại học Sorbonne** (, ) là một trường đại học công lập ở Paris, Pháp. Đại học Sorbonne là một trong những cơ sở đào tạo bậc đại học và
**Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn** ( – **USSH-VNUHCM**) là một thành viên của Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh – hệ thống đại học xếp hạng 158
**Đại học La Habana** hay **UH** (trong tiếng Tây Ban Nha, _Universidad de La Habana_) là một trường đại học nằm ở ở quận Vedado của thủ đô La Habana, Cuba. Trường được thành lập
Chiêm tinh học bao gồm một số hệ thống niềm tin được cho rằng có một mối quan hệ giữa các hiện tượng thiên văn và các sự kiện hay đặc điểm nhân cách trong
**Ngôn ngữ học** hay **ngữ lý học** là bộ môn nghiên cứu về ngôn ngữ. Người nghiên cứu bộ môn này được gọi là nhà ngôn ngữ học. Nói theo nghĩa rộng, nó bao gồm
thumb|upright=1.4|[[Đất xấu khắc vào đá phiến sét dưới chân cao nguyên Bắc Caineville, Utah, trong đèo được khắc bởi sông Fremont và được gọi là the Blue Gate. Grove Karl Gilbert đã nghiên cứu các
**Viện Đại học Đông Dương** (tiếng Pháp: _Université Indochinoise_) là một viện đại học công lập ở Liên bang Đông Dương do chính quyền bảo hộ Pháp thành lập vào năm 1906. Viện đại học
Một tòa nhà của Viện Đại học Huế (nay là [[Đại học Huế), ở số 3 đường Lê Lợi, thành phố Huế. Vào thập niên 1920 đây là trụ sở của Viện Dân biểu Trung
Đại học Quốc gia Bách khoa Lviv tại [[Lviv, Ukraina]] **Đại học Quốc gia Bách khoa Lviv** (tiếng Ukraina: Національний університет «Львівська політехніка»; tiếng Nga: Национальный университет «Львовская политехника»; tiếng Ba Lan: _Politechnika Lwowska_) là
thumb|Tòa nhà chính Đại học Oulu **Trường Đại học Oulu** (tiếng Phần Lan: Oulun yliopisto) là một trong những đại học lớn nhất ở Phần Lan, nằm tại thành phố Oulu. Nó được thành lập
**Đại học Opole** () là một trường đại học công lập ở thành phố Opole. Nó được thành lập vào năm 1994 từ sự hợp nhất của hai tổ chức giáo dục song song. Trường
nhỏ|phải|220x220px|[[Trường Trung học phổ thông Chu Văn An, Hà Nội]] thế=Trường học thời xưa|nhỏ|Trường học thời xưa ở Bắc Kỳ, Việt Nam. nhỏ|[[Trường Larkmead ở Abingdon, Oxfordshire, Anh]] thumb|Đại học Khoa học Ứng dụng LAB
**Đại học Alabama** (tiếng Anh: **The University of Alabama**, được gọi tắt là **Alabama**, **UA**, hoặc **Bama**) là một trường đại học nghiên cứu công lập ở Tuscaloosa, Alabama, Hoa Kỳ. Trường được thành lập
**Dịch tễ học** là khoa học nghiên cứu về tần số và sự phân bố tần số mắc bệnh và tử vong của bệnh trạng cùng với các yếu tố quy định sự phân bố
**Tâm lý học ứng dụng** là việc sử dụng các phương pháp tâm lý và phát hiện của tâm lý học khoa học để giải quyết các vấn đề thực tiễn về hành vi và
**Trường Đại học Cát Lâm** (吉林大学; Jilin University) là trường đại học trọng điểm Quốc gia có quy mô lớn trực thuộc Bộ Giáo dục Trung Quốc. Tháng 6 năm 2000, theo quyết định của
thumb|[[Di tích Nhà thờ Thánh Phaolô, Ma Cao, thuộc đại học Thánh Phaolô]] **Đại học Thánh Phaolô** (tiếng Bồ: Colégio de São Paulo), còn có tên là **Đại học Mẹ Thiên Chúa** (Colégio de Madre
nhỏ|348x348px|Tượng _[[Người suy tư_ của Auguste Rodin là một biểu tượng của tư tưởng triết lý.]] **Triết học** (; ) là một ngành nghiên cứu có hệ thống về những vấn đề cơ bản và
nhỏ|265x265px|Bức tượng _[[Người suy tư_, Auguste Rodin|thế=]] Thuật ngữ "**Triết học phương Tây**" muốn đề cập đến các tư tưởng và những tác phẩm triết học của thế giới phương Tây. Về mặt lịch sử,
**Triết học Việt Nam** là những tư tưởng triết học của người Việt. Trong suốt lịch sử Việt Nam nếu theo tiêu chí của một nền triết học là phải có triết gia, triết thuyết
Một [[bản đồ não tướng học về bộ não người có từ năm 1894. Não tướng học là một trong những nỗ lực đầu tiên liên hệ những chức năng tinh thần với những phần
nhỏ|Các tín đồ Triết học Kitô giáo|255x255px **Triết học Kitô giáo** là một sự phát triển của một hệ thống triết học đặc trưng của truyền thống Kitô giáo. ## Triết học Hy Lạp và
thumb|right|348x348px|Bìa của bài thơ có chủ đề tiến hóa của [[Erasmus Darwin, _Temple of Nature_ cho thấy một nữ thần vén bức màn bí ẩn của thiên nhiên (bên trong là Artemis). Tượng trưng và
**Triết học châu Phi** là triết học được tạo ra bởi những người châu Phi, một loại triết học trình bày những quan điểm về thế giới quan của người Châu Phi, hay triết học
Đây là **danh sách các nhà toán học người Do Thái**, bao gồm các nhà toán học và các nhà thống kê học, những người đang hoặc đã từng là người Do Thái hoặc có