✨Trần Cảo (tướng khởi nghĩa)

Trần Cảo (tướng khởi nghĩa)

Trần Cảo (chữ Hán: 陳暠) là thủ lĩnh quân khởi nghĩa ở Đại Việt cuối thời Lê sơ. Ông lãnh đạo dân chúng nổi dậy chống các triều vua Lê Tương Dực, Lê Chiêu Tông, 3 lần đem quân uy hiếp Đông Kinh, ở lần 2 ông chiếm được Đông Kinh một thời gian. Cuộc nổi dậy của ông tuy thất bại nhưng đã gây cho quân triều đình thiệt hại lớn, và là một tác nhân đưa nhà Lê suy yếu và đi đến sụp đổ. Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục do phải kỵ húy nên thay chữ "cảo" 暠 trong tên ông bằng chữ "cao" 高, gọi ông là Trần Cao (陳高).

Khởi nghĩa

Sử chép Trần Cảo là người trang Dưỡng Chân, huyện Thủy Đường, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương (nay là thành phố Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng).

Cuối thời Lê sơ, Trần Cảo làm đến chức Thuần Mỹ điện giám. Bấy giờ, vua Lê Uy Mục thì tàn ác, vua Lê Tương Dực thì hoang phí sa đọa, triều chính rối ren, khởi nghĩa nông dân liên tiếp nổ ra. Trần Cảo nghe lời sấm truyền trong dân gian rằng "đông phương hữu thiên tử khí", bèn quyết định khởi binh lập nghiệp lớn.

Ông tụ tập những người tha hương trốn tránh làm vây cánh, tự xưng là cháu năm đời của vua Trần Thái Tông và là ngoại thích của Quang Thục hoàng hậu, mẹ vua Lê Thánh Tông. Tháng 3 năm 1516, ông cùng con là Cung (㫒) và các thủ hạ Phan Ất người Chiêm Thành, Đình Ngạn, Đình Nghệ, Công Uẩn, Đình Bảo, Đoàn Bố dấy binh khởi nghĩa ở chùa Quỳnh Lâm, chiếm cứ hai huyện Thủy Đường và Đông Triều.

Trần Cảo khi ra trận mình mặc áo đen, quân lính đều cạo trọc đầu, để ba chỏm tóc nên còn gọi là lính tam đóa (三鬌, nghĩa là ba chỏm tóc). Ông tự xưng là Đế Thích giáng sinh, xưng làm vua, đặt niên hiệu là Thiên Ứng (天應). Cả một vùng Hải Dương phía đông, quân nhà Lê không chống đỡ nổi, quân tam đóa làm chủ. "Đại Việt thông sử" ghi nhận: "vùng Hải Dương đều rạp xuống như cỏ gặp gió, không ai chống cự nổi". Quân của Trần Cảo đông tới vài vạn người.

Đánh chiếm kinh thành

Tháng 4 năm 1516, Trần Cảo mang quân đánh vào các huyện Tiên Du, Quế Dương, Gia Lâm rồi tiến thẳng vào bến Bồ Đề, uy hiếp Thăng Long. Vua Lê Tương Dực phải xuống chiếu thân chinh đi đánh, trước hết sai Đông Nham bá Lại Thúc Mậu mang quân qua sông, đóng ở Lâm Hạ (nay thuộc huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội) ra lệnh nổ ba tiếng pháo, hợp các đạo quân lại cùng đánh. Quân Trần Cảo bị thua, ông chạy về Trâu Sơn.

Lê Tương Dực lại sai Định quận công Phùng Trấn, Diên Hưng bá Trịnh Khổng Chiêu, Phú Lộc bá Trịnh Ngạc đem quân đuổi đánh Trần Cảo. Trần Cảo đại phá quân triều đình, giết chết Phùng Trấn với Trịnh Khổng Chiêu, và bắt sống Trịnh Ngạc. Vì Trịnh Ngạc không chịu đầu hàng nên Trần Cảo cũng giết chết luôn.

Lê Tương Dực lo sợ, triệu tập An Hòa hầu Nguyễn Hoằng Dụ về cứu. Hoằng Dụ mang quân về đóng ở dinh Bồ Đề.

Bấy giờ Nguyên quận công Trịnh Duy Sản thường can ngăn trái ý Lê Tương Dực. Nhà vua bực tức sai đánh Duy Sản bằng trượng. Trịnh Duy Sản tức lắm, ngấm ngầm bàn với Thái sư Lê Quảng Độ, Thượng thư Trình Chí Sâm cùng nhau bỏ Tương Dực để lập vua khác.

Đêm ngày 6 tháng Tư âm lịch (tức 7 tháng 5 năm 1516), Duy Sản lấy cớ đi đánh Trần Cảo nhưng rồi trở mặt giết chết Lê Tương Dực. Nguyễn Hoằng Dụ vốn cùng phe với Tương Dực, thấy Tương Dực bị giết bèn phóng lửa đốt phá và cướp kinh thành, rồi dẫn quân về phía nam, bỏ mặc việc triều chính cho phe Trịnh Duy Sản.

Trịnh Duy Sản cùng Thái sư Lê Quảng Độ lập chắt của Lê Thánh Tông (tức gọi Tương Dực bằng chú) mới 11 tuổi lên ngôi, đó là vua Lê Chiêu Tông. Trần Cảo nhân lúc đạo quân Nguyễn Hoằng Dụ rút rồi, bèn dồn sức tấn công kinh thành. Trịnh Duy Sản lật đật mang vua Chiêu Tông bỏ chạy vào thành Tây Đô ở Thanh Hóa, Thái sư Lê Quảng Độ ra đầu hàng Trần Cảo. Ông bèn thu dụng Lê Quảng Độ, tiến quân qua sông vào thành Thăng Long, giao cho Lê Quảng Độ cho coi việc triều chính.

Đại bại ở kinh thành

Lúc đó con nuôi của Trịnh Duy Sản là Trần Chân họp tập thống suất các dũng sĩ cũ cùng con em trong nhà, binh tráng trong làng được mấy ngàn người, đóng ở chợ Hoàng Hoa để mưu tính công việc đánh Trần Cảo.

Trần Cảo được tin, sai Phan Ất từ làng Bảo Đà huyện Thanh Oai tiến quân; Trần Chân từ làng Dư Dụ huyện Thanh Đàm đem quân đón đánh. Trần Chân tiến đến xạ đôi (mô đất để tập bắn) cố sức đánh nhau với Phan Ất, khí giới đều hết phải lấy mảnh cong mảnh lọ để ném. Răng và miệng Trần Chân bị thương nặng, lại thấy rằng toán quân của mình chơ vơ khó có thể đánh lâu được, bèn nhân đêm rút quân đến chợ Hoàng Hoa.

Lê Chiêu Tông ở Tây Đô, tập hợp lực lượng quân tam phủ (Thiệu Thiên, Hà Trung và Tĩnh Gia thuộc Thanh Hóa) mưu khôi phục Thăng Long, sai Lê Nghĩa Chiêu thảo hịch đánh Trần Cảo.

Quân các trấn theo lời hịch về hội, Trịnh Duy Sản nhận lệnh vua Chiêu Tông thống lĩnh quân thủy lẫn quân bộ, hợp sức các tướng cần vương có Trịnh Hy, Lê Sạn, Lê Dực, Trương Huyền Linh tiến đánh kinh thành, vây 4 mặt.

Trần Cảo mang quân lên lầu ngoài cổng, vẫy cờ bắn súng chống lại. Quân khởi nghĩa từ cầu Mộng tiến vào cung Thuỵ Quang, quân của Trịnh Hy phải lùi lại, sắp rút về giữ Hồng Mai thì gặp quân Nguyễn Hoằng Dụ kéo tới, bèn cùng chấn chỉnh lại đội ngũ tiến vào cửa Đại Hưng.

Duy Sản đổi hướng đánh từ bến Thái Cực sang bến Đông Hà. Quân Trần Cảo núng thế, nhưng quân triều đình vẫn chưa chiếm lại được Thăng Long, bèn chuyển sang vây phía tây.

Trong khi chiến sự kinh thành chưa ngã ngũ thì một tướng ở Sơn Tây là Hà Công Chân muốn tranh công đánh lấy kinh thành, chống lại quân triều đình. Trịnh Duy Sản tự mình mang quân ra chặn đánh, giết chết Công Chân. Sau đó các đạo quân nhà Lê hợp lại phá tan quân Trần Cảo. Ông bèn phá vây bỏ chạy về Lạng Nguyên. Vua Chiêu Tông trở lại kinh đô.

Đại phá Trịnh Duy Sản

Lê Chiêu Tông treo giải thưởng cho ai bắt sống được cha con Trần Cảo. Tháng 8 năm 1516, quân nhà Lê bắt được tướng dưới quyền ông là Phan Ất ở Đông Triều, đóng cũi mang về Thăng Long xử chém.

Trần Cảo vẫn hoạt động mạnh chống lại triều đình. Lê Chiêu Tông dùng Trịnh Duy Sản làm quyền tiết chế các doanh thủy bộ, quản lãnh các huyện ở Hải Dương. Tướng Trịnh Tuy mang quân đến đánh chiếm lại vùng Kinh Bắc từ tay quân Trần Cảo rồi đóng ở phía bắc Thị Cầu.

Tháng 11 năm 1516, Duy Sản cùng Nguyễn Hoằng Dụ dẫn các tướng đi đánh Trần Cảo ở xã Trâu Sơn, huyện Chí Linh (Hải Dương). Tuy nhiên, tình hình ở kinh thành không yên, kỷ luật của tướng sĩ không nghiêm. Các tướng triều đình do Đa Sĩ cầm đầu cậy có công làm càn, hoành hành cướp phá ở kinh đô, thả cửa giết người. Duy Sản nghe tin, vội sai con nuôi là Trần Chân điều bớt quân về kinh để dẹp các tướng làm loạn.

Sau đó quân của Trần Cảo đánh nhau giáp lá cà với quân Duy Sản ở xã Nam Giản. Quân khởi nghĩa giết chết tỳ tướng của Duy Sản là Hạnh. Quân Duy Sản bắt đầu núng thế. Quân Trần Cảo tới khiêu chiến, tuy các tướng can ngăn, nhưng Trịnh Duy Sản lại không nghe theo, tự mình ra quân, tiên phong đánh vào trại Trần Cảo. Trần Cảo biết Sản nôn nóng muốn thắng bèn phục kích, đánh tan quân triều đình. Trịnh Duy Sản cùng Nguyễn Thượng bị Trần Cảo bắt sống mang về hành dinh ở Vạn Kiếp giết chết.

Nhà sư biệt tích

Trần Cảo thừa thắng xông lên, tiến quân thẳng đến Bồ Đề để đánh kinh thành một lần nữa. Kinh thành lại gặp nguy hiểm. Lê Chiêu Tông liền sai tướng quân Thiết Sơn bá Trần Chân mang quân ra đón đánh. Trần Cảo có phần chủ quan sau khi giết được quốc công tiết chế Trịnh Duy Sản, bị Trần Chân đón đánh phá tan tành. Quân khởi nghĩa bị chết trận này rất nhiều.

Trần Cảo bị thua nặng nề, phải chạy lên Lạng Nguyên. Quân Trần Cảo và quân triều đình lấy sông Minh Nguyệt làm ranh giới. Trần Cảo cùng Trần Chân đánh nhau nhiều ngày vẫn không phân thắng bại.

Sau đó, Trần Cảo truyền ngôi cho con là Trần Cung rồi cạo đầu làm sư, giấu tên để trốn tránh. Các sách sử đều ghi nhận, từ đó không tìm ra tung tích của Trần Cảo, không biết kết cục của ông ra sao. Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, tại các thôn Bảo Lộc, An Lạc, Chu Nguyên vẫn còn đền thờ ông và các sử gia phong kiến phỏng đoán "có lẽ Cảo chết ở đó".

Trần Cung nhân lúc các tướng nhà Lê tranh giành quyền bính giết hại lẫn nhau, tiếp tục chiếm cứ phía đông chống lại triều đình, cũng xưng làm vua, đặt niên hiệu là Tuyên Hoà tới tận năm 1521 mới thất bại dưới tay Mạc Đăng Dung – viên tướng giỏi nhất của nhà Lê lúc đó, người không lâu sau lấy ngôi của nhà Lê. Trần Cung bại trận chạy lên châu Thất Nguyên rồi bị triều đình tầm nã bắt được, giải về kinh hành hình.

Bình luận

Khởi nghĩa Trần Cảo là khởi nghĩa lớn nhất thời Lê sơ, tuy cuối cùng thất bại nhưng đã khiến triều đình nhà Lê nghiêng ngả. Các lực lượng quân phiệt khi đó lợi dụng việc chống Trần Cảo để phát triển lực lượng cho mình và hình thành các thế lực chia rẽ, chống đối nhà Lê. Dù không trực tiếp nhưng cuối cùng khởi nghĩa do ông đề xướng là một nguyên nhân khiến cho nhà Lê sụp đổ.

Những người tin thuyết Duy Tâm cho rằng, ông chính là hậu thân tái sinh của Trần Cảo từ thời đầu nhà Lê. Tiền thân Trần Cảo được Lê Lợi dựng làm vua theo lời yêu sách của Vương Thông, tướng nhà Minh. Nhưng sau khi Lam Sơn đại thắng, năm 1428, Lê Lợi đã giết (tiền) Trần Cảo để chiếm ngôi vua. Vì vậy Trần Cảo, hơn 50 năm sau, tái sinh để báo thù.  (Điểm đáng lưu ý là, năm 1516, hậu Trần Cảo khi xưng vua lấy hiệu là Thiên Ứng; trong khi đó tiền Trần Cảo khi được Lê Lợi dựng lên lấy hiệu là Thiên Khánh).

Những người tin sấm vĩ cũng cho rằng, niềm tin của Trần Cảo vào sấm truyền phương đông có khí thiên tử không phải là bừa bãi, bởi không lâu sau khi cha con ông (đều cùng xưng là vua) thất bại, người đánh bại con ông và lấy ngôi nhà Lê - Mạc Đăng Dung – cũng xuất thân từ phương có "khí thiên tử" đó.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Trần Cảo** (chữ Hán: 陳暠) là thủ lĩnh quân khởi nghĩa ở Đại Việt cuối thời Lê sơ. Ông lãnh đạo dân chúng nổi dậy chống các triều vua Lê Tương Dực, Lê Chiêu Tông,
Tượng đài [[Trần Văn Thành ở thị trấn Cái Dầu]] **Khởi nghĩa Bảy Thưa** (1867 - 1873) là một cuộc kháng Pháp do Quản cơ Trần Văn Thành làm thủ lĩnh, đã xảy ra trên
**Khởi nghĩa Bạch Liên giáo ở (các tỉnh) Xuyên, Sở** (chữ Hán: 川楚白莲教起义, Xuyên Sở Bạch Liên giáo khởi nghĩa), thường gọi là **Khởi nghĩa Bạch Liên giáo**, nhà Thanh gọi là **loạn Xuyên Sở
**Khởi nghĩa Lam Sơn** là một cuộc khởi nghĩa trong lịch sử Việt Nam do Lê Lợi lãnh đạo nhằm chống lại sự cai trị của nhà Minh, bắt đầu từ đầu năm 1418 và
nhỏ|Bản đồ các cuộc nổi dậy của nông dân thời nhà Tân, bao gồm các cuộc nổi dậy của Lục Lâm Quân và Xích Mi **Khởi nghĩa Lục Lâm** () là cuộc khởi nghĩa thời
nhỏ|phải|[[Phan Đình Phùng, thủ lĩnh Khởi nghĩa Hương Khê.]] **Khởi nghĩa Hương Khê** (1885 - 1896) là đỉnh cao của phong trào Cần vương, và thất bại của công cuộc này cũng đã đánh dấu
**Khởi nghĩa Khăn Vàng**, tức** loạn Hoàng Cân**, **loạn Huỳnh Cân** hay** loạn Khăn Vàng** (Trung văn giản thể: 黄巾之乱, Trung văn phồn thể: 黃巾之亂, bính âm: Huáng Jīn zhī luàn, âm Hán-Việt: _Hoàng Cân
**Khởi nghĩa nông dân Đàng Ngoài** là phong trào nổi dậy của nông dân miền Bắc nước Đại Việt giữa thế kỷ 18 thời vua Lê chúa Trịnh, hay thời Lê mạt, bắt đầu từ
**Khởi nghĩa Warszawa** () là một cuộc nổi dậy diễn ra trong thế chiến thứ hai do lực lượng kháng chiến Ba Lan Armia Krajowa (**AK**) tiến hành để giải phóng Warszawa từ tay Đức
**Khởi nghĩa Giàng Pả Chay** hay **Nổi dậy Vừ Pả Chay** là một cuộc nổi dậy của người H'Mông chống lại chính quyền thực dân Pháp ở Tây Bắc Đông Dương kéo dài từ năm
**Khởi nghĩa Lư Tuần** (chữ Hán: 卢循起义, Hán Việt: Lư Tuần khởi nghĩa) là cuộc nổi dậy nông dân do Lư Tuần lãnh đạo nhằm chống lại chính quyền Đông Tấn trong lịch sử Trung
**Khởi nghĩa Thanh Sơn** là một trong số các cuộc khởi nghĩa kháng Pháp ở vùng hạ lưu sông Đà thuộc Bắc Kỳ (Việt Nam). Công cuộc này khởi phát năm 1890 đến năm 1892
**Khởi nghĩa Ba Đình** là một trong các cuộc khởi nghĩa của phong trào Cần Vương cuối thế kỷ 19 của nhân dân Việt Nam chống lại ách đô hộ của thực dân Pháp, diễn
**Khởi nghĩa Tôn Ân** (chữ Hán: 孙恩起义, Hán Việt: Tôn Ân khởi nghĩa) là cuộc nổi dậy của nhân dân Chiết Đông dưới sự lãnh đạo của đạo sĩ Thiên Sư đạo là Tôn Ân,
**Khởi nghĩa Hùng Lĩnh** là một cuộc khởi nghĩa trong phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ 19 trong lịch sử Việt Nam. Công cuộc này khởi phát năm 1887 tại Hùng Lĩnh
Nhóm khởi nghĩa của Đề Thám (hình chụp của trung úy Romain-Desfossés) **Khu di tích khởi nghĩa Yên Thế** gồm nhiều di tích liên quan đến cuộc khởi nghĩa Yên Thế. Khu di tích này
Nhóm khởi nghĩa của Đề Thám (hình chụp của trung úy Romain-Desfossés) Yên Thế, Bắc Kỳ - Nhóm nghĩa quân người Mán dưới quyền thủ lĩnh Phạm Quế Thắng ở Vũ NhaiYên Thế, Bắc Kỳ
**Khởi nghĩa Xích Mi** (chữ Hán: 赤眉) là lực lượng khởi nghĩa thời nhà Tân trong lịch sử Trung Quốc chống lại sự cai trị của Vương Mãng. Xích Mi quân cùng Lục Lâm quân
**Khởi nghĩa Bãi Sậy** là một trong các cuộc khởi nghĩa của phong trào Cần Vương cuối thế kỷ XIX của nhân dân Đại Nam chống lại ách đô hộ của thực dân Pháp, diễn
**Nam Kỳ khởi nghĩa** là cuộc nổi dậy vũ trang chống Pháp và Nhật của người dân Nam Kỳ vào năm 1940, do Xứ ủy Nam Kỳ của Đảng Cộng sản Đông Dương chủ trương
**Khởi nghĩa Đại Thừa Giáo** (chữ Hán: 大乘教起义, Đại Thừa Giáo khởi nghĩa) còn gọi là **sự kiện Pháp Khánh** (chữ Hán: 法慶事件, Pháp Khánh sự kiện) hay **khởi nghĩa Pháp Khánh** (chữ Hán: 法慶起义,
**Biến loạn Quý Dậu** (癸酉之变), hay **Khởi nghĩa Thiên Lý Giáo** (天理教起义), **Bát Quái Giáo khởi loạn** (八卦教之乱) là một cuộc khởi nghĩa nông dân của giáo phái Thiên Lý năm Gia Khánh thứ 18
**Trần** () là một họ người Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Việt Nam, Hàn Quốc, Singapore và một số nơi khác trên thế giới. Họ Trần là họ phổ biến nhất tại miền Nam
**Khởi nghĩa tháng 8 năm 1944 tại Romania** hay còn gọi là cuộc **Đảo chính tháng Tám** là một sự kiện chính trị-quân sự xảy ra ở Rumani vào cuối tháng 8 năm 1944. Trong
**Trần Chân** (chữ Hán: 陳真, 1470-1518) là tướng Đại Việt cuối thời Lê sơ, người xã La Khê, huyện Từ Liêm, Hà Nội, Việt Nam. Ông đã đóng vai trò quan trọng trong việc đánh
**Khởi nghĩa ngày 9 tháng 9** hay **Cách mạng Xã hội chủ nghĩa ngày 9 tháng 9** hay **Đảo chính ngày 9 tháng 9** là một sự kiện chính trị-quân sự mang tính bước ngoặt
**Khởi nghĩa Trunajaya** (còn viết là **Trunojoyo**; ) hay **Chiến tranh Trunajaya** là cuộc khởi nghĩa do vương công người Madura Trunajaya và các chiến binh từ Makassar tiến hành nhằm chống lại Vương quốc
**Trần Cảo** (chữ Hán: 陳暠; ?-1428) là một vị vua bù nhìn do thủ lĩnh nghĩa quân Lam Sơn là Lê Lợi lập nên vào cuối thời kỳ Việt Nam nội thuộc triều đại nhà
**Trận Định Tường** hay **Pháp đánh chiếm Định Tường** là một phần của cuộc chiến tranh Pháp-Việt 1858-1884 trong lịch sử Việt Nam, xảy ra từ ngày 26 tháng 3 năm 1861 và kết thúc
**Trận Vạn Tường** là trận đánh chính trong cuộc hành quân Starlite do quân đội Mỹ tiến hành để thử nghiệm chiến thuật _tìm diệt_ (search and destroy) diễn ra vào ngày 18 tháng 8
**Trịnh Trân** (1928-2006) là một sĩ quan cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Trung tướng, ông từng giữ các chức vụ: Phó Phòng Địch vận trực thuộc Tổng cục Chính trị,
**Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam** (phía Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng hòa và các đồng minh thường gọi là **Việt Cộng**) là một tổ chức liên minh chính trị hoạt
**Trần Nguyên Hãn** (chữ Hán: 陳元扞, 1390–1429) là nhà quân sự Đại Việt thời Trần - Lê sơ. Ông là người thuộc dòng dõi nhà Trần, nổi bật với việc tham gia khởi nghĩa Lam
**Cao Thắng** (sinh năm 1864 – mất năm 1893) là một trợ thủ đắc lực của Phan Đình Phùng, và là một chỉ huy xuất sắc trong cuộc Khởi nghĩa Hương Khê (1885-1896) trong lịch
**Khởi nghĩa Mỹ Lương** (sử cũ gọi là **Giặc Châu Chấu**) là một cuộc nổi dậy từ năm 1854 đến năm 1856 để chống lại triều đình vua Tự Đức, do Lê Duy Cự làm
**Lục trấn khởi nghĩa** (chữ Hán: 六镇起义) còn gọi là **loạn Lục trấn** (六镇之亂, Lục trấn chi loạn) là một chuỗi những cuộc bạo động bùng nổ vào đời Nam Bắc triều, được gây ra
**Trận Tốt Động – Chúc Động** hay **Trận Tụy Động** là một trận đánh diễn ra từ ngày 5 đến ngày 7 tháng 11 năm 1426 giữa nghĩa quân Lam Sơn và quân đội nhà
**Tổng khởi nghĩa Hà Nội năm 1945** là sự kiện nhân dân Hà Nội dưới sự lãnh đạo của Việt Minh đã giành chính quyền từ tay phát xít Nhật và chính phủ Đế quốc
**Cao Nghênh Tường** (, ? – 1636), còn có tên là Như Nhạc, tước hiệu là **Sấm vương**, người An Tắc, Thiểm Tây, thủ lĩnh khởi nghĩa nông dân cuối đời Minh. Ông là cậu
**Cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi**, hay còn được gọi là: **cuộc binh biến của Lê Văn Khôi**, **khởi nghĩa của Lê Văn Khôi**, **sự biến thành Phiên An**, là một cuộc nổi dậy
**Lục trấn** (chữ Hán: _六鎮_) là thuật ngữ dành để chỉ 6 trấn quân sự **Ốc Dã**, **Hoài Sóc**, **Vũ Xuyên**, **Phủ Minh**, **Nhu Huyền**, **Hoài Hoang** được thiết lập ở biên cảnh phía bắc,
**Khởi nghĩa Khmelnytsky**, còn gọi là **Chiến tranh Cossack–Ba Lan**, **Khởi nghĩa Chmielnicki**, **cuộc nổi dậy Khmelnytsky**, là một cuộc nổi loạn của người Cossack diễn ra từ năm 1648 đến năm 1657 trên các
**Đường Cao Tổ** (chữ Hán: 唐高祖, hiệu là **Lý Uyên** (李淵), biểu tự **Thúc Đức** (叔德), 8 tháng 4, 566 – 25 tháng 6, 635), là vị hoàng đế khai quốc của triều Đường trong
**Chiến dịch Chi Lăng – Xương Giang** là một loạt trận đánh diễn ra từ ngày 18 tháng 9 năm 1427 đến cuối tháng 10 năm 1427 giữa nghĩa quân Lam Sơn người Việt do
**Trận bao vây thành Đông Quan**, diễn ra cuối năm 1426 đến cuối năm 1427, đánh dấu giai đoạn quyết định trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, khi nghĩa quân dưới sự chỉ huy của
**Trần Lựu** (chữ Hán: 陳榴; ?-?), còn được chép là **Lê Lựu** (黎榴), là một khai quốc công thần nhà Lê sơ trong lịch sử Việt Nam. Ông là một trong số các tướng lĩnh
**Trần Đăng Ninh** (1910 – 1955) là nhà hoạt động cách mạng và quân sự, Chủ nhiệm đầu tiên của Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng, Chủ nhiệm đầu tiên của Tổng cục Cung
**Trận Cửa Cạn** xảy ra tại Cửa Cạn (Phú Quốc) vào khoảng đầu tháng 9 năm 1868 và kéo dài cho đến khoảng tháng 10 cùng năm thì kết thúc, sau khi vị chủ tướng
**Trận Xương Giang** là trận đánh giữa quân khởi nghĩa Lam Sơn và quân đội Đại Minh tại thành Xương Giang năm 1427. Trận đánh kéo dài gần 1 năm và kết thúc bằng thắng
**Trận đồn Mã Cao** xảy ra ngày 2 tháng 2 năm 1887, và kết thúc vào buổi tối cùng ngày; là một trận đánh lớn trong cuộc khởi nghĩa Ba Đình (1886-1887) ở Việt Nam.