Phiên quốc Đông (, ), còn được gọi là Phiên quốc Áo (), Phiên bá quốc Áo (), Phiên bá quốc Đông Bayern (), hoặc ngắn gọi là Ostarrichi hay Osterland, là một bá quốc phía đông nam của Đế quốc La Mã Thần thánh được Charlemagne thành lập vào năm 803 trên bờ sông Danube. Ban đầu nó được đặt dưới quyền thống trị của Công quốc Bavaria và đóng vai trò như một bức tường thành chống lại sự đe dọa từ người Avar. Từng bị đột kích bởi người Magyar vào thế kỷ 10, nó được cai trị bởi các phiên hầu tước nhà Babenberg từ năm 976 với vai trò bảo vệ biên giới giữa Đế chế và Công quốc Hungary. Nó trở thành một Lãnh địa Hoàng gia theo đúng nghĩa của nó khi nhà Babenberg được phong làm Công tước Áo vào năm 1156.
Tên gọi
thumb|Lần xuất hiện đầu tiên của từ là trong tài liệu này, từ được đánh dấu bằng một vòng tròn màu đỏ.
Trong tiếng Latinh đương đại, vùng đất này được gọi là marcha Orientalis ("Phiên hầu quốc phương Đông"), marchia Austriae hay Austriae marchionibus. Tên tiếng Đức cổ, Ostarrîchi lần đầu tiên xuất hiện trên một chứng thư hiến tặng nổi tiếng do Hoàng đế Otto III ban hành tại Bruchsal vào tháng 11 năm 996. Cụm từ có nghĩa là "vùng thường được gọi là ", có lẽ chỉ để chỉ một số điền trang xung quanh trang viên Neuhofen an der Ybbs; tuy nhiên thuật ngữ là nguồn gốc của tên tiếng Đức của Áo, .
Sau đó, phiên hầu quốc còn được gọi là Phiên hầu quốc Áo (tiếng Đức: Markgrafschaft Österreich) hoặc Phiên hầu quốc Đông Bavaria (Bayerische Ostmark, từ thứ hai là bản dịch tiếng Đức của marcha Orientalis, mặc dù không có ví dụ nào về cách sử dụng này liên quan đến Áo được biết đến trước Thế kỷ 19) để phân biệt nó với Phiên hầu quốc Đông Saxon (Sächsische Ostmark) ở phía đông bắc. Trong thời kỳ Anschluss 1938–45, chính quyền Đức Quốc xã đã cố gắng thay thế thuật ngữ "Áo" bằng Ostmark.
Địa lý
Phiên hầu quốc bao gồm các vùng đất phía bắc và nam của sông Danube, với phụ lưu sông Enns ở phía tây tạo thành biên giới với sông Traungau của công quốc bộ lạc Bavaria. Biên giới phía đông với khu vực định cư của người Hungary trong Bồn địa Pannonia dọc theo sông Morava () và sông Leitha, với biên giới Gyepű (vùng Burgenland ngày nay). Ở phía bắc, Phiên hầu quốc giáp với công quốc Bohemia của nhà Přemyslid, các vùng đất ở phía nam thuộc về Công quốc Carinthia cũng vừa mới được thành lập vào năm 976. Phiên hầu quốc ban đầu gần như tuong ứng với vùng Hạ Áo hiện đại.
Nơi cư trú ban đầu của nhà Babenberg có thể là ở Pöchlarn, ở Biên thành La Mã xưa nhưng cũng có thể là Melk, nơi những người cai trị tiếp theo cư ngụ. Huyện biên giới ban đầu trùng với Wachau ngày nay nhưng nó nhanh chóng được mở rộng về phía đông ít nhất là đến Wienerwald. Dưới thời Phiên hầu tước Ernest Dũng cảm (1055–1075), quá trình thực dân hóa vùng Waldviertel phía bắc đến sông Thaya và huyện biên giới Moravia của Bohemia đã bắt đầu và huyện biên giới Hungary được sáp nhập vào Áo. Dinh thự của các phiên hầu tước sau đó được chuyển đến Klosterneuburg cho đến năm 1142 khi Vienna trở thành thủ đô chính thức. Nhà Babenberg có một hệ thống phòng thủ gồm một số lâu đài được xây dựng trong dãy núi Wienerwald và dọc theo sông Danube, trong số đó có Greifenstein. Khu vực xung quanh đã được thuộc địa hóa và Kitô hóa bởi các Giám mục Passau ở Bavaria, với các trung tâm giáo hội đặt tại tu viện dòng thánh Benedictine ở Sankt Pölten, Tu viện Klosterneuburg và Tu viện Heiligenkreuz.
Phiên hầu quốc ban đầu được cư trú bởi sự pha trộn giữa các dân tộc gốc Slavơ và Romano-German bản địa, những người dường như nói các ngôn ngữ Rhaetia-Rôman, tàn tích của những ngôn ngữ này cho đến ngày nay vẫn còn ở các vùng phía bắc nước Ý (tiếng Friuli và tiếng Ladin) và ở Thụy Sĩ (tiếng Romansh). Một số thung lũng trên dãy Alps thuộc Áo vẫn còn những người nói tiếng Rhaeto-Romance cho đến thế kỷ 17.
Lịch sử
Các huyện biên giới đầu tiên mà sau này là Áo và Slovenia là huyện biên giới Avar và huyện biên giới liền kề của Carantania (huyện biên giới Carinthia sau này) ở phía nam. Cả hai đều được thành lập vào cuối thế kỷ 8 bởi Charlemagne sau khi hợp nhất lãnh thổ của các công tước gia tộc Agilolfing của Bavaria chống lại các cuộc xâm lược của người Avar. Khi người Avar biến mất vào những năm 820, họ được thay thế phần lớn bởi người Tây Slav, những người định cư ở đây từ các thành bang của Đại Moravia. Huyện biên giới Pannonia được tách từ Công quốc Friuli vào năm 828 và được xem như một huyện biên giới chống lại Moravia trong lãnh giới Bavaria của người Đông Frank. Các huyện biên giới này đã được gọi là marcha orientalis, tương ứng với một biên giới dọc sông Danube từ Traungau đến Szombathely và sông Rába bao gồm cả lòng chảo Vienna. Vào những năm 890, các huyện biên giới Pannonia dường như đã không còn do sự đe dọa từ Đại Moravia với các cuộc xâm lược của người Hungary vào châu Âu. Sau thất bại của Phiên hầu tước Luitpold xứ Bavaria trong trận Pressburg năm 907, tất cả các vùng đất Đông Frank bên ngoài sông Enns đều bị mất.
thumb|left|Công quốc Bavaria năm 976.
Vào năm 955, Vua Otto I của Đức đã bắt đầu cuộc tái chinh phục và chiến thắng trong Trận Lechfeld năm 955. Sự mù mờ về khoảng thời gian từ khoảng năm 900 đến năm 976 khiến một số người cho rằng một huyện biên giới Pannonia hoặc của Áo đã tồn tại chống lại người Magyar, cùng với các huyện biên giới khác đã được hợp nhất vào Bavaria vào năm 952 (Carniola, Carinthia, Istria và Verona). Tuy nhiên, phần lớn (Hạ) Pannonia vẫn bị người Magyar chinh phục. Năm 976, trong một cuộc tái cơ cấu chung của Bavaria sau cuộc nổi dậy của Heinrich Người tranh cãi, con trai của Otto và là Hoàng đế kế vị Otto II đã có một marcha Orientalis mới được dựng lên trên lãnh thổ của huyện biên giới Pannonia trước đây. Ông lần lượt chỉ định bá tước nhà Babenberg, Leopold Vinh quang để hỗ trợ ông. Leopold đã thay thế một Burchard, người ít tên tuổi nhưng đã nắm quyền liên tục ở huyện biên giới trong khoảng thời gian 900–976.
Áo dưới chế độ phiên hầu đạt đến đỉnh cao nhất dưới thời Leopold III, một người bạn tuyệt vời của nhà thờ và là người sáng lập ra các tu viện. Ông đã bảo trợ các thị trấn và phát triển một mức độ độc lập lãnh thổ lớn. Năm 1139, Leopold IV thừa kế Bavaria. Khi người kế vị của ông, vị vua cuối cùng, Henry Jasomirgott, bị tước đoạt Bavaria vào năm 1156, Áo được nâng lên thành một công quốc độc lập với Bavaria bởi của Hoàng đế Frederick Barbarossa. Từ năm 1192, Nhà Babenberg cũng cai trị Công quốc Styria lân cận. Dòng họ này đã tuyệt tự sau cái chết của Công tước Frederick II của Áo trong Trận chiến sông Leitha năm 1246. Di sản cuối cùng đã được xác nhận bởi vua Đức Rudolf I của Đức chống lại Vua Ottokar II của Bohemia vào năm 1278 trong Trận Marchfeld.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Phiên quốc Đông** (, ), còn được gọi là **Phiên quốc Áo** (), **Phiên bá quốc Áo** (), **Phiên bá quốc Đông Bayern** (), hoặc ngắn gọi là **Ostarrichi** hay **Osterland**, là một bá quốc
**Công quốc Áo** () là một công quốc thời Trung cổ của Đế chế La Mã Thần thánh, được thành lập vào năm 1156 bởi _Privilegium Minus_, khi Phiên hầu quốc Áo (Ostarrîchi) tách khỏi
thumb|right|Biểu trưng hoàng gia của Đế quốc Áo với quốc huy ít hơn (được sử dụng cho đến năm 1915 thời Áo-Hung) thumb|right|Biểu trưng hoàng gia của Đế quốc Áo với quốc huy vừa phải
**Phiên hầu quốc Baden** (tiếng Đức: _Markgrafschaft Baden_; tiếng Anh: _Margraviate of Baden_) là một nhà nước của Đế chế La Mã Thần thánh. Lãnh thổ Baden trải dọc theo phía Đông của Thượng sông
**Phiên địa Bá quốc Moravia** (tiếng Séc: _Markrabství moravské_; tiếng Đức: _Markgrafschaft Mähren_) hay còn gọi là "Phiên hầu quốc Moravia". Nó là một trong những vùng đất cấu thành nên Lãnh thổ vương quyền
** Đế quốc Áo-Hung**, **Nền quân chủ kép**, hoặc gọi đơn giản là _Áo_, là một chính thể quân chủ lập hiến và cường quốc ở Trung Âu. Đế quốc Áo-Hung được thành lập năm
**Công quốc Bayern** (tiếng Đức: _Herzogtum Bayern_; tiếng Latinh: _Ducatus Bavariae_) là một công quốc Đức trong Đế chế La Mã thần thánh. Hình thành từ vùng lãnh thổ định cư của các bộ tộc
**Lịch sử Áo** là lịch sử của nước Áo ngày nay và các quốc gia tiền thân của nó từ đầu thời kỳ đồ đá cho đến nay. Tên _Ostarrîchi_ (Áo) đã được sử dụng
**Tổng thống Áo** () là nguyên thủ quốc gia của Áo. Chức vụ tổng thống được Quốc hội lập hiến Áo thành lập vào năm 1920 sau khi Đế quốc Áo-Hung và chế độ quân
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Wien-Innere_Stadt_-_Verfassungsgerichtshof_und_Kunstforum.jpg|phải|nhỏ|Trụ sở Tòa án Hiến pháp tại Viên. **Tòa án Hiến pháp Áo** () là cơ quan giám sát hiến pháp của Áo. Tòa án Hiến pháp có nhiệm vụ giám sát tính hợp hiến
**Áo**, quốc hiệu là **Cộng hòa Áo**, là một quốc gia không giáp biển nằm tại Trung Âu. Quốc gia này tiếp giáp với Cộng hòa Séc và Đức về phía bắc, Hungary và Slovakia
**Quốc kỳ Đức** () gồm ba dải ngang bằng hiển thị các màu quốc gia của Đức: đen, đỏ, vàng. Thiết kế này được thông qua làm quốc kỳ của nước Đức hiện đại vào
**Vương quốc Liên hiệp Anh và Ireland** hoặc **Vương quốc Liên hiệp Đại Anh và Ireland** () là quốc gia được thành lập ngày 1 tháng 1 năm 1801 khi Vương quốc Đại Anh và
**Phiên địa Bá tước** (), còn được gọi là **Phiên hầu tước** hay **Phiên hầu**, là một tước vị quý tộc cao cấp trong Đế quốc La Mã Thần thánh. Thuật ngữ tiếng Anh của
**Hội Quốc Liên** là một tổ chức liên chính phủ được thành lập vào ngày 10 tháng 1 năm 1920 theo sau Hội nghị hòa bình Paris nhằm kết thúc Thế Chiến 1. Đây là
**Rudolf của Áo** (_Rudolf Franz Karl Josef_; 21 tháng 8 năm 1858 – 30 tháng 1 năm 1889) là người con thứ ba và là con trai duy nhất của Hoàng đế Franz Joseph I
Dưới đây là danh sách các hôn phối hoàng gia Áo kể từ khi nước này được thành lập với vai trờ là một Phiên biên trấn của đế quốc La Mã Thần thánh vào
**Đế quốc Ottoman** còn được gọi là **Đế quốc Osman** (; **', ; or **'; ) hay **Đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ**, là một Đế quốc trải rộng xuyên suốt Nam Âu, Trung Đông và
**Đế quốc Nga** () là một quốc gia tồn tại từ năm 1721 đến khi Chính phủ lâm thời lên nắm quyền sau cuộc Cách mạng Tháng Hai năm 1917. Là đế quốc lớn thứ
**Vương quốc Hannover** (tiếng Đức: _Königreich Hannover_; tiếng Anh: _Kingdom of Hanover_) được thành lập vào tháng 10/1814 bởi Đại hội Viên trên cơ sở lãnh thổ cũ của Tuyển hầu quốc Hannover (Braunschweig-Lüneburg) trong
thumb|Triều đình Hoàng gia của [[Maria Theresia của Áo|Maria Theresia ở Hofburg, Vienna, Đại công quốc Áo]] **Quý tộc Áo** (tiếng Đức: _österreichischer Adel_; tiếng Anh: _Austrian nobility_) là một nhóm tầng lớp có địa
**Chiến tranh Nha phiến lần thứ hai**, **Chiến tranh Anh-Trung**, **Chiến tranh Trung Hoa lần thứ hai**, **Chiến tranh Mũi tên**, hoặc **Anh-Pháp viễn chinh Trung Quốc**, là một cuộc chiến tranh giữa Đế quốc
**Hải quân Đế quốc Nhật Bản** (kanji cổ: 大日本帝國海軍, kanji mới: 大日本帝国海軍, romaji: _Dai-Nippon Teikoku Kaigun_, phiên âm Hán-Việt: **_Đại Nhật Bản Đế quốc Hải quân_**), tên chính thức **Hải quân Đế quốc Đại Nhật
nhỏ|Vương miện Hoàng đế Áo từ năm 1804 tới 1918. **Hoàng đế Áo**, đôi khi còn gọi là **Áo hoàng** (tiếng Đức: **_Kaiser von Österreich_**) là ngôi Hoàng đế cha truyền con nối và là
**Vương quốc Ý** (, ) là sự thống nhất Ý trước và trong giai đoạn 1805-1814, nằm trong lãnh thổ nước Ý ngày nay, một quốc gia trên lãnh thổ mà không còn tồn tại,
**Quốc kì Ba Lan** () gồm hai sọc ngang có chiều rộng bằng nhau, sọc trên màu trắng và sọc dưới màu đỏ. Hai màu được quy định trong hiến pháp Ba Lan là màu
Đế kỳ [[Nhà Hohenzollern|Hohenzollern.]] **Đế quốc Đức** (tiếng Đức: _Deutsches Reich_), hay **Đế chế thứ hai** hay **Đệ nhị Đế chế** () được tuyên bố thiết lập vào ngày 18 tháng 1 năm 1871 sau
**Elisabeth của Áo** (; 5 tháng 7 năm 1554 – 22 tháng 1 năm 1592) là Vương hậu nước Pháp từ năm 1570 đến năm 1574 thông qua cuộc hôn nhân với Charles IX của
thumb|Huy hiệu của dòng Ernestines **Các công quốc Ernestine** (tiếng Đức: _Ernestinische Herzogtümer_), còn được gọi là các công quốc Sachsen (Sächsische Herzogtümer, mặc dù các công quốc được cai trị bởi dòng Albertine gồm
nhỏ|375x375px|[[Wiener Schnitzel, một món ăn truyền thống của Áo làm từ thịt không xương được làm mỏng bằng một cái vồ, và tẩm bột chiên giòn, trứng, bột mì rồi rán]] nhỏ|250x250px|[[Apfelstrudel]] **Ẩm thực Áo**
Các **tuyển hầu tước xứ Pfalz** (Tiếng Đức: _Kurfürst von der Pfalz_) cai trị nhà nước Kurpfalz thuộc vương quốc Đức và sau là đế quốc La Mã Thần thánh từ năm 915 đến năm
thumb|Rudolf IV – _Rudolfus Archidux Austriae_ – với [[mũ Đại công tước, vẽ khoảng 1365]] **_Privilegium maius_** (tiếng Đức: Großer Freiheitsbrief 'quyền lợi lớn hơn') là một bộ tài liệu thời trung cổ được làm
Các quốc gia trên thế giới có đặt căn cứ quân sự của Hoa Kỳ. **Chủ nghĩa đế quốc Mỹ** () là một thuật ngữ nói về sự bành trướng chính trị, kinh tế, quân
**Maria Antonia Josepha của Áo** (tiếng Đức: _Maria Antonia Josepha von Österreich_; tiếng Tây Ban Nha: _María Antonia Josefa de Austria_; tiếng Anh: _Maria Antonia Josepha of Austria_; 18 tháng 1 năm 1669 – 24
Nước hoa vùng kín - Dionel Secret Love 2 in 1Dung tích: 5ml++ Sản phẩm đã được bộ y tế Hàn Quốc cấp giấy phép đưa vào sử dụng rộng rãi trên toàn quốc.** CÔNG
Nước hoa vùng kín - Dionel Secret Love 2 in 1Dung tích: 5ml++ Sản phẩm đã được bộ y tế Hàn Quốc cấp giấy phép đưa vào sử dụng rộng rãi trên toàn quốc.** CÔNG
Nước hoa vùng kín - Dionel Secret Love 2 in 1Dung tích: 5ml++ Sản phẩm đã được bộ y tế Hàn Quốc cấp giấy phép đưa vào sử dụng rộng rãi trên toàn quốc.** CÔNG
thumb|[[Cecil Rhodes và dự án đường sắt Cape-Cairo. Rhodes thích "tô bản đồ nước Anh màu đỏ" và tuyên bố: "tất cả những ngôi sao này... những thế giới bao la vẫn còn ngoài tầm
nhỏ|Lãnh thổ Đế chế La Mã Thần thánh, khoảng thế kỷ XI. **Công quốc bộ tộc** hay **công quốc gốc** () là các lãnh thổ của các bộ tộc Đức, gồm các tộc người Frank,
**Thân vương quốc Opava** (tiếng Séc: _Opavské knížectví_; tiếng Ba Lan: _Księstwo Opawskie_) hay **Công quốc Troppau** (tiếng Đức: _Herzogtum Troppau_) là một lãnh thổ lịch sử được tách ra khỏi Phiên địa Bá quốc
**Công ước Viên về Luật Điều ước quốc tế** (tiếng Anh: **Vienna Convention on the Law of Treaties**, viết tắt: **VCLT**) là một thỏa thuận quốc tế quy định các điều ước quốc tế giữa
**Quốc kỳ Albania** (tiếng Albania: _Flamuri i Shqipërisë_) là một lá cờ có nền đỏ với một con đại bàng đen hai đầu ở trung tâm. Đó là quốc kỳ có hai màu đỏ và
thumb|Quân hàm Lục quân thumb|Phù hiệu (Hạ sĩ quan và binh sĩ) **_Quân đội Đức_** (Heer), là Lục quân Đức và là một phần lực lượng _Wehrmacht_ rộng lớn hơn, thực sự đã kế thừa
**Âm Hán Việt** (音漢越) là thuật ngữ chỉ các âm đọc của chữ Hán được người nói tiếng Việt xem là âm đọc chuẩn dùng để đọc chữ Hán trong văn bản tiếng Hán vào
**Hải quân Quốc gia Khmer** (tiếng Pháp: _Marine Nationale Khmère_ – MNK; tiếng Anh: _Khmer National Navy_ – KNN) là quân chủng hải quân Quân lực Quốc gia Khmer (FANK) và là lực lượng quân
**Maria Antonia của Áo** (tiếng Đức: _Maria Antonia von Österreich_; 2 tháng 11 năm 1755 – 16 tháng 10 năm 1793), nguyên là Nữ Đại công tước Áo, thường được biết đến với tên Pháp
**Harta** là một ngôi làng nằm ở xã Dynów, huyện Rzeszowski, tỉnh Podkarpackie, Ba Lan. Làng có kiểu một đường trục xuyên suốt tọa lạc tại chân đồi Dynowskie, trong trũng suối cùng tên trải
**Phiên thiết Hán-Việt** là dùng cách **phiên thiết** (反切), tức là dùng âm của hai chữ khác (được coi là đã biết cách đọc) ghép lại để chú âm cho cách đọc âm Hán của
**_Người đàn ông thứ ba_** là bộ phim đen năm 1949 của Carol Reed làm đạo diễn, do Graham Greene viết kịch bản và có sự tham gia của Joseph Cotten, Alida Valli, Orson Welles
**Đội tuyển bóng đá quốc gia Ý** () là đội tuyển bóng đá quốc gia đại diện cho nước Ý thi đấu ở các giải bóng đá cấp châu lục và thế giới. Đội tuyển