✨Công quốc bộ tộc

Công quốc bộ tộc

nhỏ|Lãnh thổ Đế chế La Mã Thần thánh, khoảng thế kỷ XI. Công quốc bộ tộc hay công quốc gốc () là các lãnh thổ của các bộ tộc Đức, gồm các tộc người Frank, người Sachsen, người Baiern và người Alemanni, cấu thành nên Vương quốc Đức vào thời điểm sụp đổ của Vương triều Caroling sau cái chết của Ludwig Trẻ con (Ludwig das Kind) năm 911, qua đến giai đoạn chuyển tiếp dẫn đến sự hình thành Vương triều Otto sau đó.

Sau khi thay thế Vương triều Meroving cai trị Đông Francia, các vua Caroling đã xóa bỏ các lãnh thổ bộ tộc thời kỳ đầu của Đế chế vào thế kỷ thứ 8. Khi Đế quốc Carolus suy tàn, các bộ tộc cũ trỗi dậy, nhưng với một danh nghĩa mới. Năm công quốc bộ tộc mới (đôi khi còn được gọi là "công quốc bộ tộc trẻ" để phân biệt với các lãnh thổ bộ tộc thời kỳ tiền Caroling, đôi khi cũng được gọi là "công quốc bộ tộc") là: Bayern (người Baiern), Franken, Lothringen (người Frank), Sachsen (người Sachsen) và Schwaben (người Alemanni). Các vua của Vương triều Salic (trị vì 1027–1125) vẫn giữ các công quốc bộ tộc như các bộ phận chính của nước Đức, nhưng chúng ngày càng trở nên lỗi thời trong thời kỳ đầu trung cổ, dưới triều đại Hohenstaufen, và cuối cùng đã bị Frederick Barbarossa bãi bỏ vào năm 1180 để ủng hộ quá trình phân chia lãnh thổ các bộ tộc cũ thành các công quốc thực thụ.

Các bộ tộc Đức (Stämme)

nhỏ|Bản đồ ngôn ngữ của người Đức cổ (Alemannic và Baiern), người Frank cổ, người Sachsen cổ và người Friesisch cổ vào thời [[Otto I của Thánh chế La Mã|Otto I, thế kỷ thứ 10.]] Nguồn gốc của người Đức từ một số bộ tộc Đức (Deutsche Stämme; Volksstämme) được phát triển trong lịch sử và dân tộc học Đức trong thế kỷ 18-19. Khái niệm "bộ tộc Đức" liên quan đến gia đoạn Sơ kỳ và Trung kỳ Trung Cổ, được phân biệt với khái niệm các bộ lạc Đức chung chung hơn ở Hậu kỳ cổ đại. Đôi khi khái niệm này có sự phân biệt giữa khái niệm "bộ tộc cổ đại" (Altstämme), tồn tại trong thế kỷ 10 và "bộ tộc mới" (Neustämme), xuất hiện trong giai đoạn Trung kỳ Trung cổ do kết quả của sự mở rộng về phía đông. Việc phân định hai khái niệm trên khá là mơ hồ, và kết quả là khái niệm này làm nảy sinh một lịch sử tranh chấp chính trị và học thuật. Các thuật ngữ Stamm (bộ tộc), Nation (quốc gia) hoặc Volk (dân tộc) được sử dụng khác nhau trong lịch sử Đức hiện đại phản ánh các khái niệm tương đương trong Tiếng Latinh là gens, natio hoặc populus trong các tài liệu nguồn thời Trung cổ.

Sử học truyền thống của Đức ghi nhận sáu Altstämme hay "bộ tộc cổ đại", gồm người Baiern, người Alemanni, người Frank, người Sachsen, người Friesisch và người Thüringer. Tất cả đều đã được hợp nhất trong Đế quốc Carolus vào cuối thế kỷ thứ 8. Chỉ có bốn bộ tộc trong số này được tái hình thành thành các các công quốc bộ tộc sau này; công quốc Thüringen thời Meroving trước đây bị nhập vào Sachsen năm 908 trong khi công quốc Friesisch trước đây đã bị chinh phục, nhập vào Francia vào năm 734. Luật tục hoặc luật bộ tộc của các nhóm này được ghi lại vào đầu thời kỳ trung cổ ( Lex Baiuvariorum, Lex Alamannorum, Lex SalicaLex Ripuaria, Lex Saxonum, Lex FrisionumLex Thuringorum). Luật tục Franken, Sachsen và Schwaben vẫn có hiệu lực và cạnh tranh tốt với luật của triều đình Thánh chế La Mã cho đến thế kỷ 13.

Danh sách các Neustämme (bộ tộc mới) ít xác định hơn nhiều và có thể thay đổi đáng kể; các nhóm đã được liệt kê trong tiêu đề này bao gồm Märker, Lausitzer, Mecklenburger, Thượng Sachsen, Pomerania, Silesia và Đông Phổ, phản ánh đại khái hoạt động định cư của người Đức trong thế kỷ 12 đến 15.

Việc sử dụng khái niệm Stämme (bộ tộc) chứ không phải là Völker (dân tộc), xuất hiện vào đầu thế kỷ 19 trong bối cảnh dự án thống nhất nước Đức. Karl Friedrich Eichhorn năm 1808 vẫn sử dụng khái niệm Deutsche Völker (các dân tộc Đức). Friedrich Christoph Dahlmann năm 1815 đã yêu cầu sử dụng khái niệm dân tộc Đức (Volk) thống nhất trong các bộ tộc của mình (in seinen Stämmen). Thuật ngữ này đã trở thành tiêu chuẩn và được phản ánh trong phần mở đầu của hiến pháp Weimar năm 1919, đọc là Das deutsche Volk, einig trong seinen Stämmen [. . . ] ("Dân tộc Đức, thống nhất trong các bộ tộc của mình...").

Thành phần dân số Đức truy nguồn về các bộ tộc này như một thực tế lịch sử hầu như được công nhận trong sử học đương đại, trong khi các học giả thường xuyên đưa ra lời cảnh báo rằng mỗi bộ tộc nên được xem như một trường hợp riêng lẻ có lịch sử dân tộc khác nhau, mặc dù một số sử gia đã làm sống lại thuật ngữ "dân tộc" (Völker) hơn là "bộ tộc" (Stämme).

Sự phân chia vẫn được sử dụng hiện tại trong phân loại thông thường các phương ngữ tiếng Đức thành tiếng Franken, tiếng Alemanni, tiếng Thuringen, tiếng Bayern và tiếng Hạ Đức (bao gồm tiếng Friso-Saxon, với tiếng Frisian được coi là một ngôn ngữ riêng biệt). Tại Bayern ngày nay, sự phân chia thành "bộ tộc Bayern" (bayerische Stämme) vẫn còn tồn tại đối với các quần thể của Altbayern (thuộc Bayern), Franken và Schwaben.

Đông Francia

Đế chế thống nhất Đông Francia thực chất được tổ hợp thành từ các lãnh thổ bộ tộc, đứng đầu bởi các thủ lĩnh bộ tộc được công nhận các chức vụ như rex hoặc dux tùy theo địa vị của họ trong đế chế. Có địa vị cao nhất trong số đó, là các tộc người Sachsen và người Bayern, vốn đã bị Charlemagne chinh phục, và người Alamannen, chịu thần phục người Frank vào năm 746. Trong sử học Đức, họ được gọi là jüngere Stammesherzogtümer (các công quốc bộ tộc trẻ), nhằm phân biệt với các công quốc bộ tộc cũ từng là chư hầu dưới thời Vương triều Meroving. Mặc dù vậy, thuật ngữ "công quốc bộ tộc" vẫn được dùng phổ biến để chỉ khái niệm này. Nhà sử học Herwig Wolfram phủ nhận bất kỳ sự phân biệt thực sự nào giữa các công quốc bộ tộc cũ hơn và trẻ hơn, hoặc giữa các công quốc bộ tộc của Đức và các lãnh thổ thành bang tương tự ở các vùng khác của đế chế Caroling:

Sau các Hiệp ước Verdun (843), Meerssen (870) và Ribemont (880), Vương quốc Đông Francia được hình thành từ các lãnh thổ của người Baiern, Alamannen và Sachsen, cùng với các phần phía đông lãnh thổ của người Frank. Vương quốc được phân chia vào năm 864–865 cho các con trai của Ludwig Người Đức, phần lớn dọc theo ranh giới của các bộ tộc này. Tuy nhiên, vương quyền của tộc Caroling nhanh chóng tan rã sau năm 899 dưới sự cai trị của Ludwig Trẻ con, điều này cho phép các lãnh chúa địa phương hồi sinh các công quốc bộ tộc với tư cách là các thực thể tự trị và cai trị các bộ tộc của họ dưới quyền tối cao của nhà vua.

Đế chế La Mã Thần thánh

nhỏ| [[Vương quốc Đức|Vương quốc Frank Đông (919–1125) với các lãnh thổ công quốc bộ tộc: Sachsen màu vàng, Franken màu xanh lam, Baiern màu xanh lục, Schwaben màu cam nhạt và Lothringen màu hồng.]] Sau cái chết của Ludwig Trẻ con vào năm 911, các bộ tộc vẫn tiếp tục thừa nhận sự thống nhất của vương quốc. Các lãnh chúa đã tập hợp và bầu Konrad I làm vua của họ. Theo luận điểm của Tellenbach, chính các lãnh chúa bộ tộc đã tạo ra các công quốc dưới thời trị vì của Konrad. Không có bộ tộc nào cố gắng thành lập một vương quốc độc lập. Ngay cả sau cái chết của Konrad vào năm 918, khi việc bầu chọn Heinrich Người săn chim dẫn đến tranh chấp, đối thủ của ông, Arnulf I xứ Bayern, đã không thành lập một vương quốc riêng biệt mà tuyên bố chủ quyền toàn bộ vương quốc, trước khi bị Heinrich buộc phải phục tùng vương quyền.

Năm công quốc bộ tộc đó là:

; Công quốc Franconia (Ducatus Franconiae, Herzogtum Franken) : Thuộc gia tộc Konradiner, một nhánh thân cận hoàng gia, đã giành được quyền bá chủ ở Frank nhưng không bao giờ thống nhất được khu vực này. Franken không bao gồm toàn bộ lãnh thổ của người Frank cũ, được gọi là Austrasia, mà đã bị chia thành ba phần trong Hiệp ước Verdun năm 843, hai phần còn lại trở thành Lotharingia và cốt lõi của vương quốc Pháp, tương ứng. Sau khi có được vương vị vào năm 911, tộc Konradiner phải nhường lại vương quyền cho gia tộc Liudolfinger người Sachsen. Sau một cuộc nổi dậy thất bại, quyền lực của tộc Konradiner bị phế trừ và công quốc bị chuyển thành lãnh thổ của vương quyền. Lãnh thổ này bị chia cắt thành một tập hợp gồm các lãnh địa quý tộc và lãnh địa giáo hội ngay từ năm 939 và không bao giờ được khôi phục như một thực thể chính trị hoặc bộ phận hành chính. Franken cũng không giữ được bản sắc văn hóa hoặc ngôn ngữ của mình; các phương ngữ Franken hiện nay được phân bổ dọc theo dãy phương ngữ, được chia thành các nhánh Thượng Franken, Trung Franken và Hạ Franken, cùng các phương ngữ phụ của chúng.

; Công quốc Lotharingia (Ducatus Lotharingiae, Herzogtum Lothringen) : Là thành phần cốt lõi của vương quốc Frank và với bản sắc cơ bản là bộ tộc Frank, Lothringen được tách ra khỏi Austrasia như một phần của Trung Francia vào năm 843, và được tổ chức thành một công quốc vào năm 903. Nó tiếp tục bị chuyển đổi qua lại trong các quyền kiểm soát giữa vương quốc Đông và Tây Francia cho đến năm 939, khi nó được hợp nhất chắc chắn vào Đông Francia. Năm 959, công quốc được chia thành Hạ Lothringen (sau đó lại bị chia cắt thành các bá quốc và công quốc của Hà Lan, mà ngày nay là Bỉ, Hà Lan và Luxembourg, để cuối cùng được thống nhất bởi Công tước xứ Bourgogne) và Thượng Lothringen (gồm các phần mà về sau đã phát triển vào lãnh thổ của Pháp được gọi là Lorraine). Hạ Lothringen vẫn là một công quốc của Đế chế La Mã Thần thánh cho đến năm 1190, khi nó được chuyển giao cho Công tước xứ Brabant.

; Công quốc Swabia (Ducatus Suebiae, Herzogtum Schwaben) : Về danh nghĩa, người Alamannen đã được quy thuận vương quốc Frank từ cuối thế kỷ thứ 5, nhưng lãnh thổ bộ tộc này đã lập lại thành một công quốc dưới sự kiểm soát trực tiếp của người Frank chỉ vào năm 746. Tên gọi AlamannenSchwaben ít nhiều được sử dụng thay thế cho nhau trong giai đoạn Trung kỳ Trung cổ. Tộc Burchardinger dựa trên nên tảng thế lực từ Thurgau, trở thành gia tộc đầu tiên vươn lên nắm giữ địa vị công tước, nhưng họ cũng sớm mất quyền thống trị trong cuộc đấu tranh với các vị vua Liudolfinger. Sau khi được chuyển quyền cai trị qua các gia tộc khác nhau, công quốc được chuyển giao cho gia tộc Hohenstaufen vào năm 1079. Sự gia tăng vương quyền của gia tộc này đã biến Schwaben trở thành căn cứ của hoàng gia, nhưng sự sụp đổ của gia tộc vào thế kỷ 13 đã khiến Schwaben rơi vào tình trạng hỗn loạn hoàn toàn, phần còn lại rơi vào tay các gia tộc Wittelsbach, Württemberg và Habsburg, gia tộc này ngay sau khi đối mặt với sự ly khai của Cựu Liên bang Thụy Sĩ. Lãnh thổ cốt lõi của Schwaben tiếp tục tồn tại với tên gọi Bá quốc Württemberg, được nâng lên thành Công quốc vào năm 1495, sau đó trở thành Vương quốc Württemberg trong nước Đức thế kỷ 19.

; Công quốc Saxonia (Ducatus Saxoniae, Herzogtum Sachsen) : Gia tộc Liudolfinger, vốn từ lâu đã giữ địa vị quan trọng trong chính quyền của Sachsen, đã vươn lên địa vị công tước và thậm chí là ngai vua sau năm 919. Vào thế kỷ 11, Công quốc được cai trị bởi gia tộc Billunger. Sau năm 1137, gia tộc Welf đã giành được quyền cai trị công quốc. Sự sụp đổ của Công tước Heinrich Sư Tử vào năm 1180 dẫn đến sự tan rã của công quốc, chia cắt thành Công quốc Westphalia và Công quốc Brunswick-Lüneburg, để lại một Công quốc Sachsen cốt lõi trên sông Elbe, giao cho người Ascanians. Phần còn lại này cuối cùng được chia thành Sachsen-Lauenburg và Sachsen-Wittenberg vào năm 1296, sau này được nâng lên địa vị Tuyển hầu vào năm 1356. Nó trở nên độc lập với tên gọi Vương quốc Sachsen sau khi Đế chế La Mã Thần thánh tan rã.

; Công quốc Bavaria (Ducatus Bavariae, Herzogtum Bayern) : Gia tộc Luitpoldinger, vốn khởi đầu chỉ là chịu trách nhiệm trấn thủ vùng Phiên địa Carinthia, đã vươn lên địa vị công tước. Họ được kế vị bởi một nhánh của vương tộc Liudolfinger và cuối cùng là gia tộc Welf, những lãnh chúa có đối kháng với các vua Hohenstaufen, dẫn đến việc Bayern bị tước bỏ Áo (1156), Steiermark và Tyrol (1180). Lãnh thổ công quốc bị thu hẹp được trao cho gia tộcWittelsbach. Bayern vẫn nằm dưới sự kiểm soát của gia tộc Wittelsbach cho đến Thế chiến thứ nhất, mặc dù nó đã nhiều lần bị chia thành các công quốc nhỏ hơn giữa các nhánh của gia tộc trong suốt thế kỷ 13 đến thế kỷ 15, được tái thống nhất dưới thời Công tước Albrecht IV xứ Bayern vào năm 1503. Vào năm 1623, nó được nâng lên địa vị Tuyển hầu, và sau sự tan rã của Đế chế La Mã Thần thánh, nó trở thành một Vương quốc Bayern độc lập.

Di sản

Lịch sử chính trị phức tạp của Đế chế La Mã Thần thánh trong thời Trung cổ đã dẫn đến sự phân chia hoặc thành lập của hầu hết các công quốc đầu thời Trung cổ. Frederick Barbarossa vào năm 1180 đã bãi bỏ hệ thống công quốc bộ tộc để tạo ra thêm nhiều công quốc lãnh thổ hơn. Công quốc Bayern là công quốc bộ tộc duy nhất đã thực hiện chuyển đổi hoàn toàn sang công quốc lãnh thổ, cuối cùng trở thành bang Bayern trong nước Đức hiện đại. Một số công quốc bộ tộc khác nổi lên như một bộ phận của Đế chế La Mã Thần thánh; do đó, Lãnh địa tuyển hầu Sachsen, trong khi không trực tiếp kế thừa Công quốc Sachsen, lại làm phát sinh ra bang Sachsen hiện đại. Mặt khác, các công quốc Franken và Schwaben đã tan rã và chỉ tương ứng một cách mơ hồ với các vùng Schwaben và Franken ngày nay. Công quốc Thüringen thời Meroving tuy không trở thành công quốc bộ tộc của Đế chế La Mã Thần thánh, thậm chí còn bị giáng xuống địa vị một phong địa thuộc Sachsen vào năm 908, nhưng năm 1920, bang Thüringen hiện đại được thành lập với lãnh thổ gần nhưng nằm trọn trong vùng Thüringen lịch sử.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|Lãnh thổ Đế chế La Mã Thần thánh, khoảng thế kỷ XI. **Công quốc bộ tộc** hay **công quốc gốc** () là các lãnh thổ của các bộ tộc Đức, gồm các tộc người Frank,
**Công quốc Bayern** (tiếng Đức: _Herzogtum Bayern_; tiếng Latinh: _Ducatus Bavariae_) là một công quốc Đức trong Đế chế La Mã thần thánh. Hình thành từ vùng lãnh thổ định cư của các bộ tộc
**Công quốc Áo** () là một công quốc thời Trung cổ của Đế chế La Mã Thần thánh, được thành lập vào năm 1156 bởi _Privilegium Minus_, khi Phiên hầu quốc Áo (Ostarrîchi) tách khỏi
**Công tước** là một danh xưng để chỉ một tước hiệu quý tộc cao cấp thời phong kiến. Tước hiệu Công tước (và tương đương) từng phổ biến ở khắp châu Âu và Đông Á,
**Đại công quốc Phần Lan**, tên chính thức và cũng được gọi là **Đại Thân vương quốc Phần Lan**, là tiền thân của Phần Lan hiện đại. Nó tồn tại từ năm 1809 đến năm
**Công quốc Milano** (tiếng Ý: _Ducato di Milano_; tiếng Lombard: _Ducaa de Milan_) là một nhà nước ở Bắc Ý, được thành lập vào năm 1395 bởi Gian Galeazzo Visconti, khi đó là lãnh chúa
thumb|Huy hiệu của dòng Ernestines **Các công quốc Ernestine** (tiếng Đức: _Ernestinische Herzogtümer_), còn được gọi là các công quốc Sachsen (Sächsische Herzogtümer, mặc dù các công quốc được cai trị bởi dòng Albertine gồm
**Công quốc Sachsen-Coburg và Gotha** (tiếng Đức: _Herzogtum Sachsen-Coburg und Gotha_) là một nhà nước cấu thành nên Đế quốc Đức, được cai trị bởi một trong những nhánh của dòng Ernestine, chi trưởng của
**Đại Công quốc Oldenburg** (, còn được gọi là **Holstein-Oldenburg**) là một đại công quốc trong Liên minh Đức, Liên bang Bắc Đức và Đế quốc Đức bao gồm ba lãnh thổ tách biệt rộng
**Công quốc Lorraine** ( ; ) ban đầu có tên là **Thượng Lorraine**, là một Công quốc thuộc Đế quốc La Mã Thần thánh, lãnh thổ của nó hiện nay nằm trong Vùng Lorraine, Đông
**Công quốc Parma**, tên gọi chính thức là **Công quốc Parma và Piacenza** (; ) là một công quốc lịch sử trên Bán đảo Ý, được thành lập vào năm 1545, toạ lạc ở miền
**Công quốc Brittany** (tiếng Latin: _Britannia Ducatus_; tiếng Breton: _Dugelezh Breizh_; tiếng Pháp: _Duché de Bretagne_) là một quốc gia phong kiến thời trung cổ tồn tại từ khoảng năm 939 đến năm 1547. Lãnh
**Công quốc Oldenburg** (tiếng Đức: _Herzogtum Oldenburg_) là một nhà nước lịch sử toạ lạc ở Tây Bắc nước Đức ngày nay. Tên của nó được đặt theo thị trấn Oldenburg, đồng thời cũng là
**Đại Công quốc Áo** () là một thân vương quốc lớn của Đế quốc La Mã Thần thánh và là trung tâm của Gia tộc Habsburg. Với thủ phủ đặt tại Viên, đại công quốc
**Bá quốc Bồ Đào Nha** (; tiếng Anh: County of Portugal) đề cập đến hai bá quốc (lãnh địa của bá tước) thời Trung Cổ liên tiếp ở khu vực xung quanh Braga và Porto,
**Đại công quốc Toscana** (, ) là một nhà nước quân chủ trên Bán đảo Ý ra đời thay cho Cộng hòa Florence. Nó tồn tại từ năm 1569 đến năm 1859, với một số
**Công quốc Holstein** (, , ) là một lãnh địa công tước của Thánh chế La Mã tồn tại từ 1474 tới 1866. ## Lịch sử Vào giai đoạn trung kì trung đại, vùng cực
**Đế quốc Bồ Đào Nha** () là đế quốc ra đời sớm nhất và kéo dài nhất trong lịch sử những đế quốc thực dân Châu Âu, kéo dài gần 6 thế kỷ, bắt đầu
Đại lãnh địa Litva rộng lớn nhất vào đầu thế kỷ 15 dưới triều đại của [[Vytautas]] **Đại công quốc Lietuva** (, , , , ), còn gọi là **Đại công quốc Litva**, là một
thumb|Chân dung Công tước và Công tước phu nhân xứ [[Scania năm 1905]] **Công quốc** (, , ), hay **lãnh địa công tước** (), là lãnh thổ quốc gia có chủ quyền do một công
**Công quốc Swabia** (), hay **Công quốc Schwaben** ), là một trong năm Công quốc gốc của Vương quốc Đức thời Trung cổ. Nó thành lập vào thế kỷ thứ X ở khu vực phía
**Công quốc Mantua** (tiếng Ý: _Ducato di Mantova_; tiếng Lombard: _Ducaa de Mantua_) là một công quốc ở Lombardia, miền Bắc nước Ý ngày nay. Công tước đầu tiên của nó là Federico II Gonzaga,
**Công quốc Nassau** (tiếng Đức: _Herzogtum Nassau_; tiếng Anh: _Duchy of Nassau_) là một nhà nước quân chủ độc lập, tồn tại từ năm 1806 đến năm 1866, tọa lạc tại khu vực ngày nay
nhỏ|Tây và Đông Frank, khoảng thế kỷ XI. **Công quốc Franconia** (tiếng Latin _Ducatus Franconiae_), hay **Công quốc Franken** (), là một trong năm công quốc gốc của Đông Francia và Vương quốc Đức thời
**Bá quốc Apulia và Calabria**, về sau là **Công quốc Apulia và Calabria**, là một quốc gia của người Norman được William xứ Hauteville thành lập vào năm 1042 trong lãnh thổ các xứ Gargano,
**Sachsen-Coburg-Saalfeld** là một trong những Công quốc Sachsen do dòng Ernestine của Nhà Wettin nắm quyền. Được thành lập vào năm 1699, Công quốc Sachsen-Coburg-Saalfield tồn tại cho đến khi cải tổ các lãnh thổ
**Công quốc Braunschweig** (tiếng Đức: _Herzogtum Braunschweig_; tiếng Anh: _Duchy of Brunswick_), là một nhà nước trong lịch sử của Đức, tên của công quốc được đặt theo kinh đô và đô thị lớn nhất
**Công quốc Warszawa** (tiếng Ba Lan: _Księstwo Warszawskie_; tiếng Pháp: _Duché de Varsovie_; tiếng Đức: _Herzogtum Warschau_; tiếng Nga: _Варшавское герцогство_, Varshavskoye gertsogstvo) là một nhà nước tại Ba Lan được thành lập bởi Napoléon
**Đại công quốc Posen** (tiếng Đức: _Großherzogtum Posen_; tiếng Ba Lan: _Wielkie Księstwo Poznańskie_; tiếng Anh: _Grand Duchy of Posen_) là một phần của Vương quốc Phổ, được tạo ra từ các vùng lãnh thổ
thumb|Công quốc Benevento của người Lombard vào thế kỷ 8. **Công quốc Benevento** và sau là **Thân vương quốc Benevento** là một công quốc của người Lombard nằm ở cực nam nước Ý thời Trung
**Công quốc Firenze** () là lãnh địa của thân vương có trung tâm là thành phố Firenze vùng Toscana nước Ý. Công quốc được thành lập sau khi Hoàng đế Charles V khôi phục quyền
thumb|Sân trong của cung điện Ducal tại [[Ludwigsburg]] thumb|Cột mốc ranh giới bằng đá giữa Baden và Württemberg **Công quốc Württemberg** (tiếng Đức: _Herzogtum Württemberg_) là một công quốc toạ lạc ở phía Tây Nam
**Công quốc Spoleto** là một lãnh thổ Lombard do _dux_ Faroald thành lập khoảng năm 570 ở miền trung nước Ý. ## Thời Vương quốc Lombard Người Lombard nguyên là một giống dân German đã
**Công quốc Pentapolis** (Latinh: _Ducatus Pentapolis_), là một vùng lãnh thổ dưới sự cai trị của một công tước (_dux_) được bổ nhiệm và thuộc thẩm quyền của Pháp quan thái thú Ý (554–584) và
**Công quốc Sachsen-Lauenburg** (), được gọi là **Niedersachsen** (_Hạ Sachsen_) từ giữa thế kỷ XIV và XVII, là một Công quốc reichsfrei tồn tại 1296–1803 và 1814–1876 ở khu vực cực Đông Nam hiện nay
**Đại công quốc** (, ) là quốc gia do một đại công tước hoặc nữ đại công tước đứng đầu. Có một số đại công quốc tồn tại ở châu Âu trong khoảng thời gian
**Công quốc Amalfi** () hoặc **Cộng hòa Amalfi** () là một nhà nước độc lập _de facto_ tập trung vào thành phố Amalfi ở miền nam nước Ý trong thế kỷ thứ 10 và 11.
**Đại Công quốc Flandrensis** (tiếng Hà Lan: _Groothertogdom Flandrensis_) là một vi quốc gia tuyên bố chủ quyền đối với một số vùng lãnh thổ ở Nam Cực, được thành lập năm 2008 bởi Niels
**Công quốc Mecklenburg-Strelitz** là một công quốc ở Bắc Đức bao gồm một phần năm phía đông của vùng Mecklenburg lịch sử, tương ứng với huyện Mecklenburg-Strelitz ngày nay (trước đây là Lãnh địa Stargard)
**Bá quốc Bar**, sau này là **Công quốc Bar** là một Thân vương quốc của Đế quốc La Mã Thần thánh, lãnh thổ bao quanh thành phố _Barrois_ và có thủ phủ là thành phố
**Đại Công quốc Mecklenburg-Schwerin** () là một lãnh thổ ở miền Bắc nước Đức do Nhà Mecklenburg thuộc nhánh Schwerin nắm quyền cai trị. Đây là một nhà nước thành viên có chủ quyền của
**Công quốc Bourgogne** (; ; ) là một công quốc nổi lên vào thế kỷ thứ 9 với tư cách là một trong những quốc gia kế tục của Vương quốc Burgundia cổ đại, sau
**Công quốc Schleswig** (tiếng Đan Mạch: _Hertugdømmet Slesvig_; tiếng Đức: _Herzogtum Schleswig_; tiếng Hạ Đức: _Hartogdom Sleswig_; tiếng Bắc Friesland: _Härtochduum Slaswik_; tiếng Anh: _Duchy of Schleswig_) là một Công quốc ở Nam Jutland (_Sønderjylland_)
**Đại công quốc Mecklenburg-Strelitz** () là một nhà nước lịch sử ở miền Bắc nước Đức ngày nay, do dòng dõi trẻ hơn của Nhà Mecklenburg cư trú tại Neustrelitz nắm giữ quyền cai trị.
thumb|Gaeta vào khoảng năm 1000. **Công quốc Gaeta** là một quốc gia đầu thời Trung Cổ tập trung vào thành phố duyên hải Gaeta ở miền nam nước Ý. Công quốc xuất hiện lần đầu
nhỏ|phải|Bò cao nguyên ở vùng [[Dolomites, Nam Tirol, Ý]] nhỏ|phải **Gia súc vùng** **cao nguyên Scotland** hay còn gọi là **bò tóc rậm**, **bò cao nguyên** (tiếng Gaelic Scotland: _Bò Ghàidhealach;_ tiếng Scotland_: Heilan coo_)
**Công quốc Napoli** (, ) ban đầu là một tỉnh của Đế quốc Đông La Mã được thành lập vào thế kỷ 7, tại các vùng đất ven biển nhỏ bé mà người Lombard đã
**Công quốc Anhalt** () là một công quốc lịch sử của Đức. Lãnh thổ công quốc này nằm giữa dãy núi Harz ở phía tây và sông Elbe và xa hơn nữa là tới Fläming
**Snake Hill**, tên chính thức **Công quốc Snake Hill** (tiếng Anh: _Principality of Snake Hill_), là một vi quốc gia nằm ở Úc. Snake Hill có hàng trăm công dân và tuyên bố có diện
**Công quốc Friuli** là một trong những công quốc đầu tiên do người Lombard thành lập vào năm 569. Công quốc đóng vai trò là một bộ đệm quan trọng giữa Vương quốc Ý Lombard