✨Pháp Yếu Tông Môn

Sách: Di tích Lịch sử Văn hóa Chùa Phước Điền (Chùa Hang), Núi Sam - Châu Đốc - An Giang.

Sách: Di tích Lịch sử Văn hóa Chùa Phước Điền (Chùa Hang), Núi Sam - Châu Đốc - An Giang.Lục Tổ nói: “Không sợ vọng khởi, chỉ sợ giác chậm. Vọng khởi mà tỉnh giác là đều có tánh giác hiển lộ. Một trăm lần vọng khởi có một trăm lần giác. Biết sóng là nước, thì không sợ vọng, vì nó vốn là chân”.

Chư Phật quá khứ, hiện tại và vị lai đều phải tham thiền mà kiến tánh thành Phật, Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Phật cũng do tham thiền mà chứng đạo.

Thiền bất lập văn tự không phải phế bỏ văn tự, mà không qua văn tự, gọi là pháp thiền trực tiếp; chỉ cần cái nghi tình. Giáo ngoại biệt truyền là ở ngoài giáo môn, vì giáo môn có giai cấp từ Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Thập địa và Đẳng giác, Diệu giác.

Pháp thiền trực tiếp do Phật Thích Ca đích thân truyền không có giai cấp, phàm phu ngộ, và Thập địa Bồ tát ngộ bằng nhau, chỉ có cái dụng thì không bằng (cái lý thì bằng, cái sự không bằng). Cái dụng không bằng là do phàm phu còn tập khí thế gian và xuất thế gian. Thập địa Bồ tát hết tập khí thế gian, tập khí xuất thế gian còn ít, nên cái dụng lớn hơn nhiều, chỉ không bằng Phật. Phàm phu bị tập khí phiền não nhét đầy nên không hiển bày cái dụng. Phàm phu kiến tánh, những tập khí dứt lần lần sẽ bằng cái dụng của Phật.

Thời Phật còn tại thế chẳng có kinh sách, Phật trực tiếp chỉ dạy các pháp tu hành. Sau khi Phật nhập niết bàn, hàng đệ tử mới kết tập lại thành các bộ kinh; lúc Phật còn tại thế không có chia Đại thừa, Trung thừa, Tiểu thừa, sau kết tập lại thành có Tam thừa. Pháp tham Thiền này là Tối thượng thừa, vì không ở trong giáo điển của Tam thừa, nên cũng gọi là giáo ngoại biệt truyền.

Điều quan trọng nhất đối với người tu là phải thật thận trọng chọn lựa con đường đi, bước đầu tiên đừng để sai lầm. Nếu đã chọn đúng đường rồi, trước tiên phải học hiểu rõ tông chỉ, đường lối pháp môn, kế đó mới hạ thủ công phu.

Công phu chẳng nên gấp, gấp thì tháo động, cũng không nên hưỡn, hưỡn thì hôn trầm, chỉ hướng lên câu thoại đầu “Chăm chăm như mèo rình chuột, ngoài bặt cảnh duyên, trong quên tình thức”. Người đời nay chẳng hiểu chỗ kiến lập của Phật Tổ thuở xưa, luôn đuổi theo tình cuồng thức vọng.

Người tham thiền dụng công quý ở chỗ hành, hành được mới gọi là tham thiền, không hành, miệng nói tham thiền cũng như không, chữ hành trong Thiền tông rất quan trọng. Hãy đem những cái học được, những tri giải tai hại, những ngôn cú kỳ diệu, thiền đạo, Phật pháp, tâm cống cao ngã mạn,v.v.., trong đời mình buông bỏ triệt để. Chỉ ở trên câu thoại đầu chưa thấu rõ, phải tham cứu một cách quyết liệt vững vàng không phân biệt ngày đêm, liền được quên cả Đông, Tây, Nam, Bắc.

Phàm người tọa thiền phải đoan thân chánh ý, trong sạch cái tâm của mình, xếp chân ngồi thâu cái thấy, xoay cái nghe trở lại, tỉnh tỉnh chẳng ngu muội, lìa hẳn hôn trầm trạo cử. Dẫu cho có nhớ đến việc sắp đến cũng tận tình ném quách, chỉ hướng về câu thoại đầu khởi nghi tình.

Đề câu thứ nhất trả lời không được, đề câu thứ hai, rồi câu thứ ba. . . .cứ thế mà đề đến khi nào trả lời được mới thôi. (lưu ý là không được tìm hiểu câu thoại, bởi gì tìm hiểu biết là cội gốc của sinh tử luân hồi).

Hành giả khi tham thiền chỉ cần hướng lên câu thoại đầu đang tham, một khi nắm chặt rồi thì cần phải cùng sống, chết cùng chết. Thứ nhất chẳng được cầu phương tiện khác, thứ hai là chẳng được đổ lỗi cho cảnh duyên, thứ ba là chẳng được mống khởi một niệm mê tình.

Hạ thủ công phu phải luôn miên mật đề khởi tham cứu, có nhiều người vừa lên bồ đoàn liền ngủ gật, đến lúc tỉnh thì tâm tưởng lăng xăng, vừa xuống bồ đoàn thì nói đủ thứ chuyện tạp nhạp, biện đạo như thế biết đến khi nào mới có kết quả. Phải dũng mãnh dồn hết tinh thần đề khởi câu thoại đầu, sáng tối đều tham một cách miên mật, chớ không nên ngồi trong cái vỏ vô sự.

Lại không nên trên bồ đoàn ngồi như chết. Nếu tạp niệm dấy khởi, càng tranh đấu thì nó càng khởi lên nhiều, vọng tưởng khởi lên bao nhiêu mặc kệ nó, không theo nó, chi bằng nhẹ nhàng làm việc của mình là đề khởi câu thoại đầu sở tham, hãy tham đi.

Người tham thiền kỵ nhất là ở trên công án, thoại đầu tìm cầu tri giải, dẫu cho tri cùng, giải tận, biết hết cả đại tạng giáo điển, khi ngày cuối cùng sanh tử đến thì một chút cũng dùng không được.

Hiện nay, phần nhiều người học đạo, chỉ biết đắm mình vào thế giới ngôn ngữ văn tự, để rồi bị chúng đánh lừa trở thành nô lệ, và tự thỏa mãn cho đó là cứu cánh. Thiền đã trở thành một hiện tượng để trang điểm cho một nội dung trống rỗng, có nhiều người đang chạy theo nó và tự đánh mất chính mình, đó là một sự suy đồi của Thiền tông, chứ không phải là một sự phát triển; vì chúng đã đi ngược lại sự kế thừa của Thiền, mục đích của thiền là nhắm đến giải thoát (kiến tánh), Thiền tông chỉ dạy trực tiếp phương pháp tham thiền, Thiền là một phương pháp thực hành.  

Những việc làm nói trên, làm ảnh hưởng đến sự chứng ngộ của người tham thiền, là một loại bệnh "Khẩu đầu Thiền", một loại bệnh nguy hiểm, rất tối kỵ đối với Thiền tông. Họ đã biến Thiền tông thành một thứ Thiền học bệnh hoạn, và đưa chúng trở thành một thứ Thiền không hơn không kém, họ mang chúng ra bàn luận mổ xẻ như một đối tượng cần phải đạt đến và cái tệ hại là họ đã dùng những công án người xưa, đem ra giải phẫu phân tích bàn luận, để chứng tỏ cái sở học của họ. Họ biến những hoạt ngữ của công án Thiền trở thành tử ngữ (giết chết công án Thiền) Làm mờ mắt thiên hạ bằng những lập luận của kiến thức “Nhị nguyên” về công án Thiền.Bổn phận của người xuất gia phải đắc phi y (chơn thật tu hành) mới đáng thọ nhận Trời người cúng dường. Trong thiền tông nói tọa tức là một niệm chẳng lui sụt, nói y nghĩa là ngộ suốt tự tâm, chẳng mang nhánh lá. Ví như chẳng được như vậy thì tất tơ giọt nước chắc chắn phải bồi trả cho thí chủ.(?-866/867) Tổ khai dòng thiền Lâm Tế

Những kẻ chấp lấy cảnh thanh tịnh bất động, cho đó là phải, thì kẻ đó nhận vô minh làm chủ. Lời này ít nhiều làm kinh động kẻ học theo kiểu dáng người chết. Nếu hướng vào chỗ nầy thấy được thấu, đả phá được suốt thì cứu được một nửa. Có một bọn trọc đầu ăn no rồi tọa thiền quán hạnh, giữ chặt mỗi niệm không cho sanh khởi, ghét động cầu tịnh, ấy là pháp ngoại đạo.

Tổ sư nói tiếp: Nếu các ông trụ tâm khán tịnh, dấy tâm soi chiếu bên ngoài, nhiếp tâm lóng lặng bên trong, ngưng tâm nhập định, những thứ ấy đều là tạo tác. Ngày nay, tôi thấy người sơ tâm xưng là tọa thiền phần nhiều chỉ câu thúc được cái đãy da thúi này, còn vọng niệm, tư tưởng thì lăng xăng khởi diệt không ngừng, cùng với cái gọi là trụ tâm khán tịnh, ngưng tâm lóng lặng bên trong kia còn chưa dính dáng thay huống là đối với cái chân thật viên trạm! Rốt cuộc thì cùng với cái ngồi si ngốc của loài chồn thỏ không khác.Bàn Uẩn Cư sĩ (740–808)

但 願 空 諸 所 有

慎 勿 實 諸 所 無

Đán nguyện không chư sở hữu

Thận vật quán chư sở vô.

Chỉ cần bỏ hết các thứ hiện có, đừng đem vào cái mà mình không có. 

Chỉ cần hành được hai câu này thì một đời tham học tất đã xong vậy. 

Đề khán câu thoại đầu, chỗ lăng xăng loạn động chính là chỗ tốt nhất để hạ thủ công phu. 

Thời giờ không đợi người, chớp mắt đã qua đời khác, nhân lúc thân thể còn khỏe mạnh sao không hạ thủ công phu, không có công phu gì khác hơn là chỉ cần đem những gì sở hữu trên tâm thức nhất thời buông bỏ, đấy là công phu thẳng tắt chân chánh. Nếu có công phu nào khác đều là điên cuồng chạy ở bên ngoài vậy.Tổ thứ 55: Thiền sư Cao Phong - Nguyên Diệu

Muốn khai ngộ kiến tánh thì phải tham thiền, đề khởi câu thoại đầu chớ có gián đoạn không kể ngày đêm. Chấp tác dọn đơn, dọn bát theo chúng làm việc. . . .đều không rời câu thoại đầu, ban ngày ban đêm đều cũng như vậy, nhồi thành một khối, chắc chắn sẽ được phát minh tâm địa.

Ba mươi năm thân đứng như vách chỉ lo chữa trị cái việc nầy cho người học. Ta bóp chặt cổ họng không cho ông nói, không cho ông hiểu, cũng không cho ông sanh một niệm thứ hai nào khác. Chỉ hướng lên trên câu thoại đầu, đứng vững gót chân chăm bẵm tham cứu, như kẻ gặp oán địch, như cứu lửa cháy đầu, ngoài bặt cảnh duyên, trong quên tình thức, hầu đợi ông như hạt đậu nổ trong tro lạnh, ("chết đi sống lại ").

Các Ông nếu chưa đến thời tiết nầy, thì quyết chẳng chịu cho đem ngữ ngôn tương tợ dẫn người đi lầm đường.

Phải biết sanh tử vô thường là việc lớn, há người căn khí cạn cợt có thể vượt nổi ư? Người đời nay chẳng hiểu chỗ kiến lập của Phật Tổ thuở xưa, luôn luôn đuổi theo tình cuồng, thức vọng, mở miệng bèn muốn vượt qua

Phật Tổ, khi xem đến chí hướng đạo của họ thì không có nửa điểm chân thật chủ tể. Mới đề được câu thoại đầu trong chốc lát, được chút thuần thục liền tự vui mừng, vừa bị hôn trầm, tán loạn cướp đoạt bèn nói căn độn nghiệp sâu. Tình cờ gặp phải vài điều trái ý trước mắt thì tức giận nghiến răng, niệm niệm chẳng dứt. Hoặc nghĩ bậy, tưởng xằng, khởi diệt muôn thứ mà tự chẳng biết, cuồng loạn nằm trong tâm mà tự cho rằng người hành đạo, lý phải như vậy.

Trải qua ba năm, năm năm đã chẳng tương ưng, liền sanh tâm lui sụt, bỏ vào trong cái vỏ vô sự cam chịu luân hồi, hạng người như thế rất nhiều. Hoặc chẳng như thế, bèn đem ý thức săn lấy những lời của các thiền sư giả mạo từ xưa đến nay lừa dối hiền thánh, muôn điều tạo tác đều là hư-giả đọa-lạc biên kiến, trọn chẳng tự giác.Thiền sư Nhai Nghĩa

Nếu muốn siêu phàm nhập thánh, thoát khỏi trần lao, phải quyết một trận sinh tử, chết đi sống lại, như trong tro lạnh phát lửa, cây khô nảy chồi, đâu nên tưởng là việc dễ dàng. Tôi ở trong thiền viện của Sư Phụ đã nhiều năm, mỗi khi bị đánh đau, tâm không khởi niệm lìa xa. Cho đến ngày nay khi gặp những việc đau khổ, bất giác nhớ đến Sư Phụ mà rơi nước mắt ! Đâu phải như các ông hiện nay, mới nếm một chút khổ là bỏ thầy tổ ra đi không thèm ngó lại.Tuyết Nham thiền sư

Này các hành giả! Nếu ngồi lâu trên bồ đoàn bị hôn trầm, nên rời bồ đoàn đi một vòng, lấy nước lạnh súc miệng, rửa mặt, lại lên bồ đoàn ngồi thẳng lưng sống như vách đứng, đề khởi câu thoại đầu, dụng công như thế quyết định trong bảy ngày được khai ngộ, đây là đường lối bốn mươi năm về trước Sơn Tăng đã dụng công.

Thời nay, có nhiều tu sĩ muốn cái gọi là tự do rời khỏi Tăng đoàn ra ngoài tự ý cất nhà, cất am cốc ở riêng cho là tịnh thất, đó là một hệ lụy của Phật giáo. “Tăng ly chúng tăng tàn, hổ ly sơn hổ bại”.Tăng là đoàn thể những người xuất gia tu hành sống chung hòa hợp với nhau trong một trú xứ. Giới luật Phật giáo quy định ít nhất bốn vị Tỷ kheo sống với nhau thanh tịnh, hòa hợp gọi là Tăng, nói đúng là Tăng già, (Sangha). Chúng ta phải nhớ kỹ nguyên nghĩa này để biết chính xác rằng: bản chất của Tăng là thanh tịnh và hòa hợp. Theo thời gian, danh từ chung chỉ cho tập thể này còn được sử dụng như một danh từ riêng chỉ cho cá nhân.

Một vị nam tu sĩ Phật giáo thường được gọi là Tăng. Dù chung hay riêng, bao giờ Tăng cũng là một trong ba ngôi báu (Tam bảo) và được tôn xưng là Chúng trung tôn - những bậc đáng tôn kính.Thất: Nghĩa là bảy ngày, hay tham thiền liên tục trong bảy ngày. Nhiều người nhằm tưởng “Thất” là căn nhà, ấy là sai. Ý nghĩa hai chữ “Nhập thất” là tiếng Hán. Trong cả ngàn người đệ tử, chỉ có vài vị được quyền tự do ra vào phương trượng của Hòa thượng Trụ trì để tham vấn, nên gọi là “Đệ tử nhập thất”, chứ không phải  đi cất một cái nhà hay am cóc để vào đó bế quan.

Các thiền đường ngày xưa không có đồng hồ, chư Tổ dùng một nén hương, ngồi hết nén hương thì đi, đi hết nén hương thì ngồi, nên gọi tọa hương và đi hương, trong thiền đường có vị giám thiền, hễ ai phạm quy củ bị đánh hương bảng. 

*** 

Ở tòng lâm hay Thiền đường, khi cử hành Thiền thất, cũng như đi vào trường thi, phải thi đậu (kiến tánh) chứ không phải để tập tham thiền. Giờ đây cử hành Thiền thất là để tập tham, sở dĩ do đi mỏi thì ngồi, ngồi mỏi thì đi, chứ không phải cần sự ngồi.

Người tham thiền chớ nên cắm đầu trên sách vở, ghi nhớ ngữ ngôn, tìm thiền tìm đạo, thiền đạo không có ở trên sách vở. Dù có nhớ hết Đại Tạng Kinh, cũng chỉ là ngôn ngữ suông mà thôi, đến khi bệnh, chết đều dùng chẳng được.

Cái tệ của người học thiền thời nay là lấy sự nương vào thức tình để biết làm tỏ ngộ, lấy sự xuyên tạc cơ duyên truyền trao làm tham học, lấy ngôn ngữ bí hiểm kỳ quái làm đề xướng. lấy sự phá hoại luật nghi làm giải thoát, lấy sự kết giao với nhà quyền quý, đút lót để được chức vị làm phương tiện xuất thế.

Người thời nay học đạo mà chẳng tu đạo, chỉ chăm vào việc học để có bằng cấp, có chức, có quyền, tăng thêm bản ngã, học ngôn thuyết mà muốn thể hội được nhân duyên của cổ nhân, há chẳng phải là cái lầm lớn sao ? Cổ nhân chỉ đối bệnh mà ra toa, tuỳ cơ cho thuốc, nên mới có nhiều đường lối vào cửa như sắn bìm, như ngón tay chỉ mặt trăng, như viên ngối gõ cửa. Ý nhờ viên ngối gõ để cửa mở, nhờ ngón tay để thấy mặt trăng, nếu như được cửa mở, thấy trăng rồi, viên ngối, ngón tay dùng làm chi nữa.

Nay người tu đạo mở miệng nói là hiểu thiền hiểu đạo, nói Phật nói tâm có trăm nghìn vạn ức mà mảy trần chẳng bỏ thì chưa khỏi luân hồi, ý nghĩ chẳng dứt thì đều phải chìm đắm trong sanh tử. Những người như thế, nghiệp quả của chính họ, họ còn không tự biết mà tự dối là tự lợi, lợi tha, tự bảo là bậc thượng lưu ngang hàng với tiên đức.

Dẫu cho nói: Việc chạm vào mắt không gì chẳng Phật sự, chổ bước chân đi đều là đạo tràng. Nhưng tập quán của những người ấy chẳng bằng một kẻ phàm phu ngũ giới, thập thiện, cứ mở miệng là chê cả hàng nhị thừa và Bồ tát Thập Địa. Món thượng vị đề hồ là món trân kỳ của thế gian gặp những hạng người nầy nó trở thành thuốc độc.Hòa thượng Thích Huệ Thiện

(Tông sư chùa Phước Điền)

Đã là người xuất gia làm Tăng, phải lập chí lấy liễu ngộ làm mục đích tối thượng, trước phải học đường lối tông chỉ rõ ràng, sau đó mới hạ thủ công phu đề khởi câu thoại đầu không kể ngày hay đêm. Không để ý đến đắt lực hay không đắt lực, hôn trầm tán loạn hay không hôm trầm tán loạn, chỉ cần chuyên đề khởi câu thoại đầu sở tham. Tâm sanh tử chưa phá vỡ thì toàn thể là một khối nghi tình, chỉ cần ở trong khối nghi tình, đi đứng ngồi nằm chẳng được gián đoạn.

Hãy chiếu cố thoại đầu, không được niệm thoại đầu, cũng chớ suy xét thoại đầu, chỉ nên tức tối muốn rõ việc này, như mèo rình chuột, các ông hãy như thế mà tham đi.

Người xuất gia trong thiền phái Lâm Tế phải tu học theo thiền phái của tông này, các người phải hiểu cái tu trong Thiền tông là gì ? Nếu không hiểu rõ thì không biết đường mà tu, các người có ở suốt đời trong tông môn vẫn đứng ngoài cửa. Ở trong Thiền tông không có cái gì khác ngoài việc tham thiền ngộ đạo, liễu sanh thoát tử.

Muốn kiến tánh thành Phật, chỉ cần lìa hết tất cả sự tương đối của thế gian như sắc không, sáng tối, lấy bỏ, yêu ghét v.v. . .Thân, tâm, thế giới, cả ba đều quét sạch hết, tịch diệt không còn, luôn cả cái không cũng chẳng còn, ấy là đại tử, hay còn gọi là tuyệt hậu, rồi đại hoạt, là sống trở lại, hay gọi là tái tô, (tuyệt hậu tái tô), đến đây mới là kiến tánh.

Hiện tại chỉ cần đừng thấy có Phật, có Niết bàn và không có tất cả những cái thấy có, thấy không và cũng không thấy cả cái thấy không thì mới được gọi là chánh kiến. Nếu người tham thiền tâm chẳng tìm cầu, chẳng vọng tưởng, chẳng duyên theo cảnh thì ngay chỗ nhà lửa trần lao này tức là chỗ giải thoát.

Những câu thoại đầu:

  • Sinh từ đâu đến, chết đi về đâu?
  • Chẳng phải tâm, chẳng phải Phật, chẳng phải vật, là cái gì?
  • Ngủ không chiêm bao, không suy nghĩ, chủ ở đâu?
  • Khi chưa có trời đất ta là cái gì?Bổn phận của người xuất gia phải đắt phi y (chơn thật tu hành) mới đáng thọ nhận Trời người cúng dường. Trong Thiền tông nói tọa tức là một niệm chẳng lui sụt, nói y nghĩa là ngộ suốt tự tâm, chẳng mang nhánh lá. Ví như chẳng được như vậy thì tất tơ giọt nước chắc chắn phải bồi trả cho thí chủ.

Nhân lúc thân thể còn khỏe nên giải quyết việc lớn sinh tử cho xong, đừng đợi đến khi khát nước mới lo đào giếng, khi tay chân quờ quạng, đường trước mịch mờ, không biết đi đâu. Đại đa phần người xuất gia thời nay không chịu lập chí hạ thủ công phu, chỉ nghĩ là khó thì lại càng thấy khó. Nếu là người có chí khí chân thật tu hãy tham câu thoại đầu khởi nghi tình.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Link
https://chuahang.vn/7d38Fh628122AbA

Sách: Di tích Lịch sử Văn hóa Chùa Phước Điền (Chùa Hang), Núi Sam - Châu Đốc - An Giang.Lục Tổ nói: “Không sợ vọng khởi, chỉ sợ giác chậm. Vọng khởi mà tỉnh giác
**Thiên Thai tông** (zh. _tiāntāi-zōng_ 天台宗, ja. _tendai-shū_) là một tông phái Phật giáo Trung Quốc do Trí Di (538-597) sáng lập. Giáo pháp của tông phái này dựa trên kinh _Diệu pháp liên hoa_,
nhỏ|Thiền sư [[Vân Môn Văn Yển, tổ sáng lập Vân Môn tông.|229x229px]] **Vân Môn tông** (zh. 雲門宗, ja. _Unmon-shū_) là một thiền phái thuộc Ngũ gia thất tông - Thiền tông Trung Quốc, do Thiền
nhỏ|263x263px|Một hiện vật kinh Diệu Pháp Liên Hoa bằng tiếng Phạn ([[Thế kỷ 5|thế kỉ V) được lưu giữ ở bảo tàng Lăng mộ Triệu Văn Đế]] **Kinh Diệu Pháp Liên Hoa** (sa. Saddharma Puṇḍarīka
**Nhà Tống** là hoàng triều cai trị Trung Quốc từ năm 960 đến năm 1279. Triều đại này được sáng lập bởi Tống Thái Tổ sau khi ông soán ngôi Hoàng đế Hậu Chu rồi
**Tống Thần Tông** (chữ Hán: 宋神宗, 25 tháng 5, 1048 - 1 tháng 4, 1085), húy **Triệu Húc** (趙頊), là vị Hoàng đế thứ sáu của nhà Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc, ông
**Tào Động tông** (zh. 曹洞宗 _cáo-dòng-zōng_, ja. _sōtō-shū_) là một trong năm Thiền phái của Thiền tông Trung Quốc, được sáng lập vào cuối nhà Đường bởi hai thầy trò Thiền sư Động Sơn Lương
Mạn-đà-la **Mật Tông** (zh. 密宗 _mì-zōng_) là từ gốc Hán dùng để gọi pháp môn bắt nguồn từ sự kết hợp giữa Ấn Độ giáo và Phật giáo Đại thừa, được hình thành vào khoảng
thumb|[[A-di-đà và hai Bồ Tát Quán Thế Âm (phải) và Đại Thế Chí (trái)|262x262px]] **Tịnh độ tông** hay **Tịnh thổ tông** (zh. _jìngtǔ-zōng_ 淨土宗, ja. _jōdo-shū_), có khi được gọi là **Liên tông** (zh. 蓮宗),
**Khuê Phong Tông Mật** (zh: 圭峰宗密, guīfēng zōngmì, ja: keihō shū-mitsu, 780-841), Thiền sư Trung Quốc thuộc phái Hà Trạch Thần Hội và cũng là tổ sư đời thứ năm của Hoa Nghiêm Tông. Trong
**Người Pháp gốc Việt** là nhóm người có tổ tiên xuất xứ từ Việt Nam nhưng sau định cư ở Pháp. Đây là một trong những cộng đồng Việt kiều lớn nhất thế giới. Vì
nhỏ|Các nước "cộng hòa tổng thống" với mức độ "tổng thống chế toàn phần" được biểu thị bằng màu **Xanh biển**. Các quốc gia có một mức độ "tổng thống chế bán phần" được biểu
**Thư viện Quốc gia Pháp** (_Bibliothèque nationale de France_) là thư viện quan trọng nhất, đồng thời là cơ quan giữ chức năng lưu chiểu xuất bản phẩm của Pháp. Với vai trò thư viện
**Tổng thống Hoa Kỳ** (, viết tắt là POTUS) là nguyên thủ quốc gia và người đứng đầu chính phủ của Hoa Kỳ. Tổng thống lãnh đạo chính quyền liên bang Hoa Kỳ và thống
**Khủng hoảng hiến pháp Nga năm 1993** là một cuộc cạnh tranh chính trị giữa phe phái của Tổng thống Nga với nghị viện Nga và phe cánh tả thân Cộng sản, rồi cuối cùng
**Tống Thái Tông** (chữ Hán: 宋太宗, 20 tháng 11 năm 939 - 8 tháng 5 năm 997), tên húy **Triệu Quýnh** (趙炅), là vị Hoàng đế thứ hai của triều đại Bắc Tống trong lịch
**Kinh tế Pháp** là nền kinh tế phát triển cao và định hướng thị trường tự do. Pháp là quốc gia có nền kinh tế lớn thứ 7 trên thế giới vào năm 2020 tính
Tòa nhà Institut de France trong đó có trụ sở của Viện hàn lâm Pháp [[Hồng y Richelieu người sáng lập Viện hàn lâm Pháp ]] **Viện Hàn lâm Pháp** (tiếng Pháp:**L'Académie française**) là thể
**Tổng thống Ý** là nguyên thủ quốc gia Ý. Nhiệm kỳ tổng thống là bảy năm. Tổng thống Ý đại diện sự thống nhất dân tộc và đảm bảo rằng nền chính trị Ý tuân
nhỏ|Tác phẩm _[[Khế ước xã hội_ (Du contrat social) của Jean-Jacques Rousseau]] **Nguyên nhân gây nên cuộc Cách mạng Pháp** bao gồm những yếu tố lịch sử quan trọng dẫn đến cuộc đại cách mạng
**Luật Hiến pháp** là một ngành luật gồm tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ cơ bản về tổ chức quyền lực Nhà nước, về chế độ chính trị, kinh
**Hải quân Pháp** (tiếng Pháp: _Marine nationale_), tên gọi không chính thức là **La Royale**, là lực lượng hải quân của Lực lượng Vũ trang Pháp. Được thành lập từ năm 1624, Hải quân Pháp
nhỏ|phải|Hộ pháp Trừng Ác ở chùa Linh Ứng tại Bà Nà nhỏ|phải|Hộ pháp Khuyến Thiện ở chùa Linh Ứng tại Bà Nà **Hộ pháp** hay **Thần Tăng** (chữ Nho: 護法, sa. _dharmapāla_, pi. _dhammapāla_) theo
**Tam luận tông** (zh. _sānlùn-zōng_ 三論宗, ja. _sanron-shū_, ko. _samnon chong_), là một tông phái Đại thừa của Phật giáo Trung Quốc. Danh xưng này xuất phát từ ba bộ luận căn bản của tông
**Khâm Từ Hoàng hậu** (chữ Hán: 欽慈皇后; 1053 hoặc 1058 - 1089), còn được gọi là **Trần Mỹ nhân** (陳美人) hoặc **Trần Quý nghi** (陳貴儀), là một phi tần của Tống Thần Tông Triệu Húc
**Pháp Luân Công** hay **Pháp Luân Đại Pháp** là một phong trào tôn giáo mới. Pháp Luân Công được Lý Hồng Chí sáng lập ở Trung Quốc vào đầu những năm 1990. Pháp Luân Công
**Cuộc biểu tình tại Quảng trường Thiên An Môn**, ở Trung Quốc được gọi là **Sự cố ngày 4 tháng 6** (), là các cuộc biểu tình do sinh viên lãnh đạo được tổ chức
**Tống Huy Tông** (chữ Hán: 宋徽宗, 2 tháng 11, 1082 – 4 tháng 6, 1135), là vị Hoàng đế thứ tám của triều đại Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ
**Lâm Tế tông** (zh. _línjì-zōng/lin-chi tsung_ 臨濟宗, ja. _rinzai-shū_) là một dòng thiền được liệt vào Ngũ gia thất tông—tức là Thiền chính phái—do Thiền sư Lâm Tế Nghĩa Huyền sáng lập. Đây là tông
**Pháp thuộc** là một giai đoạn trong lịch sử Việt Nam kéo dài 61 năm, bắt đầu từ 1884 khi Pháp ép triều đình Huế kí Hòa ước Giáp Thân cho đến 1945 khi Pháp
**Đường Huyền Tông** (chữ Hán: 唐玄宗, bính âm: Xuánzōng ; 8 tháng 9, 685 tên thật là **Lý Long Cơ**, có thời điểm gọi là **Võ Long Cơ** () trong giai đoạn 690 - 705,
nhỏ|Những hình ảnh liên quan đến cuộc trấn áp Pháp Luân Công **Cuộc đàn áp Pháp Luân Công** đề cập đến chiến dịch được khởi xướng bởi Đảng Cộng sản Trung Quốc đối với các
Đạo Phật có một lịch sử phát triển rất thăng trầm trong suốt hơn 2.500 năm; lan tỏa từ Ấn Độ ra khắp nơi trên thế giới. Do đó, việc hình thành các bộ phái
**Philippe II Auguste** (21 tháng 8 năm 1165 - 14 tháng 7 năm 1223) là vua Pháp từ năm 1180 đến khi băng hà. Là một thành viên của nhà Capet, Philippe Auguste sinh ra
**Tả Tông Đường** (chữ Hán: 左宗棠; bính âm: Zuǒ Zōngtáng, hoặc còn được đọc là Tso Tsung-t'ang; 10 tháng 11 năm 1812 – 5 tháng 9 năm 1885), tên tự là **Quý Cao** (季高), hiệu
Trong Tam giáo thì Nho giáo (儒教) và Đạo giáo (道教) là hai hệ thống tín ngưỡng/tôn giáo bản địa của Trung Quốc; còn Phật giáo là một tôn giáo du nhập từ Ấn Độ.
**Louis XV** (15 tháng 2 năm 1710 – 10 tháng 5 năm 1774), biệt danh **Louis Đáng yêu**, là quân vương của Vương tộc Bourbon, giữ tước hiệu Vua của Pháp từ 1 tháng 9
**Tống Nhân Tông** (chữ Hán: 宋仁宗, 12 tháng 5, 1010 - 30 tháng 4, 1063), tên húy **Triệu Trinh** (趙禎), là vị hoàng đế thứ tư của nhà Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc,
**Võ thuật tổng hợp** hay **Võ thuật tự do** (Tiếng Anh: _mixed martial arts_, viết tắt **MMA**), đôi khi còn được gọi với cái tên **đấu lồng**, là một môn thể thao đối kháng toàn
**Louis XIV của Pháp** (; 5 tháng 9 năm 16381 tháng 9 năm 1715), còn được gọi là **Louis Đại đế** (, ) hay **Vua Mặt Trời** (, ), là một quân chủ thuộc Nhà
**Tòa án Hiến pháp Liên bang** (tiếng Đức: _Bundesverfassungsgericht – BVerfG_) là tòa án hiến pháp của nước Cộng hòa Liên bang Đức. Được xem là người bảo vệ Hiến pháp Đức (luật cơ bản),
**Tống Chân Tông** (chữ Hán: 宋真宗, 23 tháng 12 năm 968 - 23 tháng 3 năm 1022), là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc, trị vì
**Pháp** (; ), tên chính thức là **Cộng hòa Pháp** ( ) (), là một quốc gia có lãnh thổ chính nằm tại Tây Âu cùng một số vùng và lãnh thổ hải ngoại. Phần
nhỏ|Biểu tượng (logo) của Thiền phái Tào Khê, ba chấm tròn tượng trưng cho [[Tam Bảo.]] **Tào Khê tông** (zh. 曹溪宗 c_aóxī zōng_, ko. _chogye chong_, ja. _sōkei-shū_, en. _Jogye Order_), tên chính thức là
**Vụ án Tống Văn Sơ** là sự kiện liên quan đến Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh) khi ông bị bắt giam ở Hồng Kông từ ngày 6 tháng 6 năm 1931 đến ngày 22
Tượng Pháp Vũ tại [[chùa Keo (Hà Nội)]] Tượng Pháp Vân, ở [[Chùa Dâu, Bắc Ninh]] **Tứ Pháp** (Chữ Hán: 四法) là các vị Phật - Bồ Tát có nguồn gốc từ các nữ thần
**Nguyễn Ngọc Tương** (1881 - 1951) là một trong những chức sắc quan trọng của tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ hình thành và là Giáo tông thuộc Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh
**Thư pháp gia** (Hán văn: 書法家, Hi văn: _Καλλιγράφος_) được hiểu là những người thạo thư pháp và có khả năng đẩy văn tự lên tầm nghệ thuật. ## Lịch sử Bút tích _Thanh Hư
Cuộc **bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 2020** ​​diễn ra vào thứ Ba ngày 3 tháng 11 năm 2020, là cuộc bầu cử tổng thống thứ 59 liên tục 4 năm 1 lần trong
**Tống Triết Tông** (chữ Hán: 宋哲宗, 4 tháng 1, 1077 - 23 tháng 2, 1100), húy **Triệu Hú** (趙煦), là vị Hoàng đế thứ bảy của vương triều Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc,