Pháo đài Brest (tiếng Belarus: Брэсцкая крэпасць, Brestskaya krepasts '; tiếng Nga: Брестская крепость, Brestskaya krepost '; tiếng Ba Lan: Twierdza brzeska), trước đây gọi là Pháo đài Brest-Litovsk, là một pháo đài của Nga vào thế kỷ 19. Nó là một trong những nơi quan trọng nhất của Liên Xô trong Thế chiến II di tích chiến tranh kỷ niệm cuộc kháng chiến của Liên Xô chống lại cuộc xâm lược của Đức vào 22 tháng 6 năm 1941 (Chiến dịch Barbarossa). Sau chiến tranh, vào năm 1965, danh hiệu Pháo đài Anh hùng đã được trao cho các pháo đài để kỷ niệm việc bảo vệ thành lũy biên giới trong những tuần đầu tiên của chiến tranh Đức-Xô. Đó là sau đó một phần của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Byelorussia (ngày nay là Cộng hòa Belarus). Danh hiệu Pháo đài Anh hùng tương ứng với danh hiệu Thành phố Anh hùng (Liên Xô), đã được trao cho mười hai thành phố, một pháo đài của Liên Xô.
thumb|Một đoạn của doanh trại vòng Citadel với dự bán tháp bên trái
thumb|Lối vào chính cho Tưởng niệm Chiến tranh
thumb|Satirical drawing from "Hasło Łódzkie" newspaper, ngày 5 tháng 10 năm 1930. The text: "From the series: 'Most popular Polish [[spa towns' - Brest-on-the-Bug." Bản vẽ châm biếm từ "Hasło Łódzkie" tờ báo, ngày 05 Tháng 10 năm 1930. Các văn bản: "Từ bộ phim:" 'Most popular Polish spa towns ' - Brest-on-the-Bug." Hình ảnh là một tham chiếu đến các thử nghiệm Brest và "cuộc bầu cử Brest", khi nhiều chính trị gia Ba Lan của Centrolew bên bị giam tại pháo đài Brest (ảnh).]]
Lịch sử hình thành
Toàn cảnh pháo đài Brest và khu vực phụ cận
Pháo đài Brest là cửa ngõ biên giới giữa Đế quốc Nga và Ba Lan, nằm trên một hòn đảo lớn tại ngã ba sông Bug Tây và sông Mukhavets. Vào thế kỷ thứ 12, tại đây xuất hiện cụm dân cư người Slav có tên là Beresky. Từ đó đến cuối thế kỷ 18, đây là nơi tranh chấp thường xuyên giữa ba quốc gia láng giềng là Nga, Ba Lan và Litva. Khi thuộc Nga, nó được gọi là Brest, khi thuộc Ba Lan, nó được gọi là Brześć Litewski, khi thuộc Litva, nó được gọi là Brest-Litovsk. Đến cuối thế kỷ 18, vùng đất này thuộc lãnh thổ của Đế quốc Nga. Sau cuộc Chiến tranh Vệ quốc năm 1812, Sa hoàng đã quyết định xây dựng tại đây một tiền đồn bảo vệ cửa ngõ biên giới phía Tây và pháo đài được khánh thành năm 1842 khi lá quân kỳ của quân đội Đế quốc Nga được kéo lên. Các kỹ sư quân sự Nga đã lợi dụng địa hình tự nhiên trên một hòn đảo cách thành phố Brest - Litovsk hơn 5 km về phía Tây, được bao bọc bởi hai nhánh sông Mukhavets và sông Bug để xây dựng pháo đài này. Quanh pháo đài là hai lớp lũy đắp bằng đất, lớp ngoài cao 6 m, lớp trong cao 10 m, hình thành 8 góc nhọn nhô ra phía ngoài theo các hướng Bắc, Đông Bắc, Đông, Đông Nam, Nam, Tây Nam, Tây và Tây Bắc. Tổng chiều dài lớp lũy ngoài lên đến trên 6,4 km. Trong ruột các lũy đất có rất nhiều hầm tránh đạn, kho vũ khí, kho đạn, kho lương thực. Phía ngoài mỗi lớp lũy có hào nước bao quanh. Trung tâm pháo đài được bao bọc bởi một vòng nhà hai tầng bằng gạch đỏ dày từ 60 cm (phía trong) đến 1 m (phía ngoài) chạy quanh đảo như một vòng tường thành. Dưới nền các tòa nhà này là 500 căn hầm xây cuốn, có cửa thông nhau từ hầm này sang hầm khác. Bên ngoài lớp tường thành trong cùng là hai nhánh sông Mukhavets và sông Bug. Các lớp lũy và hào nước chia pháo đài thành bốn khu phòng thủ gồm khu trung tâm, đồn Đông, đảo Tây và đảo Nam. Các khu này được nối với nhau bằng các cây cầu được xây bằng gạch. Quanh khu trung tâm pháo đài có ba cổng lớn: Cổng Terespolsky ở phía Tây, cổng Brest ở phía Bắc và cổng Kholm ở phía Nam. Trên các lũy ngoài có bốn cổng: Đông, Tây, Nam, Bắc. Chính giữa khu trung tâm pháo đài là Cung điện Trắng, nơi chính phủ Nga Xô Viết đã ký kết với các nước phe Liên minh Trung tâm (trong đó có Đế chế Đức) hòa ước Brest - Litovsk năm 1918 nhằm đưa nước Nga khỏi cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất.
Khu vực chung quanh pháo đài Brest từng là nơi xảy ra trận Brześć Litewski giữa Ba Lan và Đức trong cuộc tấn công xâm lược Ba Lan năm 1939. Quân Đức chiếm được nơi này từ Ba Lan, nhưng theo "Nghị định thư mật" kèm theo Hiệp ước không xâm phạm lẫn nhau giữa Đức và Liên Xô, khu vực này được trao cho Liên Xô vì nằm trong phạm vi ảnh hưởng của Liên Xô. Vì vậy vào mùa hè năm 1941, người Đức lại phải tấn công pháo đài này một lần nữa. Và lần này đối thủ của họ không phải là quân Ba Lan mà là Hồng quân Xô Viết.
Vị trí, vai trò quân sự
Một đoạn lũy ngoài của pháo đài Brest với các hầm xây cuốn
Từ khi khánh thành vào mùa hè năm 1842 đến trước chiến tranh thế giới thứ nhất, pháo đài Brest được coi là một trong các căn cứ quân sự có tính năng phòng thủ rất mạnh như các pháo đài khác. Với thành lũy dày, nhiều lớp, có pháo binh riêng bảo vệ, pháo đài chỉ cần một đội quân không lớn vẫn có thể tiêu hao nặng nề các đội quân tấn công nó đông hơn gấp nhiều lần. Tuy nhiên, đến khi đại bác nòng rãnh xoắn ra đời với các loại đạn có sức công phá lớn thì pháo đài không còn là thành trì bất khả xâm phạm. Đặc biệt, khi máy bay ném bom ra đời thì pháo đài mất đi rất nhiều khả năng tự bảo vệ. Vào thời đại mới, các cường quốc quân sự đưa ra trận những quân đội đông hàng triệu người, có đầy đủ vũ khí nặng hiện đại như xe tăng, máy bay, đại bác cỡ lớn thì pháo đài hoàn toàn trở nên lỗi thời. Đối phương có thể đi vòng qua pháo đài để tiếp tục tiến công và chỉ để lại một đội quân nhỏ bao vây và vô hiệu hóa nó. Ngoài ra, pháo đài còn có thể trở thành nơi tập trung đông quân nhưng địa bàn tác chiến hẹp, dễ bị đối phương cô lập và tiêu diệt một số lượng lớn sinh lực bằng các loại hỏa lực hiện đại. Do gắn với phương thức phòng thủ thụ động, tại chỗ, pháo đài không còn phù hợp với các cuộc chiến tranh hiện đại với phương thức vận động chiến, phòng thủ cơ động và phòng thủ theo chiến tuyến nhiều lớp được áp dụng phổ biến.
Mặc dù không còn tác dụng phòng thủ mạnh mẽ như trước đây nhưng Bộ Tổng tư lệnh quân đội Liên Xô vẫn đặt Pháo đài Brest vào kế hoạch phòng thủ biên giới và coi nó như một khu phòng ngự kiên cố của Quân khu đặc biệt miền Tây. Đây là nơi huấn luyện quân sự cho tân binh của các đơn vị thuộc tập đoàn quân 4, cũng là nơi thực hành các cuộc diễn tập quân sự đồng thời là căn cứ hậu cần, quân y tiền phương. Bản thân pháo đài và 5 đồn phòng thủ xung quanh pháo đài cũng được gấp rút củng cố để trở thành khu phòng thủ vững chắc. Tuy nhiên, Quân khu đặc biệt miền Tây không kịp hoàn thành kế hoạch này. Các công trình quân sự mới chỉ được bắt đầu đổ móng thì chiến tranh đã nổ ra.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Trận phòng thủ pháo đài Brest** là một trận đánh diễn ra giữa quân đội phát xít Đức với lực lượng Hồng quân Xô Viết đồn trú trong pháo đài Brest. Về cơ bản, trận
**Pháo đài Brest** (tiếng Belarus: Брэсцкая крэпасць, Brestskaya krepasts '; tiếng Nga: Брестская крепость, Brestskaya krepost '; tiếng Ba Lan: Twierdza brzeska), trước đây gọi là Pháo đài Brest-Litovsk, là một pháo đài của Nga
**Pháo đài Brest** (tiếng Belarus: _Берасьцейская крэпасьць_, tiếng Nga: **Брестская крепость**, tiếng Anh: **The Brest Fortress** hay **Fortress of War**) là một bộ phim lịch sử - chiến tranh Nga sản xuất năm 2010 để
**Pháo đài Brest** (tiếng Nga: _Брестская крепость_) là tên gọi tập truyện ký về cuộc chiến đấu anh dũng của các chiến sĩ biên phòng Soviet trong Trận phòng thủ Brest. Tác phẩm do nhà
**Pháo đài Anh hùng** (tiếng Nga: Крепость-герой, _Krepost'-geroy_) là một danh hiệu vinh dự được đoàn Chủ tịch Xô viết Tối cao Liên bang Xô viết trao tặng cho Pháo đài Brest đã có những
**Brest** (, _Brest_ hay Берасце, _Bieraście_; _Brest_; ; ; _Brisk_), trước đây cũng được gọi là Brest-on-Bug ("Brześć nad Bugiem" ở Ba Lan) và Brest-Litovsk ("Brześć Litewski" ở Ba Lan), là một thành phố của
**Chiến dịch Lyublin–Brest** hay **Chiến dịch Lublin-Brest** là một chiến dịch quân sự diễn ra trong Chiến tranh Xô-Đức do Hồng quân Liên Xô tổ chức nhằm tiếp tục tấn công vào Cụm tập đoàn
**Cuộc diễu binh Đức - Xô tại Brest-Litovsk** (, __) là một buổi lễ chính thức được tổ chức bởi quân đội Đức Quốc xã và Liên Xô vào ngày 22 tháng 9 năm 1939,
**Chiến dịch Barbarossa** (), còn được gọi là **Cuộc xâm lược của Đức vào Liên Xô** là mật danh của chiến dịch xâm lược Liên Xô do Quân đội Đức Quốc xã tiến hành trong
**Trận Białystok – Minsk** là một chiến dịch tấn công chiến lược do Cụm Tập đoàn quân Trung tâm của Đức thực hiện nhằm chọc thủng các phòng tuyến biên giới của Liên Xô trong
**Thành phố Anh hùng** (tiếng Nga: город-герой, _gorod-geroy_) là một danh hiệu vinh dự được Đoàn Chủ tịch Xô viết Tối cao Liên bang Xô viết trao tặng cho 12 thành phố đã có những
**Pyotr Mikhailovich Gavrilov** (; 1900-1979) là một sĩ quan phục vụ trong Hồng quân Liên Xô. Ông là một trong những sĩ quan chỉ huy nổi tiếng nhất của Liên Xô đã tham gia cuộc
**Andrey Mitrofanovich Kizhevatov** (; 1907–1941) là một chỉ huy biên phòng Liên Xô, một trong những người lãnh đạo phòng thủ Pháo đài Brest trong Chiến dịch Barbarossa, trưởng đồn biên phòng số 9, phân
**Trận Brześć Litewski** (còn gọi là **Cuộc bao vây Brześć**, **Trận Brest-Litovsk** hay đơn giản là **Trận Brześć**) là một trận đánh trong Thế chiến thứ hai giữa quân Đức Quốc Xã và Ba Lan
**Tên anh chưa có trong danh sách** (tiếng Nga: _В списках не значился_) là một tiểu thuyết Liên Xô của nhà văn Boris Vasilyev được xuất bản lần đầu năm 1974. Lấy bối cảnh Chiến
**_U-415_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã thực
**Tôi - người lính Nga** (tiếng Nga: _Я - русский солдат_) là một bộ phim khai thác đề tài số phận con người trong cuộc chiến tranh Xô-Đức của đạo diễn Andrey Malyukov. Bộ phim
**Trận phòng thủ vùng mỏ Adzhimushkay** () là một trận đánh diễn ra giữa Hồng quân Liên Xô và quân đội Đức Quốc xã, kéo dài từ ngày 16 tháng 5 đến ngày 30 tháng
**Yefim Moiseyevich Fomin** (tiếng Nga: _Ефим Моисеевич Фомин_; 15 tháng 1 năm 1909 - 26 tháng 6 năm 1941) là một sĩ quan chính trị Liên Xô. Ông được biết đến với vai trò của
**Anh hùng Liên bang Xô viết**, gọi tắt là **Anh hùng Liên Xô** (tiếng Nga: Герой Советского Союза, _Geroy Sovyetskovo Soyuza_) là danh hiệu vinh dự cao nhất của Chủ tịch đoàn Xô viết Tối
**Ivan Nikolaevich Zubachyov** (; 1898–1944) là một sĩ quan Liên Xô tham gia trong trận phòng thủ Pháo đài Brest. ## Tiểu sử Ông sinh ngày 28 tháng 2 năm 1898 tại làng Podlesnaya Sloboda,
**Napoléon Bonaparte** (tên khai sinh là **Napoleone Buonaparte**; 15 tháng 8 năm 1769 – 5 tháng 5 năm 1821), sau này được biết đến với tôn hiệu **Napoléon I**, là một chỉ huy quân sự
**Liên Xô xâm lược Ba Lan năm 1939**, còn được gọi là **Chiến dịch giải phóng Tây Belarus và Tây Ukraina** bởi Liên Xô, là một cuộc xung đột quân sự không có lời tuyên
**Ngày Chiến thắng** là ngày lễ kỷ niệm chiến thắng của Liên Xô trước Đức Quốc xã vào năm 1945. Ngày lễ này được tổ chức lần đầu tiên tại 15 nước cộng hòa thuộc
**Semyon Moiseyevich Krivoshein** (tiếng Nga: _Семён Моисеевич Кривошеин_; 1899 - 1978) là một chỉ huy của lực lượng xe tăng Liên Xô trong Chiến tranh thế giới thứ hai, người đã đóng vai trò quan
**UfoCom** hoặc **UFOCOM** là viết tắt của **Belarusian UFOlogical COMmunity** (tên trước đây và tên nội bộ: _Ủy ban UFO học Belarus_) là một tổ chức công phi thương mại, phi chính phủ, không đăng
**Liên hoan phim quốc tế Bắc Kinh** (Tiếng Trung: 北京国际电影节) là một liên hoan phim diễn ra ở Bắc Kinh, Trung Quốc, thành lập năm 2011, liên hoan phim này được hỗ trợ và tài
430x430px|thumb ## Sự kiện ### Tháng 1 * 13 tháng 1: Binh biến Đô Lương. * 28 tháng 1: Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. ### Tháng 2
**Phương diện quân Belorussia** (tiếng Nga: _Белорусский фронт_) là một tổ chức tác chiến chiến lược của Hồng quân Liên Xô trong Thế chiến thứ hai, với địa bàn tác chiến chủ yếu trên hướng
**Trung tâm Hợp tác** (tiếng Nga: _Централ Партнершип_) là một công ty sản xuất và phân phối hoạt động trong lĩnh vực điện ảnh - truyền hình của Liên bang Nga, thành lập năm 1995.
**Wojciech Korfanty** (; tên khai sinh **Adalbert Korfanty**; 20 tháng 4 năm 1873 - 17 tháng 8 năm 1939) là một nhà hoạt động, nhà báo và chính trị gia người Ba Lan. Ông từng
**Chiến dịch Bagration** () là mật danh của **chiến dịch Byelorussia** - chiến dịch tấn công chiến lược mùa hè năm 1944 của quân đội Liên Xô, chính thức bắt đầu ngày 23 tháng 6,
**_U-275_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã thực
**Lớp thiết giáp hạm _Scharnhorst**_ là những tàu chiến chủ lực đầu tiên, thuật ngữ dùng để chỉ tàu chiến-tuần dương hay thiết giáp hạm, được chế tạo cho Hải quân Đức (_Kriegsmarine_) sau Chiến
**_Gneisenau_** là một tàu chiến lớp _Scharnhorst_ thường được xem là một thiết giáp hạm hạng nhẹ hay một tàu chiến-tuần dương của Hải quân Đức (Kriegsmarine) hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ
**USS _Nevada_ (BB-36)** (tên lóng: "Cheer Up Ship"), chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được đặt theo tên của tiểu bang thứ 36 của Hoa Kỳ, là chiếc dẫn đầu trong
**Narai** ( 16 tháng 2 năm 1633 - 11 tháng 7 năm 1688) hoặc **Ramathibodi III** (รามาธิบดีที่ 3) hay **Ramathibodi Si Sanphet** (รามาธิบดีศรีสรรเพชญ์), là vị vua thứ 27 của vuơng quốc Ayutthaya từ năm 1656
Lịch sử của nước Nga, bắt đầu từ việc người Slav phương Đông tái định cư ở Đồng bằng Đông Âu vào thế kỷ thứ 6-7, những người sau đó được chia thành người Nga,
**_Admiral Hipper_** (Đô đốc Hipper) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đức Quốc xã, là chiếc dẫn đầu của lớp tàu tuần dương _Admiral Hipper_ đã phục vụ trong Chiến tranh
**Mikhail Alexandrovich Ulyanov** (; 20 tháng 11 năm 1927 – 26 tháng 3 năm 2007) là diễn viên, đạo diễn, giảng viên nghệ thuật, nhân vật công chúng Liên Xô và Nga. Ông được tặng
**Kazimierz IV Jagiellończyk** (tiếng Ba Lan: Kazimierz IV Andrzej Jagiellończyk ; tiếng Lithuania: Kazimieras Jogailaitis; 30 tháng 11 năm 1427 - 07 tháng 6 năm 1492) là vua của Ba Lan và là Đại công
**Vladimir Ilyich Lenin** (tên khai sinh: **Vladimir Ilyich Ulyanov**; – 21 tháng 1 năm 1924) là một nhà cách mạng, nhà chính trị và lý luận chính trị người Nga. Ông là người sáng lập
**Erich von Manstein** tên đầy đủ là **Fritz Erich Georg Eduard von Lewinski** (24 tháng 11 năm 1887 – 10 tháng 7 năm 1973) là một chỉ huy cấp cao của quân đội Đức thời
**Boeing B-17 Flying Fortress** **(Pháo đài bay)** là kiểu máy bay ném bom hạng nặng 4 động cơ được phát triển cho Không lực Hoa Kỳ (USAAF) và được đưa vào sử dụng vào cuối
**SMS _Goeben**_ là chiếc thứ hai thuộc lớp tàu chiến-tuần dương _Moltke_ của Hải quân Đế quốc Đức. Nó được hạ thủy vào năm 1911 và được đặt tên theo August Karl von Goeben, vị
**Chiến dịch tấn công Gorlice–Tarnów** là một chiến dịch quân sự lớn do khối Liên minh Trung tâm tổ chức nhằm vào quân đội Nga trên Mặt trận phía Đông của Chiến tranh thế giới
nhỏ|Một chiếc T-26 **T-26** là một xe tăng bộ binh hạng nhẹ của Liên Xô, được sử dụng trong nhiều cuộc chiến hồi những năm 1930 cũng như trong Chiến tranh thế giới thứ hai.
Đại tướng **John Churchill, Công tước thứ 1 xứ Marlborough, Thân vương thứ 1 xứ Mindelheim, Bá tước thứ 1 xứ Nellenburg, Thân vương của Đế quốc La Mã Thần thánh**, KG PC (26 tháng
**Hermann Hoth** (1885-1971) là một Đại tướng Lục quân Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Ông là một trong những chỉ huy hàng đầu của binh chủng Tăng-Thiết giáp Đức, đã dẫn dắt
**Kherson** (, ) là một thành phố tại miền nam của Ukraina, là trung tâm hành chính của tỉnh Kherson. Thành phố nằm trên bờ hữu của sông Dnepr (Dnipro), và ở gần cửa sông.