✨Admiral Hipper (tàu tuần dương Đức)

Admiral Hipper (tàu tuần dương Đức)

Admiral Hipper (Đô đốc Hipper) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đức Quốc xã, là chiếc dẫn đầu của lớp tàu tuần dương Admiral Hipper đã phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó đã sống sót cho đến những ngày sau cùng của cuộc xung đột này.

Thiết kế và chế tạo

Con tàu được đặt tên theo Đô đốc Franz von Hipper, Tư lệnh Hải đội tàu chiến-tuần dương Đức trong trận Jutland vào năm 1916 và sau đó là Tổng tư lệnh Hạm đội Biển khơi Đức. Admiral Hipper là chiếc đầu tiên của lớp tàu bao gồm năm chiếc, trong đó nó cùng với BlücherPrinz Eugen được hoàn tất và phục vụ cùng Hải quân Đức trong Thế Chiến II; chiếc thứ tư, Lützow, được bán cho Liên Xô vào năm 1939 trước khi hoàn tất; và một chiếc thứ năm, Seydlitz, được cải biến thành một tàu sân bay nhưng chưa bao giờ hoàn tất.

Admiral Hipper được đặt hàng vào ngày 30 tháng 10 năm 1934 và được chế tạo bởi hãng đóng tàu Blohm & Voss tại Hamburg. Nó được đặt lườn vào ngày 6 tháng 7 năm 1935, được hạ thủy vào ngày 6 tháng 2 năm 1937 và được đưa ra hoạt động vào ngày 25 tháng 4 năm 1939.

Lịch sử hoạt động

Năm 1940, Admiral Hipper tham gia Chiến dịch Weserübung, cuộc tấn công nhằm xâm chiếm Na Uy. Ngày 8 tháng 4 năm 1940, nó đụng độ với tàu khu trục Anh HMS Glowworm ở về phía Tây Bắc Trondheim, thành phố lớn thứ ba của Na Uy ở khoảng giữa bờ biển Đại Tây Dương. Cuộc đấu pháo đã gây hư hại nặng cho Glowworm, nhưng nó vẫn xoay xở chuyển hướng húc vào Admiral Hipper, gây hư hại cho chiếc tàu tuần dương trước khi chìm.

Sang ngày 9 tháng 4, nó vượt qua các pháo đài phòng thủ duyên hải của Na Uy tại Trondheimsfjord, chịu một hỏa lực yếu ớt không hiệu quả, và tiến vào cảng Trondheim. Lực lượng đổ bộ từ Admiral Hipper đã chiếm được thành phố vào những giờ đầu tiên, phất cao lá cờ Đức Quốc xã trên pháo đài Kristiansten cổ cùng các tòa nhà chính quyền thành phố ngay trước khi đa số các cư dân thức giấc.

Sau khi được sửa chữa những hư hại nhẹ, Admiral Hipper hoạt động cùng với các thiết giáp hạm ScharnhorstGneisenau ngoài khơi bờ biển Na Uy để ngăn chặn các tuyến đường tiếp tế của Anh. Vào tháng 10 năm 1940, cần được đại tu, Admiral Hipper quay trở về Kiel. Cho dù được sửa chữa lớn, hai dự định tiến ra Đại Tây Dương bị hủy bỏ do hỏng động cơ và hỏa hoạn. Công việc sửa chữa được tiến hành tại Kiel và Hamburg, làm trì hoãn những hoạt động tiếp theo của nó cho đến tháng 12.

Cuối cùng, Admiral Hipper cũng tiến ra được Đại Tây Dương mà không bị phát hiện, và đã hoạt động trong vai trò cướp tàu buôn, đặt căn cứ tại Brest, Pháp. Cuộc tấn công đầu tiên nhắm vào đoàn tàu vận tải chuyển quân WS-5A diễn ra vào tháng 12 năm 1940. Cho dù một trong các tàu tuần dương hộ tống, chiếc HMS Berwick, bị hư hại nặng, ảnh hưởng đối với đoàn tàu vận tải chỉ giới hạn ở mức gây hư hại cho hai tàu buôn. Những vấn đề về động cơ và thiếu hụt nhiên liệu đã buộc Admiral Hipper phải quay trở về Brest. Trên đường đi, nó bắt gặp và đánh chìm tàu chở hàng Jumna. Công việc sửa chữa phải mất một tháng để hoàn tất.

Admiral Hipper lên đường cho chuyến đi ra Đại Tây Dương thứ hai vào ngày 1 tháng 2 năm 1941. Vào ngày 12 tháng 2, nó đánh chặn đoàn tàu vận tải SLS-64 không được hộ tống. Bảy chiếc trong tổng số 19 tàu buôn bị đánh chìm, nhưng đoàn tàu vận tải đã phân tán và thời tiết xấu đã hỗ trợ cho cuộc chạy thoát của chúng. Bị thiếu hụt đạn pháo 203 mm, Admiral Hipper trở lại Brest vào ngày 14 tháng 2 năm 1941. Chiếc tàu tuần dương quay trở về Kiel qua eo biển Đan Mạch, đến nơi vào ngày 28 tháng 2 năm 1941. Công việc sửa chữa được thực hiện, cũng như những cải biến nhằm gia tăng trữ lượng nhiên liệu, và nhờ đó tăng thêm tầm hoạt động.

Từ tháng 3 năm 1942, Admiral Hipper đặt căn cứ tại Na Uy cho các hoạt động đánh phá các đoàn tàu vận tải Bắc Cực và để chuẩn bị nhằm chống lại hoạt động của Anh xuống Na Uy dự kiến sẽ xảy ra. Vào đêm giao thừa 1943, nó tham gia trận chiến biển Barents; một cuộc tấn công thất bại nhắm vào đoàn tàu vận tải JW-51B, nơi nó đánh chìm tàu quét mìn HMS Bramble và tàu khu trục HMS Achates. Cho dù có lực lượng mạnh, cuộc tấn công của Đức bị đẩy lui và Admiral Hipper bị hư hại. Nó quay trở về Wilhelmshaven, nơi nó được cho ngừng hoạt động và chuyển đến Gotenhafen.

Do việc Adolf Hitler mất niềm tin vào các hoạt động của hạm tàu nổi thuộc Hải quân Đức, Admiral Hipper không sẵn sàng để tái hoạt động cho đến tháng 1 năm 1945; khi nó được sử dụng, trong tình trạng sửa chữa một phần, để triệt thoái người tị nạn và binh lính khỏi Đông Phổ băng qua biển Baltic trong Chiến dịch Hannibal khi Hồng quân tấn công.

Admiral Hipper bị đánh chìm tại ụ tàu của hãng Deutsche Werke tại Kiel vào ngày 2 tháng 5 năm 1945. Được cho nổi trở lại và di chuyển đến vịnh Heikendorfer vào năm 1946, các khẩu pháo và cầu tàu của nó được tháo dỡ, và nó bị chìm trong khi được kéo đến ụ tháo dỡ.

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_Admiral Hipper_** (Đô đốc Hipper) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đức Quốc xã, là chiếc dẫn đầu của lớp tàu tuần dương _Admiral Hipper_ đã phục vụ trong Chiến tranh
**_Prinz Eugen_** (Vương công Eugène) là một tàu tuần dương hạng nặng thuộc lớp _Admiral Hipper_ đã phục vụ cho Hải quân Đức Quốc Xã trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Được xem là
**_Blücher_** là một tàu tuần dương hạng nặng thuộc lớp _Admiral Hipper_ đã phục vụ cho Hải quân Đức Quốc xã trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Tham gia Chiến dịch Weserübung, cuộc tấn
**_Seydlitz_** là một tàu tuần dương hạng nặng được chế tạo cho Hải quân Đức Quốc xã trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, là chiếc thứ tư thuộc lớp _Admiral Hipper_ nhưng chưa bao
**Lớp tàu tuần dương _Admiral Hipper**_ là một loạt năm tàu tuần dương hạng nặng, trong đó ba chiếc đã phục vụ cùng Hải quân của Đức Quốc xã trong Chiến tranh thế giới thứ
**_Petropavlovsk_** (đổi tên thành **_Tallinn_** từ ngày 1 tháng 9 năm 1944) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Liên Xô từng hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Được
**_Köln _** là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp tàu tuần dương K được Hải quân Đức đưa ra hoạt động giữa hai cuộc thế chiến. Nó đã phục vụ trong Chiến tranh
**Lớp tàu tuần dương _Deutschland**_ là một lớp bao gồm ba "tàu chiến bọc thép" (_Panzerschiffe_), một dạng của tàu tuần dương được vũ trang rất mạnh, do Hải quân Đức chế tạo, trong một
Tàu tuần dương hạng nặng [[HMS Frobisher (D81)|HMS _Frobisher_ thuộc lớp _Hawkins_, vào khoảng thời gian mà Hiệp ước Hải quân Washington đặt ra những giới hạn cho tàu tuần dương hạng nặng.]] **Tàu tuần
nhỏ|phải|Sơ đồ cắt ngang một chiếc tàu tuần dương bọc thép tiêu biểu trình bày sơ đồ bảo vệ. Những đường đỏ là các lớp sàn tàu bọc thép phía trên và phía giữa cùng
**_Graf Zeppelin_** là tàu sân bay duy nhất của Đức được hạ thủy trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, tiêu biểu phần nào cho những nỗ lực của Hải quân Đức để tạo ra
**Lớp tàu sân bay _Courageous**_, đôi khi còn được gọi là **lớp _Glorious_**, là lớp nhiều chiếc tàu sân bay đầu tiên phục vụ cùng Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Ba chiếc trong lớp
**_Bismarck_** là một thiết giáp hạm của Hải quân Đức, là chiếc dẫn đầu trong lớp cùng tên, được đặt theo tên vị Thủ tướng nổi tiếng trong thế kỷ 19: Otto von Bismarck, người
**SMS _Roon**_ là chiếc dẫn đầu của lớp tàu tuần dương bọc thép mang tên nó của Hải quân Đế quốc Đức. Con tàu được chấp thuận chế tạo theo đạo luật Hải quân thứ
**HMS _Bonaventure** (31)_ là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Dido_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Nó được đưa ra hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai và đã
**Trận chiến Đại Tây Dương** được xem là trận chiến kéo dài nhất trong lịch sử Chiến tranh thế giới thứ hai mặc dù có nhiều nhà sử học, nhà nghiên cứu hải quân của
**HMS _Jamaica_ (44)** (sau đổi thành C44) là một tàu tuần dương hạng nhẹ lớp Crown Colony của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc; được đặt tên theo đảo Jamaica, vốn là một thuộc địa
**SMS _Von der Tann**_ là chiếc tàu chiến-tuần dương đầu tiên được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo, cũng là chiếc tàu chiến chủ lực đầu tiên của Đức vận hành bằng turbine hơi
**_U-570_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó chỉ thực
**HMS _Berwick_ (65)** là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, là chiếc dẫn đầu cho lớp _County_ thuộc lớp phụ _Kent_. _Berwick_ đã tham gia hoạt động trong
**Lớp tàu sân bay _Graf Zeppelin**_ là hai tàu sân bay của Hải quân Đức được đặt lườn vào giữa những năm 1930 như một phần của Kế hoạch Z nhằm tái vũ trang. Bốn
**HMS _Repulse**_ là một tàu chiến-tuần dương thuộc lớp _Renown_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, vốn bao gồm cả chiếc _Renown_. Nó đã phục vụ trong cả cuộc Chiến tranh Thế giới thứ
**_U-63_** là một tàu ngầm duyên hải thuộc phân lớp Type IIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Những tàu ngầm Type II vốn quá nhỏ
**Lớp tàu khu trục A** là một hải đội bao gồm tám tàu khu trục được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc trong Chương trình Hải quân 1927. Một chiếc thứ chín,
**HMS _Hood_ (51)** là chiếc tàu chiến-tuần dương cuối cùng và cũng đồng thời là chiếc tàu chiến-tuần dương duy nhất thuộc lớp Admiral của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc được chế tạo hoàn
**Lớp thiết giáp hạm _Scharnhorst**_ là những tàu chiến chủ lực đầu tiên, thuật ngữ dùng để chỉ tàu chiến-tuần dương hay thiết giáp hạm, được chế tạo cho Hải quân Đức (_Kriegsmarine_) sau Chiến
**SMS _Kaiser**_ (hoàng đế) là chiếc dẫn đầu của lớp thiết giáp hạm dreadnought mang tên nó được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất. _Kaiser_ được đóng
**SMS _Friedrich der Große**_ (_Friedrich Đại Đế_) là chiếc thứ hai trong lớp thiết giáp hạm _Kaiser_ của Hải quân Đế quốc Đức trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất. _Friedrich der Große_
**SMS _Prinzregent Luitpold**_, tên đặt theo Hoàng tử nhiếp chính Luitpold của Bavaria, là chiếc thứ năm cũng là chiếc cuối cùng trong lớp thiết giáp hạm _Kaiser_ của Hải quân Đế quốc Đức trong
**HMS _Hereward_ (H93)** là một tàu khu trục lớp H được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào giữa những năm 1930. Nó được phân về Hạm đội Địa Trung Hải, và đã
**SMS _Kaiserin**_ (_Nữ hoàng_) là chiếc thứ ba trong lớp thiết giáp hạm _Kaiser_ của Hải quân Đế quốc Đức trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất. _Kaiserin_ được đặt lườn vào ngày
**SMS _Kronprinz**_ là chiếc cuối cùng của lớp thiết giáp hạm _König_ được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. _Kronprinz_ được đặt lườn vào ngày tháng 11
**SMS _Markgraf**_ là chiếc thứ ba trong lớp thiết giáp hạm _König_ được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. _Markgraf_ được đặt lườn vào tháng 11 năm
**HMS _Kimberley_ (F50)** là một tàu khu trục lớp K được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào cuối những năm 1930. Tên nó được đặt theo thị trấn Kimberley, Northern Cape, nơi
**HMS _Hero_ (H99)** là một tàu khu trục lớp H được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào giữa những năm 1930. Trong cuộc Nội chiến Tây Ban Nha vào các năm 1936–1939,
**_U-61_** là một tàu ngầm duyên hải thuộc phân lớp Type IIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo vào đầu Chiến tranh Thế giới thứ hai. Những tàu ngầm Type II vốn quá
**_U-57_** là một tàu ngầm duyên hải thuộc phân lớp Type IIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Những tàu ngầm Type II vốn quá nhỏ
Năm tàu chiến của Hải quân Hoàng gia Anh từng được đặt và một chiếc thứ sáu dự định đặt cái tên **HMS _Achates**_, theo tên Achates, một nhân vật trong Thần thoại La Mã:
**HMS _Glowworm_ (H92)** là một tàu khu trục lớp G được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc vào giữa những năm 1930. Nó trải qua một phần lớn thời gian tại vùng
**HMS _Achates_ (H12)** là một tàu khu trục lớp A của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Nó đã phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai và bị đánh chìm trong Trận chiến
**SMS _Bayern**_ là chiếc dẫn đầu cho lớp thiết giáp hạm _Bayern_ được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Chiếc tàu chiến được hạ thủy vào tháng
**HMS _Punjabi_ (L21/F21)** là một tàu khu trục lớp Tribal được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên nó được đặt theo người Punjab, một
**SMS _König Albert**_, tên đặt theo Vua Albert của Saxony, là chiếc thứ tư trong lớp thiết giáp hạm _Kaiser_ của Hải quân Đế quốc Đức trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất.
**USS _Wainwright_ (DD-419)** là một tàu khu trục lớp _Sims_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai; nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân
**Lớp thiết giáp hạm _König**_ là một lớp thiết giáp hạm dreadnought được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất; lớp bao gồm bốn chiếc _König_, _Grosser
**SMS _König**_ là chiếc dẫn đầu cho lớp thiết giáp hạm _König_ được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. König (tiếng Đức, nghĩa là Quốc vương) được
**Lớp thiết giáp hạm _Kaiser**_ là một lớp bao gồm năm thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Đức trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Chúng là lớp thiết giáp hạm dreadnought thứ
**HMS _Wheatland_ (L122)** là một tàu khu trục hộ tống lớp Hunt Kiểu II của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc được hạ thủy và đưa ra phục vụ vào năm 1941. Nó đã hoạt
**Lớp thiết giáp hạm _Bayern**_ là một lớp bao gồm bốn thiết giáp hạm "siêu-dreadnought" được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Lớp này bao gồm các
**MV Wilhelm Gustloff** là tên một con tàu du lịch hàng đầu của Đức Quốc xã trong thời gian 1937-1945, được đóng bởi xưởng đóng tàu Blohm & Voss.Nó được đặt bởi hãng Hamburg-South America