✨Mikhail Aleksandrovich Ulyanov

Mikhail Aleksandrovich Ulyanov

Mikhail Alexandrovich Ulyanov (; 20 tháng 11 năm 1927 – 26 tháng 3 năm 2007) là diễn viên, đạo diễn, giảng viên nghệ thuật, nhân vật công chúng Liên Xô và Nga. Ông được tặng thưởng Anh hùng lao động Xã hội Chủ nghĩa Liên Xô (1986), Nghệ sĩ Nhân dân Liên Xô (1969), Giải thưởng Lenin (1966), Giải thưởng Nhà nước Liên Xô (1983), Giải thưởng Nhà nước Nga Xô viết mang tên K. S. Stanislavsky (1975), Giải thưởng của Tổng thống Liên bang Nga (1999) và giải thưởng điện ảnh Nika (2000). Ông là một trong những nghệ sĩ sáng giá và nguyên bản nhất của Liên Xô và nước Nga hậu Xô viết.

Sự nghiệp diễn xuất lâu năm của Ulyanov bao gồm hàng chục vai diễn sân khấu và khoảng 70 vai trên phim. Nhà phê bình Valery Kichin viết: "Ông là diễn viên có thể vào bất cứ vai ở sắc độ nào - từ những nhân vật giàu cảm xúc đến kẻ lố bịch, từ chính kịch dân gian đến hề xiếc".

Phạm vi các vai diễn trong phim của Ulyanov cũng rất đa dạng từ "những nhà lãnh đạo cứng rắn, những con người có chí khí mạnh mẽ" đến "lũ hèn nhát" và cả "những nhà viết kịch".

Trong vai trò đạo diễn, ông tham gia quay phim Anh em nhà Karamazov (1968), tự dàn dựng phim Ngày cuối (1972) và cũng được chuyển thể sân khấu cùng năm. Năm 1987, ông giữ chức giám đốc nghệ thuật Nhà hát Vakhtangov cho đến cuối đời. Ông cũng là tác giả năm cuốn sách viết về bản thân và sự nghiệp. Tên ông được đặt cho tàu chở dầu Bắc Cực và Nhà hát Kịch phía bắc Omsk ở thành phố Tara. Năm 2012, khánh thành tượng đài Ulyanov.

Tiểu sử

Thời thơ ấu

Nhà Ulyanov định cư ở Siberia dưới thời Pyotr Stolypin. Ông nội của Mikhail đào vàng và gần như mất một chân tại Sông Aldan, rồi chuyển làm thư ký ở Bergamak. Ông bà nội bị người Bolshevik lưu đày tới đầm lầy Vasyugan và chết tại đó.

Mikhail Ulyanov sinh ngày 20 tháng 11 năm 1927 tại làng Bergamak, huyện Muromtsevsky (nay thuộc tỉnh Omsk). Cha là Alexander Andreevich Ulyanov (11 tháng 10 năm 1903 - 29 tháng 1 năm 1974) quản lý một xưởng gỗ nhỏ, mẹ là Elizaveta Mikhailovna Ulyanova (nhũ danh Zhukova) (5 tháng 11 năm 1907 - 2 tháng 2 năm 1966) làm nội trợ ở nhà. Trên các phương tiện truyền thông hiện nay có thông tin rằng Mikhail được khai sinh dưới tên thời con gái của mẹ, điều này không có cơ sở cũng như chính Ulyanov chưa bao giờ nói đến khi phỏng vấn hay đề cập trong cả 5 cuốn sách của mình. Tên gọi âu yếm ở nhà là Misha. Dưới Misha còn có một em gái tên là Margarita (2 tháng 4 năm 1931 - 30 tháng 4 năm 2017).

Khi Misha lên ba, gia đình chuyển đến làng Ekaterininskoe nằm không xa Bergamak. Sau một thời gian ngắn, gia đình Ulyanov đến thành phố Tara, nơi cậu bé Misha trải qua cả tuổi thơ và tuổi trẻ.

Ulyanov lớn lên như bất cứ cậu bé Xô Viết bình thường nào: chơi Cướp cossack, tham gia thi trượt tuyết, tìm nón tuyết tùng khi vào thu, chạy đến rạp xem phim.

Năm 1941, khi Misha 13 tuổi, Chiến tranh Xô–Đức nổ ra, cha ra mặt trận. Alexander Andreevich làm chính ủy trong các sư đoàn bộ binh Siberia ở Staraya Russa, bị thương ở chân và được tặng thưởng Huân chương Sao Đỏ sau chiến tranh. Gia đình nhiều lần đến thăm ông ở làng Cheryomushki, gần Omsk. Bản thân Mikhail khi học lớp 10 đã nhận được giấy gọi nhập ngũ, nhưng cuối cùng thì có quyết định rằng những thanh niên sinh năm 1927 chưa cần ra mặt trận.

Ở trường, Ulyanov chỉ có kết quả trung bình, bị phân tâm vì liên tục tham gia các sự kiện văn hóa ban đêm. Vai diễn nghiệp dư đầu tiên trong đời là Cha Varlaam trong vở Boris Godunov. Cho đến tuổi 15, Mikhail không có chút ý niệm nào về sân khấu, cho đến khi Tara đón các đoàn sơ tán từ Tobolsk và Omsk. Một lần Ulyanov đến trại thiếu nhi tại Nhà hát Kịch Quốc gia Maria Zankovetskaya của Ukraina đang sơ tán tại Tara. Nghe thanh thiếu niên đọc thơ, Ulyanov "dần dần, từng chút một, vô tình trở nên thích sân khấu, phần lớn là do trong thời chiến thì không có gì khác ở Tara". Người đứng đầu trại sân khấu Yevgeny Prosvetov khuyên Mikhail đến Omsk và viết thư giới thiệu cho giám đốc nhà hát tại Omsk là Lina Samborskaya.

Học diễn xuất cơ bản

Những bài học đầu tiên tại Omsk

Được mẹ tiễn với một túi khoai tây, Ulyanov đến Omsk học trong Kịch viện nhà hát Omsk. Ulyanov và các bạn học của mình coi giám đốc nghệ thuật kiêm nữ diễn viên chính của nhà hát Lina Samborskaya là "một đỉnh cao không thể với tới". Về sau, nam diễn viên kể lại rằng nhìn bà "trang nghiêm, uy nghiêm, giống như Catherine Đại đế" và nhìn lại mình giống như "một con nòng nọc nhỏ", sẽ không được chấp nhận. Tuy nhiên, sau khi đọc một đoạn trích trong Những linh hồn chết, anh được "bật đèn xanh".

Chính Ulyanov gọi giai đoạn này là "đau khổ", cuộc sống không hề dễ dàng, liên tục đọc phác thảo, đến phòng tập và diễn vài vai phụ. Ulyanov ấn tượng khi được học riêng với diễn viên nhà hát Mikhail Ilovaisky uyên bác đã "mê hoặc" học viên bằng những câu chuyện về những người đã gặp trên đường đời.

Tháng 8 năm 1946, được cha khuyến khích, ông đến Moskva tham gia xưởng kịch. Trước khi đi, Alexander Andreevich tặng cho con trai khẩu súng lục lấy được của quân Đức. Tại thủ đô, Ulyanov bị lính gác đầu tiên giữ lại do bề ngoài đáng ngờ và sợ hãi, nhưng khẩu súng đã biến mất một cách kỳ lạ. Mikhail đến sống với người bạn của cha tại số 3 phố Sokolnicheskaya. Ở đó, Ulyanov ra công viên đọc thơ để có tiền nhập học.

Đến thủ đô bằng số tiền kiếm được, với thông tin ít ỏi về các trường sân khấu, Ulyanov mất thời gian dài tìm kiếm xưởng kịch của Dikiy (vì không có ở Moskva). Cuối cùng, Ulyanov chọn ngẫu nhiên Trường Sân khấu Shchepkinsky của Nhà hát Maly và Trường Sân khấu Nghệ thuật Moskva. dựa trên tiểu thuyết của Veniamin Kaverin. Thành công đã truyền cảm hứng cho Ulyanov tiếp tục cùng với Yevgeny Simonov dàn dựng và đóng vai chính trong Boris Godunov. Zakhava không đánh giá cao sự táo bạo này, cho rằng họ chưa biết cách "theo đuổi nghệ thuật" và chưa đủ chín để diễn những vở như vậy. Nhiều thập kỷ sau, Ulyanov viết: "Đó là bài học mà tôi vẫn khắc ghi và trân trọng. Trong nghệ thuật, không có điều gì lại dễ dàng và ngay lập tức được."

Sau bốn năm, Ulyanov bước vào buổi diễn tốt nghiệp. Nam diễn viên trẻ được giao hai vai: Nil trong Người Philistines (Мещане) của Maksim Gorky) và Makeev trong Bóng tối xa lạ (Чужая тень) của Konstantin Simonov). Theo thông lệ, buổi diễn ra mắt sẽ được các giám đốc nhà hát nổi tiếng thủ đô và đại diện Bộ Văn hóa đến tham dự.

Năm 1950, ban lãnh đạo Nhà hát Vakhtangov chấp nhận bốn sinh viên mới tốt nghiệp vào đoàn kịch (thường chỉ lấy một hoặc hai người): Vadim Ruslanov, Nikolai Timofeev, Mikhail Dadyko và Mikhail Ulyanov. Trước khi đưa ra quyết định cuối cùng này, giám đốc nghệ thuật nhà hát Ruben Simonov đã yêu cầu Ulyanov diễn thử vai Sergey Kirov trong vở Pháo đài trên sông Volga (Крепость на Волге) của Ilya Kremlev, do diễn viên vào vai này là Mikhail Derzhavin ốm bệnh. Trích đoạn chuẩn bị cho vở diễn phải được trình duyệt trước hội đồng nghệ thuật trên sân khấu lớn của nhà hát, nam diễn viên trẻ run đến mức không còn nghĩ đến vai diễn hay nhà hát nữa, chỉ lên sân khấu mà thôi: "Tôi đã lảm nhảm lời thoại như thế nào, tôi không ngồi xuống ghế ra sao, tôi đã đi đến cuối như thế nào, tôi không nhớ nổi nữa". Nhưng cuối cùng, Ulyanov được nhận vào nhà hát.

Tháng 6 năm 1950, Ulyanov chính thức nhận bằng tốt nghiệp từ tay hiệu trưởng Zakhava, ghi rõ: "... đã hoàn thành toàn bộ khóa học của Học viện Sân khấu mang tên B. V. Shchukin, đủ tiêu chuẩn để trở thành diễn viên sân khấu kịch".

Những mùa sân khấu và phim đầu tiên

Hè năm 1950, đoàn Vakhtangov lưu diễn tại Minsk còn Ulyanov đi thăm cha mẹ ở Tara, rồi "ăn, ngủ và đợi đến tháng 9, khi bắt đầu mùa diễn đầu tiên":

Đó là kỳ nghỉ trọn vẹn duy nhất trong đời Ulyanov. Sau đó, nam diễn viên trở lại Moskva và bắt đầu làm việc tại Nhà hát Vakhtangov.

Ngay sau khi đến nhà hát, Ulyanov được vào vai Kirov. Người hướng dẫn Anna Orochko có trọng trách giúp nam diễn viên phát triển vai diễn này. Ulyanov bắt tay vào "cố gắng hoàn thành mọi nhiệm vụ và yêu cầu của Anna Alekseevna". Ngày diễn ra mắt trên sân khấu Vakhtangov, Ulyanov được Orochko tặng cho bức ảnh của Ruben Simonov và Boris Shchukin với dòng chữ "Nếu trẻ biết cách, thì khi già có thể". Hè năm 1951, Derzhavin đột ngột qua đời ở tuổi 48. Ulyanov vẫn là người duy nhất diễn vai Kirov, dù chính bản thân cho rằng mình hoàn toàn không phù hợp.

Trong những năm đầu tiên trên sân khấu nhà hát, Mikhail đã đóng rất nhiều vai, Simonov coi anh là một diễn viên triển vọng. Tuy nhiên, "do đề tài đơn điệu và ít kinh nghiệm", Ulyanov "không thấy niềm vui" trong công việc. Các vai diễn có thể kể như Chuẩn tướng Barkan (Tham mưu nhà nước), Artyom (Makar Dubrava) và Yakov (Egor Bulychov và những người khác).

Nhà hát thay đổi vở diễn khi bắt đầu "thời kỳ tan băng". Năm 1958, Alexandra Remizova dàn dựng vở Chàng ngốc, Ulyanov vào vai diễn khó nhất Parfyon Rogozhin. Naum Berkovsky viết "Diễn viên trong vai này không phạm lỗi cường điệu hóa hay tiểu tiết hóa. Ulyanov đã vào vai chính xác: làm rõ được lý do và cách nào mà Rogozhin có thể trở nên cao đẹp, diễn tả được đam mê và tình yêu của nhân vật theo cách riêng."

Ngay từ lúc vào Nhà hát Vakhtangov, Ulyanov đã nhận được rất nhiều lời mời đóng phim. Nhưng các lần thử vai đều thất bại. Cho đến năm 1953, Cleopatra Alperova gọi Ulyanov đến thử vai bí thư Komsomol Petrograd Alexei Kolyvanov trong phim Họ là những người đầu tiên (Они были первыми) của Yuri Yegorov, người được chính Ulyanov đánh giá là đã mở đường cho ông đến với điện ảnh. Mùa sân khấu vừa kết thúc là lúc Ulyanov cùng với đoàn làm phim đến Leningrad. Ở đó, ông cứ ở dài trong khách sạn cho đến mùa sân khấu tiếp theo thì mới bắt đầu quay các cảnh có ông vào vai. Về sau, Ulyanov kể lại rằng rất chán khi nhìn mình trên màn hình: "Tôi không thích tất cả về bản thân mình: dáng người, khuôn mặt, giọng nói, ánh mắt... Tất nhiên, tôi đâu có thể ngờ một sinh vật xấu xí, tóc ngắn, vụng về đó lại đang cố gắng biểu diễn được."

Cũng trong khoảng thời gian này, Ulyanov gặp ngôi sao Alla Parfanyak phim Đạn trời nổi tiếng. Trải qua thời gian dài theo đuổi và tán tỉnh, Ulyanov đã cướp được nữ diễn viên từ tay huyền thoại điện ảnh Liên Xô là Nikolai Kryuchkov. Năm 1959, họ đăng ký kết hôn. Tháng 12 năm ấy, cặp đôi chào đón con gái đầu lòng Elena.

Đến giữa năm, Yuri Nagibin trao cho Ulyanov kịch bản phân cảnh Con đường gian khó trong Chủ tịch (Председатель) để diễn thử. Ulyanov rất thích "nhân vật bậc thầy Yegor Trubnikov" và thành công khi thử vai. Khi đó, Evgeny Urbansky cũng nằm trong số diễn viên được nhắm vào vai này, nhưng đạo diễn giải thích với Ulyanov: "Đúng, Urbansky phù hợp, nhưng anh ta có thể phô diễn anh hùng, mạnh mẽ làm biến mất chất nam tính, ga lăng của Yegor". Để chuẩn bị vào vai nhập tâm và tạo dáng thích hợp, Ulyanov xem ảnh chụp Kirill Orlovsky vốn là nguyên mẫu cho Trubnikov. Ông đã vào vai diễn tả nhân vật phức tạp, góc cạnh, cứng rắn. Theo nhà phê bình Margarita Kavsnetskaya, Trubnikov của Ulyanov toát lên vẻ cứng rắn không khoan nhượng khi đề cập đến vấn đề chính - "xây dựng nông trang tập thể, chăm lo cho mọi người, truyền cho họ niềm tin có được cuộc sống tốt đẹp hơn". Vì mục tiêu này, ông ta có thể không tuân theo chỉ thị cấp trên và trở nên tàn nhẫn với nông dân lao động. Nhưng khi chính quyền định cách chức nhân vật cố chấp này, tập thể nông dân bất ngờ lại ủng hộ ông ta. Kvasnetskaya viết: "Khi một biển tay giơ lên vì Trubnikov, mắt Yegor rưng rưng dòng lệ... Mặt nhân vật trở nên dịu dàng, bất lực, không còn che dấu. Nhân vật anh hùng bừng sáng lên nhờ cách diễn đạt thông minh, tinh tế của Mikhail Ulyanov."

Phim Chủ tịch (Председатель) được quay từ tháng 8 năm 1963 đến tháng 7 năm 1964. Chính vai diễn Yegor Trubnikov giúp cho Ulyanov nổi tiếng toàn Liên bang, ông được trao Giải thưởng Lenin, giá trị về sau lên đến bảy nghìn rúp. Khi được hỏi tại sao bộ phim thành công trên cả đất nước như vậy, Mikhail trả lời "Dường như những bộ phim như Trận chiến trên đường hay Chủ tịch tạo ra là dành cho tôi được tham gia vậy, chúng thành công vì đã trả lời những câu hỏi quan trọng trong sự phát triển xã hội chúng ta."

Trong bình chọn thường niên, độc giả tạp chí Điện ảnh Liên Xô đã vinh danh Mikhail Ulyanov là nam diễn viên chính xuất sắc nhất của năm.

Anh em nhà Karamazov, Giai điệu Warszawa

Sau buổi chiếu ra mắt Chủ tịch, Ulyanov cảm thấy hụt hẫng: "Bắt đầu vai mới là điều đặc biệt khó khăn sau khi dồn hết tâm sức, cháy hết nhiệt huyết căng thẳng trong cả một năm".

Tháng 2 năm 1965, Ulyanov nhận được tin mẹ qua đời. Sau khi về chịu tang, nam diễn viên trở lại Moskva và bắt đầu tham gia một số phim. Lần thứ hai, ông vào vai Lenin trong Phác thảo chân dung Lenin (Штрихи к портрету В. И. Ленина) nhưng phim bị xếp lại cho đến năm 1987 mới được công chiếu. Còn trên sân khấu, nam diễn viên vào vai Brighella trong Quận chúa Turandot (Принцесса Турандот) và nam chính Victor trong Giai điệu Warszawa (Варшавская мелодия).

Giai điệu Warszawa là minh chứng sáng tạo sân khấu cuối cùng của Ruben Simonov. Ông không tiếc công tập luyện, "say sưa với cốt truyện, lời thoại, đắm chìm trong tác phẩm kịch tao nhã, thông minh và sâu sắc này". Ulyanov khản cổ tranh cãi với Simonov để cố gắng đa dạng hóa và phức tạp hóa vai diễn của mình làm bật lên sự tiêu cực, nhưng Ruben "thấy anh ở giữa tốt và xuất sắc". Sau khi công diễn, Ulyanov tiếp tục nhận vai Victor trong thời gian dài và coi đó là hình ảnh đẹp nhất của mình trên sân khấu.

Sau đó, trong giờ giải lao trong cuộc họp của Ủy ban Giải thưởng Lenin mà Mikhail đang là thành viên, đạo diễn gạo cội lvan Pyryev đến gặp và đề nghị thẳng ông thử một vài vai trong phim Anh em nhà Karamazov (Братья Карамазовы). Pyryev cho biết nhắm Ulyanov cho vai Dmitry. Một thời gian sau, Ulyanov được Mosfilm gọi tới thử vai. Pyryev bắt đầu tập hợp diễn viên và diễn thử một số cảnh. Khi ấy, chỉ có Kirill Lavrov và Mark Prudkin được chấp thuận, còn Pyryev vẫn cho Ulyanov là "tảng băng mùa xuân" khó đoán trước được thành công hay thất bại. Lo ngại này liên quan đến thành công gần đây của Chủ tịch, đạo diễn không chắc về "nền tảng" của Ulyanov. Tuy nhiên, sau các buổi tập ngắn, Ulyanov được chấp thuận vào vai Dmitry Karamazov.

Cho đến khi quay xong, Ulyanov không rời cuốn tiểu thuyết của Dostoevsky lấy một giây, khiến đạo diễn rất khó chịu, khuyên Ulyanov đừng mọt sách như vậy. Sau khi phim được phát hành, Alexander Svobodin viết "Khi vào kịch tính, nhân vật của Ulyanov ngày càng trở nên thu hút hơn. Nhi tính chuyển thành sự ngây thơ cao độ - luôn khát khao trông cậy. Nếu một người mở lòng với bạn và đó là tấm lòng thuần khiết, thì làm sao có thể không tin được! Thật quá kỳ lạ, thật quá tuyệt vời, thật vượt qua nhân tính đến mức ngừng cảm nhận mọi thứ xung quanh. Đó là những gì Ulyanov đã diễn..."

Quay phim kéo dài hơn một năm, Pyryev đột ngột qua đời vì một cơn đau tim vào ngày 7 tháng 2. Việc hoàn thiện phim được giao phó cho Mikhail Ulyanov và Kirill Lavrov. Như Mikhail sau này nhớ lại, Leo Arnstam được bổ nhiệm làm giám đốc sản xuất chính thức đã giúp đỡ rất nhiều cho các diễn viên chưa có kinh nghiệm đạo diễn. Ulyanov và Lavrov đã phát triển và quay phim theo cách Pyryev mong muốn hướng tới. Ba tập cuối được quay mà không có đạo diễn Pyryev.

Phim không chỉ đáp ứng được tất cả mong đợi của Ulyanov và Lavrov mà thậm chí còn được đề cử giải Oscar cho hạng mục "Phim nói tiếng nước ngoài hay nhất", một điều rất hiếm có cho điện ảnh Liên Xô.

Giải phóng

Hoàn thành Anh em nhà Karamazov, Ulyanov nhận được lời mời từ đạo diễn Yuri Ozerov vào vai Nguyên soái Zhukov trong bộ phim sử thi quân sự hoành tráng Giải phóng. Lúc đầu, nam diễn viên thẳng thừng từ chối vì "Zhukov được nhân dân quá yêu và biết đến", nhưng Ozerov nói đích thân nguyên soái chấp thuận cho Ulyanov vào vai này, ông liền thay đổi quyết định. Theo lời con gái Zhukov là Margarita, nguyên soái sau khi xem xong Chủ tịch đã nói "người nghệ sĩ đã vào vai chủ tịch, người khai thác được các khía cạnh bản chất nông dân, sẽ có thể làm chủ được vai Zhukov".

Thập niên 1970

Cuộc trốn chạy, Egor Bulychov và những người khác

Đầu năm 1970, Ulyanov được thử vai Viktor Kharlamov trong phim Nhà ga Belarus (Белорусский вокзал) của Andrey Smirnov nhưng cuối cùng vai này được dành cho Alexey Glazyrin.

Một trong những vai diễn điện ảnh nổi tiếng nhất của Ulyanov là tướng Charnota trong phim Cuộc trốn chạy (Бег) của Alexander Alov và Vladimir Naumov (1970), chuyển thể kịch của Mikhail Bulgakov. Ulyanov cho biết "hình ảnh vị tướng Bạch vệ đầy sắc màu, lang thang khắp Paris chỉ độc chiếc quần lót rồi giành lại được vận may, đòi hỏi một cách tiếp cận hoàn toàn mới và diễn xuất mới cho phù hợp." Nam diễn viên tin rằng mình đã không thể thành công nếu không có những đạo diễn "tài ba, tinh tế" và các cộng sự như Evgeny Evstigneev và Aleksey Batalov.

Alov và Naumov quay phim chủ yếu ở thành phố Plovdiv của Bulgaria. Những cảnh cuối cùng diễn ra ở Sevastopol và Paris, nơi Ulyanov và Batalov nghỉ tại khách sạn Bonaparte. Vladimir Naumov nhớ lại:

Bách khoa toàn thư Ai là ai trên thế giới (Кто есть кто в мире) xếp phim này vào hàng những vai diễn hay nhất trong sự nghiệp Ulyanov, phần lớn dưới chỉ đạo của Alov và Naumov. Nhưng theo hồi ký của Naumov, băng phim sau đó không được phát hành một cách khó hiểu.

Chẳng bao lâu sau, học viên trẻ mới tốt nghiệp VGIK Sergey Solovyov tham gia chuyển thể kịch Egor Bulychov và những người khác (Егор Булычов и другие). Ấn tượng với Chủ tịch, nhà biên kịch thấy có mỗi Ulyanov là phù hợp vào vai Egor Bulychov, hai người họp mặt ở Mosfilm. Biết được cách diễn của Ulyanov, Solovyov e rằng ông khó được chấp nhận, nhưng khá hứng thú sau khi xem diễn thử. Vai diễn nhiều tập do Innokenty Smoktunovsky đảm nhận, nhưng Ulyanov lấy lý do không nghe đến tên tuổi diễn viên này, đã đưa ra tối hậu thư cho Solovyov phải chọn duy nhất giữa ông hoặc Smoktunovsky. Trong khi quay phim này, Ulyanov vẫn diễn trên sân khấu kịch với vai Antony trong vở Antony và Cleopatra.

Egor Bulychov và những người khác không đạt được nhiều thành công, Ulyanov lý giải rằng "phim ra những rạp có lượng khán giả ít nhất và chiếu vào khung giờ ít người xem nhất. Ulyanov còn cho biết vai Bulychov mà mình đã nỗ lực rất nhiều lại không được chú ý một cách đích đáng. Đã bỏ ra nhiều tâm huyết và hứng chịu mệt mỏi tột độ, đổi lại Ulyanov chỉ nhận về "hoang mang và phẫn uất. Cho ai đây?"

Antony và Cleopatra, đạo diễn lần đầu

Năm 1971, Evgeny Simonov dàn dựng tác phẩm để đời của mình tại Nhà hát Vakhtangov Antony và Cleopatra dựa trên bi kịch "thế tục" nhất của William Shakespeare. Ông dành vai nam chính cho người bạn cũ Mikhail Ulyanov; cònCleopatra cũng do bạn diễn lâu năm của Ulyanov là Yulia Borisova đảm nhận.

Simonov quyết định khung cảnh sẽ là đấu trường La Mã "đẫm máu và tàn nhẫn". Iosif Sumbatashvili đã thiết kế bục diễn và phông nền bằng kim loại màu xám, tạo ra cảm giác như một cái bẫy chết chóc giam chặt các đấu sĩ vào cuộc chiến sinh tử không lối thoát. Ulyanov đánh giá Vasily Lanovoy vào một trong những vai hay nhất Octavian "đầy tự tin, cao ngạo khinh thường chung quanh". Sau khi ra mắt, báo chí có những đánh giá trái ngược hoàn toàn về diễn xuất của Ulyanov, và bản thân ông cũng nhớ bài phê bình của nữ diễn viên Lyubov Orlova trên tờ Ogonyok (Огонёк) "Toàn bộ màn trình diễn thấm đẫm đam mê và giận dữ của Antony - Ulyanov, người trông giống một tên lính hơn là một hoàng đế hay chính khách, thực sự là rất hay. Bằng lồng ngực và tấm lòng rộng mở, thật dễ hiểu và thật hiện đại."

Khi ấy mệt mỏi với "những biểu hiện xấu bụng, tức giận vô cớ, thô lỗ khó chịu và nhẫn tâm chân thành", Ulyanov quyết định thử sức đạo diễn làm phim dài tập dựa trên tác phẩm Ngày cuối mới xuất bản của Boris Vasiliev. Ulyanov tự viết kịch bản và đóng vai chính Semyon Kovalev, một cảnh sát bị tội phạm hạ sát trong ngày làm việc cuối cùng.

Không như mong đợi, khán giả không đón nhận tác phẩm này và tới tấp viết thư: "Tại sao anh lại đến với chất liệu "hoang đường" này? Cái gì đã khiến anh tạo ra hình ảnh mềm lòng về một cảnh sát tốt bụng? Anh luôn vào những vai mạnh mẽ, rồi sao đột nhiên chuyển qua vai mềm yếu đến mức thiệt mạng vì lòng tốt?" Chán nản vì thất bại, Ulyanov sau đó tự hứa với bản thân sẽ không đứng sau máy quay nữa.

Cuối thập niên 1970, Chủ đề

Cuối thập niên 1970, nam diễn viên gặt hái thành công trên sân khấu. Chỉ trong năm 1977, truyền hình đã phát sóng ba phim của Mikhail Ulyanov là Hạnh phúc cá nhân (Личное счастье), Quan hệ sai lầm (Обратная связь) và Gọi em từ xa (Позови меня в даль светлую). Ulyanov cũng hoàn thành một ước mơ trước đây là được đóng vai chính trong phim dựa trên tác phẩm của Vasily Shukshin. Trên sân khấu, ông được thêm vai Gaidai trong Hủy diệt biệt đội (Гибель эскадры) và Lenin khác trong Người cầm súng của Nikolai Pogodin. Những vai này theo ông đi lưu diễn khắp ngoài vùng Đất Đen Chernozem. Ulyanov không chấp nhận cách Boris Schukin thể hiện Lenin dường như mẫu mực trước đó, mà cho rằng như vậy làm hỏng hình ảnh lãnh tụ hóa thành "nông dân hạnh phúc". Ông đã mạnh dạn thay đổi một hình ảnh công chúng Liên Xô vốn quen thuộc bằng cách thể hiện hoàn toàn khác.

Tháng 11 năm 1977, Ulyanov tổ chức sinh nhật lần thứ 50 tại Rostov. Đầu năm 1978, đạo diễn Gleb Panfilov của phim Chủ đề (Тема) ưu tiên dành vai chính cho Ulyanov hơn là Innokenty Smoktunovsky hay Alexei Batalov. Khi ấy, Panfilov cân nhắc: chọn Smoktunovsky thì quá hời hợt còn Batalov lại thiếu "nam tính" chất Siberia mà Ulyanov vốn có. Ulyanov nhớ lại:

Phim được quay ở Suzdal theo đúng nơi diễn ra cốt truyện. Đúng như nhà thơ Yevgeny Yevtushenko dự đoán ngay khi làm phim, cuốn băng bị xếp lại và cấm chiếu. Nhà phê bình Valery Golovsky cho rằng nếu để Smoktunovsky vào vai chính thì sẽ không bị xét nét kiểm duyệt, nhưng đây lại là Ulyanov đã quá nổi tiếng với các vai Lenin, Karamazov và Zhukov rồi.

Khán giả không hề hay biết về Chủ đề cho đến khi Liên hoan phim quốc tế Berlin lần thứ 37 khai mạc năm 1987. Ban giám khảo, đứng đầu là diễn viên người Đức Klaus Maria Brandauer, đã trao giải chính Gấu Vàng cho Ulyanov. Ông trở thành người thứ hai và cuối cùng trong lịch sử điện ảnh Liên Xô giành chiến thắng tại Liên hoan phim Berlin.

Thập niên 1980

Cuộc đào thoát cuối cùngĐời tư

Khi đọc kịch bản phim mới Cuộc đào thoát cuối cùng (Последний побег) của Leonid Menaker, Ulyanov thấy được sự bày tỏ "chân thành" của Alexander Galin và có thiện cảm với nhân vật chính nên đồng ý tham gia. Ông nhanh chóng tìm được tiếng nói chung với đạo diễn và bắt đầu tái hiện "tính cách ngông cuồng" của người cựu chiến binh Alexei Kustov. Phim quay ở Leningrad, Simferopol và Slantsy là nơi thực sự ra diễn ra câu chuyện, nguyên mẫu Kustov thực sự ngoài đời cũng gặp gỡ riêng với Ulyanov. Phim không đạt được nhiều thành công nhưng Ulyanov hài lòng với vai này. Alexei Kustov qua đời vài năm sau đó và tác phẩm này trở thành sự tưởng nhớ về "con người khiêm tốn sống một cuộc đời kín đáo nhưng cao quý".

Năm 1979, Ulyanov cùng đạo diễn Garry Chernyakhovsky dàn dựng vở Stepan Razin dựa trên tiểu thuyết Ta đến giải phóng các người (Я пришёл дать вам волю) của Vasily Shukshin. Ông cố gắng vào vai nhân vật chính theo cách Shukshin mong muốn "số phận ông ta sẽ phản ánh số phận toàn bộ nhân dân Nga, những người đau khổ cùng cực và đứng lên nổi dậy". Hình tượng Razin như vậy gây ra tranh cãi, một số chỉ trích nhưng số khác lại ủng hộ mạnh mẽ. Đáp lại những chỉ trích, Ulyanov đáp lại đầy triết lý: "Mọi nỗ lực nhìn thẳng vào các màn trình diễn hiện tại bằng đôi mắt riêng luôn kéo theo đấu tranh, hiểu lầm, khước từ... Nhưng ngày nay không còn cách nhìn khác... Sân khấu không còn cách nào khác hơn là phải vạch ra con đường riêng, chưa được biết đến, chưa được khai phá."

Tháng 7 năm 1980, Ulyanov sốc trước sự qua đời quá sớm một cách đột ngột của "đồng nghiệp" nhà thơ đối lập Vladimir Vysotsky và phát biểu tại lễ tưởng niệm: "Sự nghiệp nghệ thuật của chúng ta gặp phải nan đề quá lớn. Một trong những nhân vật nguyên mẫu nhất, không thể bắt chước, không giống bất kỳ bậc thầy nào khác đã nằm xuống. Họ nói rằng không ai có thể thay thế. Không, có chứ! Người khác sẽ đến, nhưng tình bạn diễn đã mất đi một tiếng nói, một trái tim...".

Năm 1982, Ulyanov đã được chấp thuận vào vai thanh tra trong hài kịch trinh thám Truy tìm phụ nữ (Ищите женщину) của Alla Surikova. Bạn diễn Semyon Farada cùng vào vai nữ cảnh sát. Nhưng nam diễn viên bị ốm nặng, đành phải từ bỏ không tham gia. Ulyanov đã nhập vai một người cô đơn, tận tâm, đánh mất ý nghĩa cuộc sống sau khi bị sa thải. Mỗi ngày, ông đều phải hóa trang để trông già đi. Các nhà phê bình đồng tình với Ulyanov, họ coi đây là một vai diễn hay nhất mà một diễn viên có thể làm được. Cộng tác với Mikhalkov đem lại những học hỏi tuyệt vời cho Ulyanov.

Ulyanov chưa bao giờ nhận được nhiều bức thư phẫn nộ như vậy sau khi ra mắt phim. Một khán giả viết "Tại sao Ulyanov lại diễn như vậy? Hắn đánh mất lương tâm, bắt đầu ăn chơi trác táng như vậy sao?" còn những người khác không ngần ngại gọi nam diễn viên là kẻ vô lại và khốn nạn.

Quay lại đầu thập niên 1970, Ulyanov đọc kịch bản Napoléon đệ nhất (Наполеон Первый) của Ferdinand Bruckner và ngay lập tức muốn được đóng vai nhà độc tài vĩ đại. Nhưng giám đốc nhà hát Yevgeny Simonov nhận thấy vở diễn "quá nhỏ bé, hời hợt, yếu ớt". Ulyanov đành cam chịu không thể diễn Napoléon. Nhưng năm 1983, Anatoly Efros bắt đầu dàn dựng vở kịch này tại Nhà hát Malaya Bronnaya và mời Ulyanov đóng vai chính (với tư cách khách mời). Trước đó, Ulyanov từng hợp tác với Efros trong Đảo giữa dòng (Острова в океане) dựa trên Islands in the Stream của Ernest Hemingway.

Vốn quen với sân khấu lớn của Nhà hát Vakhtangov, Ulyanov không dễ dàng thích nghi với khán phòng nhỏ ở Bronnaya. Mikhail đọc hàng tá tài liệu về Napoléon, lục cả Thư viện Lịch sử Quốc gia, nhưng không tìm thấy điều mình cần "... ông ta như thế nào khi bị bỏ lại một mình? Nhân phẩm của ông ta là gì? Điểm yếu ở đâu? Có nỗi đau nào?". Bị giằng co giữa hai nhà hát, Ulyanov đến gặp Thứ trưởng Bộ Văn hóa Yevgeny Zaitsev để yêu cầu tăng lương, đồng thời nhấn mạnh rạp hát đã kín chỗ đến không còn vé bán. Zaitsev trả lời rằng diễn viên mà không đi lưu diễn tới Saratov thì chỉ nhận được số tiền nhất định.

Viktor Rozov viết về buổi diễn ra mắt: "... Ulyanov làm chủ phong thái bề ngoài nhân vật của mình cực kỳ uyển chuyển. Ulyanov bắt được tất cả các tư thế Napoléon trong tranh vẽ và tạo hình lại riêng cho mình. Diễn viên không miêu tả nhân vật, mà đã hóa thân vào chính mình. Anh đã khoác lên người Napoléon thật sự". Trong số những người dự khán đầu tiên có Tổng Bí thư tương lai Mikhail Gorbachyov.

Vở kịch chỉ được diễn khoảng hai mươi lần, vì chẳng bao lâu sau Efros chuyển đến Nhà hát Taganka và người vào vai Joséphine là Olga Yakovleva không chịu diễn mà không có Efros. Efros muốn Ulyanov diễn tiếp ở Taganka nhưng ông từ chối. Mười năm sau, nhờ cố gắng của Yakovleva, vở kịch được tái diễn tại Nhà hát Mayakovsky, lần này Mikhail Filippov đóng vai Napoléon.

Lại Zhukov và Người giao sữa Tevye

Tháng 7 năm 1984, Ulyanov đón cháu ngoại Elizaveta ra đời, được đặt theo tên của cụ bà tức mẹ ông. Con gái Elena kể lại khi cho cha xem đứa bé, ông bật khóc và lần đầu tiên thấy hạnh phúc tột độ. Ngay sau đó, Ulyanov rời nhà hát trong chuyến lưu diễn Viễn Đông. Trong hai năm tiếp theo, Ulyanov một lần nữa đóng vai Nguyên soái Zhukov trong các phim Chiến thắng (Победа), Cuộc chiến ở MoskvaPhản đòn (Контрудар). Trong nhà hát, Ulyanov từ lâu đã độc quyền đóng những vai chính. Vai diễn mới năm 1984 là Edigey trong vở kịch Và một ngày dài hơn thế kỷ (И дольше века длится день) dựa trên tiểu thuyết cùng tên của Chyngyz Aitmatov.

Tháng 4 năm 1985, Ulyanov có bài phát biểu lớn tại Hội nghị toàn thể Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô đánh dấu khởi đầu những thay đổi toàn diện trên toàn quốc. Cùng năm, ông dàn dựng vở The Child Buyer (Скупщик детей) của John Hersy. Ông mời cô giáo cũ Vera Lvova tham gia và đó thành ra là vai diễn cuối cùng trong đời bà. Vở diễn thất bại, Ulyanov thề sẽ không bao giờ làm đạo diễn nữa.

Cùng lúc đó, người bạn lâu năm của Ulyanov là Sergey Evlakhishvili quyết định làm kịch truyền hình Người giao sữa Tevye (Тевье-молочник). Ulyanov rất bất ngờ khi được mời vào vai chính vốn từng tỏa sáng với diễn xuất của Solomon Mikhoels. Chính Tevye đã trở thành vai diễn quan trọng nhất của Ulyanov trên sóng truyền hình, cũng như mang lại cho ông niềm vui lớn khi tham gia. Vai nữ chính do Galina Volchek thể hiện, người mà nam diễn viên gọi là "một trong những phụ nữ thông minh nhất" mình từng gặp. Vở kịch khi phát sóng được cả khán giả lẫn giới phê bình đánh giá cao. Veniamin Kaverin viết về Ulyanov:

Diễn xuất Ulyanov nhập vai một người Do Thái được ghi nhận, Aron Vergelis tỏ lòng ngưỡng mộ ông đặc biệt. Elizaveta Metelskaya nói rằng Ulyanov là diễn viên đầu tiên sau Mikhoels giống với nguyên mẫu Tevye ngoài thật nhất mà mình đã thấy ở Ukraina. Sau khi Người giao sữa Tevye được phát sóng, Ulyanov nhận được rất nhiều thư chỉ hỏi một câu duy nhất: "Nói thật đi, ông có phải là người Do Thái không?".

Giám đốc nghệ thuật Nhà hát Vakhtangov, Hòa ước Brest

Một năm sau, Ulyanov hoàn thành cuốn sách thứ hai Tôi làm diễn viên (Работаю актёром) do nhà xuất bản Nghệ thuật ấn hành.

Tháng 9 năm 1987, Evgeny Simonov tự nguyện từ chức giám đốc nghệ thuật Nhà hát Vakhtangov và Ulyanov được bổ nhiệm thế chỗ. Nhiệm vụ chính là cứu lấy nhà hát không bị chia ra thành các nhóm nhỏ. Tiếp nhận lại từ Simonov, ông lập tức đưa ra chương trình hành động bốn điểm:

  • thu hút các đạo diễn và nhà viết kịch lớn đến với nhà hát
  • chỉ diễn những vở đặc sắc
  • không tự đạo diễn, vì cho rằng mình không có năng khiếu đạo diễn;
  • không cắt giảm.

Ulyanov say sưa diễn Lenin không ngừng nghỉ mà không cần hóa trang, bản nhạc bi tráng của Giya Kancheli phù hợp với không khí cách mạng.

Thập niên 1990

Ngày u ám tháng Ba

Sự nghiệp Ulyanov hoạt động kém hiệu quả nhất trong thập niên 1990. Năm 1990, ông trở thành ủy viên Ủy ban Kiểm toán Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô (1976-1990), ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô (1990-1991). Trên màn ảnh, ông đóng vai Nguyên soái Zhukov trong bộ phim dài sáu tập Cuộc chiến ở phía Tây (Война на западном направлении). Trên sân khấu, ông vào vai Stalin trong Bài học của thầy (Уроки мастера) của đạo diễn khách mời Roman Viktyuk. Ulyanov đã khắc họa một Stalin "thô lỗ, tàn nhẫn, tâm sinh lý bất ổn và thần kinh khủng hoảng".

Nghệ nhân và Margarita, Tội lỗi không mắc tội

Năm 1994, Ulyanov cùng đoàn lưu diễn Thụy Sĩ. Sau đó, ông diễn ở Jerusalem và xung quanh Haifa với vai Pontius Pilate trong phim chuyển thể Nghệ nhân và Margarita (Мастер и Маргарита) từ tiểu thuyết của Mikhail Bulgakov. Vì nhiều lý do khác nhau, phim chỉ được phát hành sau khi nam diễn viên qua đời, nhưng cả giới phê bình và khán giả đều đánh giá cao vai diễn của ông.

Cùng lúc đó, giám đốc nhà hát Vladimir Mirzoev đề nghị Ulyanov đưa vở kịch Về nhà (Homecoming) của Harold Pinter lên sàn diễn đồn thời đóng vai chính Max đồ tể. Ulyanov ấn tượng với tiêu đề tác phẩm nhưng khi nghiên cứu kỹ, ông quyết định từ bỏ vì "từ ngữ tàn bạo, cốt truyện và ý nghĩa phi lý đáng lo ngại".

Một năm sau, ông lại vào vai Zhukov trong phim tài liệu hư cấu Tổng tư lệnh Georgy Zhukov (Великий полководец Георгий Жуков) của Yuri Ozerov, được biên tập lại hoàn toàn từ các bộ phim trước đó. Phim hài Mọi thứ sẽ ổn thôi! (Всё будет хорошо!) của Dmitry Astrakhan được quay gần Sankt-Peterburg, trong đó Ulyanov vào vai người ông cô đơn, đây cũng là vai hài hiếm hoi trong sự nghiệp Ulyanov.

Trên sân khấu, Ulyanov tiếp tục vào vai Shmagi trong vở kịch Tội lỗi không mắc tội mà ông từng diễn cùng Lina Samborskaya vào thập niên 1940. Lúc đầu, Ulyanov chỉ thỉnh thoảng thay thế Yuri Volyntsev ốm bệnh. Nhưng Volyntsev qua đời năm 1999 nên Ulyanov sau đó trở thành người đóng chính vai diễn này. Vai Shmagi cũng là vai diễn sân khấu cuối cùng trong đời Ulyanov.

Năm 1996, Tổng thống Boris Yeltsin tặng Mikhail Ulyanov Huân chương "Vì Tổ quốc ghi công" hạng III. Cùng năm, nhà xuất bản Tsentrpoligraf phát hành cuốn sách thứ ba của Ulyanov Trở lại chính mình (Возвращаясь к самому себе). Nhà phê bình Dmitry Bykov nhận xét Ulyanov chắc chắn là người xuất sắc nhất trong bộ ba diễn viên chính: "Mikhail Ulyanov một lần nữa chứng tỏ là một diễn viên tuyệt vời. Nếu biết Ulyanov không phiền, tác giả sẽ gọi ông là Anthony Hopkins của nước Nga". Chính Ulyanov nhớ lại:

Vì áp lực tài chính và hoàn cảnh cuộc sống, Ulyanov buộc phải vào vai ông cụ báo thù Ivan Afonin trong phim Xạ thủ Voroshilov (Ворошиловский стрелок) của Stanislav Govorukhin. Ulyanov thừa nhận rất vui khi được thực hiện vai diễn này:

Alexander Porokhovshchikov, người đóng một trong những vai quan trọng trong phim, nhớ mãi khoảnh khắc khi từ cửa sổ khách sạn, ông nghe thấy tiếng Ulyanov khóc trên băng ghế cạnh tòa nhà. Porohovshchikov nghĩ rằng Ulyanov bị cơn đau tim. Ulyanov chia sẻ chân thành về cảm nghĩ thời gian còn lại đời mình thực sự nhỏ bé "Diễn thế nào đây? Sống thế nào đây?".

Tác phẩm này mang về cho Mikhail Ulyanov giải Bạch Dương Vàng (Золотой овен) và Nika (Ника) cũng như giải Nam chính xuất sắc nhất của Liên hoan phim Kinotavr (Кинотавр). Ulyanov nói Sáng tác cho Ngày Chiến thắngXạ thủ Voroshilov được tạo nên với tâm tình dành cho con người bình thường với lòng cảm thông sâu sắc.

Ngày 29 tháng 4 năm 2004, Ulyanov xuất hiện lần cuối trên sân khấu nhà hát quê hương với vai Shmagi trong vở kịch Tội lỗi không mắc tội. Hai năm trước khi qua đời, ông vào vai Nguyên soái Zhukov lần cuối trên phim truyền hình Ngôi sao thời đại (Звезда эпохи) của Yuri Kara. Ban đầu, Vladimir Menshov muốn đóng vai Zhukov nhưng Kara cảm thấy "tất cả khán giả đã quen với Ulyanov trong hình tượng này". Bản thân nam diễn viên cũng muốn một lần nữa đóng vai Zhukov sau khi cảm thấy các cựu chiến binh bị xúc phạm với việc trình chiếu Antikiller.

Tác phẩm điện ảnh cuối cùng của Ulyanov là vai giám đốc nhà máy trực thăng Ivan Senchukov trong phim Săn hươu (Охота на изюбря). Nhưng các cảnh có Ulyanov chỉ được quay trong ba ngày, nhân vật bị giết ngay trong tập đầu tiên. Cuối năm 2005, Ulyanov thường phàn nàn tình trạng sức khỏe của mình và sụt cân thấy rõ.

Tại Omsk, Mikhail Ulyanov được long trọng trao tặng danh hiệu Công dân danh dự. Ông rớm nước mắt xúc động trên sân khấu Nhà hát Omsk: "Hỡi các bạn đồng hương đã làm gì cho tôi thế này?".

Mùa hè năm 2006, Ulyanov khi đang nghỉ ngơi ở Kineshma thì bị đau cấp tính. Đích thân Sergey Shoygu đã điều động trực thăng của Bộ Tình trạng khẩn cấp đưa Ulyanov đi phẫu thuật ngay. Tháng 10, nhận thấy sức khỏe ngày một xấu đi, Ulyanov xin nghỉ việc ở văn phòng giám đốc nghệ thuật Nhà hát Omsk, nhưng được giữ ở lại cho đến hết mùa diễn vì không tìm được người thay thế. Cho đến tuần cuối cuộc đời, Ulyanov dành tất cả thời gian rảnh trong căn hộ tại phố Bolshaya Bronnaya.

Ngày 22 tháng 3, Ulyanov một lần nữa phải nhập viện vì cơn đau cấp của bệnh ruột mãn tính. Kiểm tra cho thấy một loạt các vấn đề: bệnh Parkinson, ung thư giai đoạn cuối ảnh hưởng ruột và thận. Ulyanov khước từ phẫu thuật khẩn cấp. Sau đó, bác sĩ kê thuốc đặc biệt kèm cảnh báo có thể không giúp ích được gì.

Khoảng 19 giờ ngày 26 tháng 3 năm 2007, vào đêm trước Ngày Sân khấu Thế giới, Mikhail Ulyanov qua đời tại bệnh viện tại Moskva ở tuổi 80. Tổng thống Nga và Belarus gửi điện chia buồn tới gia đình. Tướng Vladimir Shuralyov, đại diện cho các cựu chiến binh Moskva trong Chiến tranh vệ quốc, quyết định tổ chức tang lễ cho Mikhail Ulyanov theo nghi thức quân đội. Học trò và đồng nghiệp đến từ biệt gồm Vladimir Etush, Yuri Yakovlev, Irina Kupchenko, Lev Durov và nhiều người khác. Bạn thân nhất của Ulyanov là Kirill Lavrov dù đang ốm nặng tại Petersburg cũng đến; Mikhail Shvydkoy phải đỡ ông lên viếng.

Ulyanov yên nghỉ tại Nghĩa trang Novodevichy. Di cảo Thực và mơ (Реальность и мечта) được xuất bản sau đó. Lời nói cuối của Ulyanov trước khi ra đi "Tôi không hề thất vọng về cuộc đời cũng như về con người." Cá nhân Ulyanov luôn đặt những tình cảm đó sang một bên mà nói rằng chưa yêu ai như Alla. Còn Alla khi biết về mối tình đầu của Ulyanov, trong một lần bị bệnh thường, đã nói nếu mình chết hãy để Ulyanov đến với Nina. Elena kể lại, vào mỗi dịp sinh nhật Alla, Ulyanov đều làm thơ tặng vợ thân yêu, do không phải là thi sĩ nên có khi mất cả đêm thao thức mới làm xong. Elena cũng là chủ tịch quỹ từ thiện mang tên cha mình, dành giúp đỡ các diễn viên điện ảnh và sân khấu Liên Xô cao tuổi. Năm 2007, ba tuần trước khi ông ngoại qua đời, Elizabeth sinh đôi Igor và Anastasia. Theo con rể ông là Sergei Markov, ông chỉ có hai bạn thực sự: Yuri Katin-Yartsev và Sergei Evlakhishvili.

Ulyanov rất yêu thương con gái và cháu gái mình. Ông không bao giờ đánh đập hay la mắng con, từng đội mưa mang ủng cao su đến trường mẫu giáo để con không bị ướt chân. 20 năm sau, ông may váy búp bê cho cháu gái.

Bạn bè, đồng nghiệp và người thân của Mikhail Ulyanov nói rằng trái ngược với hình tượng Nguyên soái Zhukov nghiêm khắc và cứng rắn thường thấy trên màn ảnh, Ulyanov ngoài đời thực là một người hiền lành khiêm tốn và đáng tin cậy. Vợ của Ulyanov hay gọi ông là "người đàn ông bốn N (н): net (нет - không), nelzya (нельзя - không khả thi), neudobno (неудобно - khó chịu), neprilichno (неприлично - khiếm nhã).

Vài năm trước khi qua đời, Ulyanov dành toàn bộ số tiền tiết kiệm của mình để khôi phục lại Nhà thờ Chúa cứu thế ở quê hương Tara.

Ulyanov rất thích hội họa, có lần đã mua một số bức tranh gốc của Stanislav Zhukovsky. Các diễn viên nước ngoài yêu thích nhất của Ulyanov là Jack Nicholson và Marlon Brando. Người ta cũng thường so sánh Ulyanov với Brando do cách thức diễn xuất giống nhau cũng như tầm cỡ tài năng của hai người. Ulyanov thường phàn nàn rằng Liên Xô cũng có nhiều diễn viên tầm cỡ như Nicholson và Brando, nhưng thu nhập lại không thể nào sánh được bằng. Elena Aroseva từng nhận xét Ulyanov cũng có chất nam tính tạo nên sức hút khó lý giải giống như Brando.

Diễn viên và lãnh đạo

Các nhà phê bình và đồng nghiệp cho rằng Ulyanov có thể diễn bất cứ vai nào. Trong hơn 50 năm sự nghiệp, Ulyanov đã vào vai các tướng lĩnh quân sự, lãnh đạo, viện sĩ cho đến những kẻ lưu manh lừa đảo, hay đơn thuần là người dân Nga bình thường. Vai diễn Egor Trubikov mang lại thành công cho Ulyanov trên màn ảnh, nhưng cũng có nguy cơ phủ bóng "anh hùng xã hội" lên suốt đời diễn viên. Một phần tư thế kỷ sau, Yuri Barboy lưu ý: "Nhiệt huyết mà Ulyanov truyền cho một nhân vật sắc sảo, đôi khi lập dị, sẽ lại nổi lên khi vào vai nhân vật khác, lại gợi nhớ đến người hùng nổi tiếng trong phim Chủ tịch. Ulyanov luôn bảo vệ quyền của mình được đóng các vai đa dạng khác nhau; theo lời chuyên gia sân khấu Vera Maksimova:

Georgy Tovstonogov coi Ulyanov là một trong những diễn viên hiện đại xuất sắc nhất, nhạy cảm hoàn hảo với mọi thể loại; ai cũng có thể nhận ra nét đặc trưng của ông. Nhưng Ulyanov luôn tạo ra một nhân vật mới, hình ảnh mới bằng cảm xúc khác biệt.

Báo chí viết ông luôn đặc biệt thành công khi đóng vai các nhân vật mạnh mẽ như Iosif Stalin, Richard III, Mark Antony, Julius Caesar, Napoléon Bonaparte, Pontius Pilate, Vladimir Lenin, tướng Charnota và tất nhiên là vai Nguyên soái Zhukov. Khi Ulyanov qua đời, Sergei Palchikovsky viết rằng các tài năng trẻ đương thời rất khác biệt, song thực sự có ai giống được như Ulyanov.

Trong cương vị Chủ tịch Công đoàn Sân khấu, Ulyanov lần đầu tiên giúp đãi ngộ cao cho cho các diễn viên sân khấu và điện ảnh cao tuổi.

Thành tựu

Tác phẩm sân khấu

;Nhà hát Vakhtangov

  • 1950 — Tham mưu nhà nước (Государственный советник) của M. V. Sagalvich và B. Fayans — vai Volodya Barkan
  • 1950 — Makar Dubrava (Макар Дубрава) của O. Ye. Korniychuk — vai Artyom
  • 1951 — Pháo đài trên sông Volga (Крепость на Волге) của I. L. Kremlyova — vai Kirov
  • 1951 — Niềm vui đầu tiên (Первые радости) dựa trên tiểu thuyết của К. А. Fedin — vai Kirill Yzvekov
  • 1951 — Vị vua vĩ đại (Великий государь) của V. A. Solovyov — vai Boris Godunov
  • 1951 — Egor Bulychov và những người khác (Егор Булычов и другие) của Maksim Gorky — vai Laptev
  • 1952 — Vào những ngày chúng ta (В наши дни) của А. V. Sofronov — vai Chоrоkhоv
  • 1952 — Bạch mao nữ (Седая девушка - 白毛女) của Hạ Kính Chi và Đinh Nghị — vai quận trưởng
  • 1952 — Hai quý ông thành Verona (Два веронца - The Two Gentlemen of Verona) của William Shakespeare; A. Orochko sản xuất — vai Eglamour
  • 1953 — Tôm càng (Раки) của Mikhalkov — vai Levsha
  • 1953 — Thời đại mới (Новые времена) của Mdivani — vai Sukhov
  • 1954 — Sợ khổ — không thấy hạnh phúc (Горя бояться — счастья не видать) của Samuil Marshak; Simonov dàn dựng — vai anh lính Ivan
  • 1954 — Người cầm súng (Человек с ружьём) của Pogodin — vai đại diện thợ thuộc da
  • 1955 — Trên đáy vàng (На золотом дне) của Mamin-Sibiryak; Remyzova sản xuất — vai Vasya
  • 1955 — Oleko Dundich (Олеко Дундич) của Rzhevsky và Katsa — vai Kliment Voroshilov
  • 1956 — Filumena Marturano (Филумена Мартурано) của Eduardo De Filippo; Simonov sản xuất — vai Michele
  • 1956 — Tầng sáu (Шестой этаж) của Alfred Gehri; nhà sản xuất Gritsenko — vai người lao động Jojo
  • 1956 — Nhiệm vụ đặc biệt (Необыкновенное дежурство) của Jerzy Lutowski — vai Wenceslas
  • 1956 — Romeo và Juliet của Shakespeare — vai Escalus
  • 1957 — Hai chị em gái (Две сестры) của Knorre — vai Seryozha
  • 1957 — Thành phố lúc rạng đông (Город на заре) của Arbuzov; Simonov dàn dựng — vai Kostya Belous
  • 1958 — Chàng ngốc (Идиот) dựa trên tiểu thuyết của Dostoyevsky; Remyzova sản xuất— vai Rogozhin
  • 1958 — Angela (Ангела) của Yiórgos Sevastíkoglou — vai Stratos
  • 1959 — Lịch sử Yrkutsk (Иркутская история) của Arbuzov; Simonov dàn dựng — vai Sergei Seryogin
  • 1959 — Đầu bếp (Стряпуха) của Sofronov — vai Seraphim Chaika
  • 1961 — Đầu bếp cưới vợ (Стряпуха замужем) của Sofronov; Simonov sản xuất — vai Seraphim Chaika
  • 1962 — Hắc điểu (Чёрные птицы) của Pogodin — vai Andrei Pervozvanov
  • 1963 — Quận chúa Turandot (Принцесса Турандот) của Carlo Gozzi; Vakhtangov sản xuất, Simonov hoàn tất — vai Brigella
  • 1965 — Dion (Дион) dựa trên kịch của Leonid Zorin; Simonov dàn dựng — vai Dion
  • 1965 — Rừng bạc (Серебряный бор) của Edlis — vai Storozhev
  • 1966 — Đặc biệt nguy hiểm... (Особо опасная…) của Semyonov — vai Borisenko
  • 1966 — Kornamiya (Конармия) dựa trên tập truyện của Isaac Babel; Simonov dàn dựng — vai Guleva
  • 1967 — Virineya (Виринея) của Seifullina và Pravdukhin — vai Pavel Suslov
  • 1967 — Giai điệu Warszawa (Варшавская мелодия) của Zorin; Simonov dàn dựng — vai Victor
  • 1969 — Đăng quang (Коронация) của Zorin — vai Yakov Ivanovich
  • 1970 — Người cầm súng (Человек с ружьём) của Pogodin — vai Lenin
  • 1971 — Antony và Cleopatra (Антоний и Клеопатра — Antony and Cleopatra) của Shakespeare; Simonov dàn dựng — vai Antony
  • 1974 — Ngày lại ngày (День-деньской) của Veitsler và Misharin — vai giám đốc nhà máy Druyanov
  • 1975 — Bi kịch nhỏ (Маленькие трагедии) của Pushkin — vai Hiệp sĩ khốn khổ
  • 1975 — Mặt trận (Фронт) của Korniychuk — vai Ivan Gorlov
  • 1976 — Richard III (Ричард III) của Shakespeare; Kaplanyan sản xuất — vai Richard
  • 1977 — Người cầm súng (Человек с ружьём) của Pogodin — vai Lenin
  • 1977 — Hủy diệt biệt đội (Гибель эскадры) của Korniychuk — vai Gaidai
  • 1979 — Stepan Razin (Степан Разин) dựa trên tiểu thuyết Ta đến giải phóng các người (Я пришёл дать вам волю); Chernyakhovsky và Ulyanov dàn dựng — vai Stepan Razin
  • 1982 — Bằng bốn franc (Равняется четырём Франциям) của Misharin — vai Serebryannikov
  • 1983 — Napole đệ nhất (Наполеон Первый) của Ferdinand Bruckner — vai Napoléon
  • 1984 — Và một ngày dài hơn thế kỷ (И дольше века длится день) của Aitmatov — vai Edigei
  • 1985 — Tổng kết chiến dịch nửa trang (Полстраницы оперативной сводки) dựa trên các tác phẩm của Simonov và Zhukov — vai Zhukov
  • 1987 — Hòa ước Brest (Брестский мир) của Mikhail Shatrov; Robert Sturua dàn dựng — vai Lenin
  • 1990 — Bài học của thầy (Уроки мастера) của Paunella — vai Stalin
  • 1991 — Ngày u ám tháng Ba (Мартовские иды) của Thornton Wilder; Kats dàn dựng — vai Julius Caesar
  • 1992 — Thánh đường (Соборяне) của Leskov; Roman Viktyuk dàn dựng — vai Giáo trưởng Tuberozov
  • 1993 — Tội lỗi không mắc tội (Без вины виноватые) của Ostrovsky; Pyotr Fomenko dàn dựng — vai Shmaga
  • 2001 — Đêm cự đà (Ночь игуаны — The Night of the Iguana) của Tennessee Williams — vai Jonathan Coffin

;Nhà hát Maloi Bronnoi

  • 1983 — Napole đệ nhất (Наполеон Первый) của Ferdinand Bruckner; Efros dàn dựng — vai Napoléon
  • 1995 — Những kẻ man rợ (Варвары) của Maksim Gorky — vai người Di gan

;Nhà hát BORIS

  • 1996 — Ngày cuối của Sa hoàng cuối cùng (Последний день последнего царя) Edvard Radzinsky — vai Yurovsky

Giám đốc nhà hát

  • 1973 — Tình huống (Ситуация) của Rozov
  • 1976 — Richard III của Shakespeare (đồng đạo diễn)
  • 1979 — Ta đến giải phóng các người (Я пришёл дать вам волю) của Shukshin
  • 1985 — The Child Buyer (Скупщик детей) của John Hersy

Truyền hình

  • 1953 — Egor Bulychov và những người khác (Егор Булычов и другие) — vai Yakov Laptev
  • 1959 — Thành phố lúc rạng đông (Город на заре) — vai Kostya Belous
  • 1960 — Đất vỡ hoang (Поднятая целина)
  • 1962 — Phỏng vấn mùa xuân (Интервью у весны) — vai Seraphim Chaika
  • 1965 — Dưới bóng dẻ gai Praha (Под каштанами Праги) — vai Petrov
  • 1969 — Giai điệu Warszawa (Варшавская мелодия) — vai Victor
  • 1971 — Quận chúa Turandot (Принцесса Турандот) — vai Brigella
  • 1975 — Kornamiya (Конармия) — vai Guleva
  • 1977 — Mikhail Ulyanov đọc tác phẩm của Vasily Shukshin
  • 1977 — Người cầm súng (Человек с ружьём) — vai Lenin
  • 1978 — Ngày lại ngày (День-деньской) — vai Druyanov
  • 1978 — Đảo giữa dòng (Острова в океане - Islands in the Stream) — vai Thomas Hudson
  • 1980 — Antony và Cleopatra (Антоний и Клеопатра) — vai Antony
  • 1981 — 50 năm nhà hát múa rối Sergei Obraztsov
  • 1982 — Richard III (Ричард III) — vai Richard
  • 1982 — Nhà thờ lớn (Кафедра) — vai Victor Bryzgalov
  • 1985 — Người giao sữa Tevye (Тевье-молочник) — vai Tevye
  • 1989 — Hòa ước Brest (Брестский мир) — vai Lenin
  • 1994 — Ngày u ám tháng Ba (Мартовские иды) — vai Julius Caesar
  • 1995 — Á thần (Полубог) — vai Alexander Kostromskoi
  • 1995 — 1997 — Dự án Nga (Русский проект) — vai nhạc sĩ già dưới tàu điện ngầm
  • 2004 — Huyền thoại đại pháp quan (Легенда о Великом Инквизиторе) — vai đại pháp quan

Điện ảnh

  • 1956 — Họ là những người đầu tiên (Они были первыми) — vai Alexei Kolyvanov
  • 1957 — Ngôi nhà tôi sống (Дом, в котором я живу) — vai Dmitry Kashirin
  • 1957 — Ekaterina Voronina (Екатерина Воронина) — vai Sergei Sutyrin
  • 1958 — Những người tình nguyện (Добровольцы) — vai Nikolai Kaitanov
  • 1958 — Gõ cửa (Стучись в любую дверь) — vai Mikhail Prokhorov
  • 1958 — Những người lính đang đến... (Шли солдаты...) — vai Egor Mikhailov
  • 1960 — Chuyện đơn giản (Простая история) — vai Andrei Danylov
  • 1960 — Hãy thắp sáng lên! (Пусть светит!) phim ngắn — vai Sobakin
  • 1960 — 1961 — Bầu trời Baltic (Балтийское небо) — vai đội trưởng Rassokhin
  • 1961 — Trận chiến trên đường (Битва в пути) — vai Dmitry Bakhirev
  • 1962 — Xanh non (Молодо-зелено) — vai Lyzlov
  • 1963 — Những người sống và những người chết (Живые и мёртвые) — vai Sergei Filippovich
  • 1963 — Chuyến đi ba tiếng (Три часа дороги) phim ngắn — vai Evgeny Ivanovich
  • 1963 — Tĩnh lặng (Тишина) — vai Pyotr Bykov
  • 1964 — Chủ tịch (Председатель) — vai Yegor Trubnikov
  • 1965 — Lenin ở Thụy Sĩ (Ленин в Швейцарии) — vai Lenin
  • 1965 — Lịch năm mới (Новогодний календарь) phim âm nhạc
  • 1966 — Tia chớp đông cứng (Замёрзшие молнии) — vai Alexei Gorbatov
  • 1967 — Khi tôi còn sống (Пока я жив) — vai Frolov
  • 1967 — 1970 — Phác thảo chân dung Lenin (Штрихи к портрету В. И. Ленина) — vai Lenin
  • 1968 — Anh em nhà Karamazov (Братья Карамазовы) — vai Dmitry Karamazov
  • 1968 — 1972 — Giải phóng(Освобождение) — vai Zhukov
  • 1969 — Trên đường đến với Lenin (На пути к Ленину) — vai Lenin
  • 1970 — Cuộc trốn chạy (Бег) — vai tướng Charnota
  • 1970 — Biển lửa (Море в огне) — vai Zhukov
  • 1970 — Chuyến bay "Alpha-1" (Полёт «Альфа-1») — vai tướng Arkatov
  • 1971 — Egor Bulychov và những người khác (Егор Булычов и другие) — vai Egor Bulychov
  • 1971 — Bất chấp tất cả (Несмотря ни на чтоTrotz alledem!) — vai Lenin
  • 1971 — Lắng nghe phía bên kia (Слушайте на той стороне) — vai Zhukov
  • 1972 — Ngày cuối (Самый последний день) — vai Semyon Kovalyov
  • 1973 — 1977 — Phong tỏa (Блокада) — vai Zhukov
  • 1974 — Chọn mục tiêu (Выбор цели) — vai Zhukov
  • 1976 — Huyền thoại Till (Легенда о Тиле) — vai Klaas
  • 1976 — Những chiến binh của tự do (Солдаты свободы) — vai Zhukov
  • 1977 — Hạnh phúc cá nhân (Личное счастье) — vai Pavel Doroshin
  • 1977 — Quan hệ sai lầm (Обратная связь) — vai Ygnat Nurkov
  • 1977 — Gọi em từ xa (Позови меня в даль светлую) — vai Nikolai Veselov, anh trai Grushi
  • 1979 — Chủ đề (Тема) — vai Kim Exenin
  • 1980 — Cuộc đào thoát cuối cùng (Последний побег) — vai Alexei Kustov
  • 1981 — Sự thật ngày hôm qua (Факты минувшего дня) — vai Ivan Mikheev
  • 1981 — Gió tháng Hai (Февральский ветер) — vai Filimonov
  • 1982 — Nếu quân thù không hàng... (Если враг не сдаётся…) — vai Zhukov
  • 1982 — Quá cảnh (Транзит) — vai Vladimir Bagrov
  • 1982 — Đời tư (Частная жизнь) — vai Sergei Abrikosov
  • 1983 — Không nhân chứng (Без свидетелей) — vai nam
  • 1983 — Ngày của Tư lệnh sư đoàn (День командира дивизии) — vai Zhukov
  • 1984 — Chiến thắng (Победа) — vai Zhukov
  • 1984 — Chiến lược thắng lợi (Стратегия победы) phim tài liệu — vai nhà báo
  • 1985 — Cuộc chiến ở Moskva (Битва за Москву) — vai Zhukov
  • 1985 — Phản đòn (Контрудар) — vai Zhukov
  • 1987 — Lựa chọn (Выбор) — vai Vladmir Vasilyov
  • 1988 — Đoàn tàu bọc thép (Наш бронепоезд) — vai Ivan Savvich
  • 1989 — Pháp luật (Закон) — vai Zhukov
  • 1989 — Stalingrad (Сталинград) — vai Zhukov
  • 1990 — Cuộc chiến ở phía Tây (Война на западном направлении) — vai Zhukov
  • 1991 — Phi vụ (Дело) — vai Maksim Varravin
  • 1991 — Nhà dưới trời sao (Дом под звёздным небом) — vai viện sĩ Bashkirtsev
  • 1992 — Hợp tác xã "Bộ chính trị", hay lời vĩnh biệt dài (Кооператив «Политбюро», или Будет долгим прощание) — vai Ivan Ivanovich
  • 1992 — Tôi là dân Vyatka (Сам я — вятский уроженец) — vai Alexander Kirpikov
  • 1993 — Bi kịch thế kỷ (Трагедия века) — vai Zhukov
  • 1994 — Nghệ nhân và Margarita (Мастер и Маргарита) — vai Pontius Pilate
  • 1995 — Tổng tư lệnh Georgy Zhukov (Великий полководец Георгий Жуков) — vai Zhukov
  • 1995 — Mọi thứ sẽ ổn thôi! (Всё будет хорошо!) — vai Dedushka
  • 1998 — Lisa tội nghiệp (_Бедная
👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Mikhail Alexandrovich Ulyanov** (; 20 tháng 11 năm 1927 – 26 tháng 3 năm 2007) là diễn viên, đạo diễn, giảng viên nghệ thuật, nhân vật công chúng Liên Xô và Nga. Ông được tặng
Tập tin:2007 Events Collage.png|Từ bên trái, theo chiều kim đồng hồ: Steve Jobs giới thiệu chiếc điện thoại iPhone, điện thoại thông minh đầu tiên trên thế giới; Hành khách trên chuyến bay 3054 đang
nhỏ|phải|Sư đoàn Dù số 98 của Nga **Sư đoàn Đổ bộ đường không Cận vệ số 98** _"Svir" Huân chương Cờ Đỏ, Huân chương Kutuzov, Huân chương Alexander Nevsky_ (tiếng Nga: _98-я гвардейская воздушно-десантная Свирская