Pháo 5 inch/38 caliber Mark 12 là một kiểu hải pháo của Hải quân Hoa Kỳ. Chúng được lắp đặt trên nhiều lớp thiết giáp hạm, tàu sân bay, tàu tuần dương và tàu khu trục Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh thế giới thứ hai và đã phục vụ cho đến tận cuối thế kỷ 20.
Tổng quan
Pháo được đặt trên các bệ đơn dụng và lưỡng dụng chủ yếu được Hải quân Hoa Kỳ sử dụng. Trên các tháp pháo 5-inch đơn dụng (SP: single purpose) bệ pháo có góc nâng bị giới hạn đến 35° và không trang bị bộ cài đặt kíp nổ phòng không, và chỉ được thiết kế để đối phó mục tiêu tàu nổi. Tháp pháo lưỡng dụng (DP: Dual purpose) được thiết kế để có hiệu quả với cả mục tiêu tàu nổi và máy bay, vì chúng có góc nâng lên đến 85° và trang bị bộ cài đặt kíp nổ phòng không. Cỡ chiều dài nòng 38-caliber là kích thước trung bình, một sự thỏa hiệp giữa các kiểu pháo pháo 5-inch/51-caliber góc thấp và pháo 5-inch/25-caliber phòng không tiêu chuẩn của Hoa Kỳ trước đây.
Việc mở rộng chiều dài nòng pháo cải thiện tính năng trong cả hai vai trò phòng không và chống hạm tàu nổi so với pháo 5-inch/25.Tuy nhiên, ngoại trừ chiều dài nòng pháo và sử dụng vỏ đạn pháo bán cố định, pháo 5-inch/38 được phát triển dựa trên kiểu 5-inch/25. Cả hai đều có nạp đạn trợ lực điện, giúp tăng tốc độ bắn ở góc cao đối phó máy bay. Pháo 5 inch/38 caliber được đưa vào sử dụng trên chiếc , nhập biên chế năm 1934. Kiểu bệ pháo xoay vòng, vốn giúp cải thiện tốc độ bắn hiệu quả, được đưa vào sử dụng trên chiếc , nhập biên chế năm 1937.
Theo quan điểm của đa số các sử gia hải quân, 5-inch/38 là kiểu pháo cỡ nòng trung bình lưỡng dụng tốt nhất trong Thế Chiến II, đặc biệt là khi chúng đặt dưới sự điều khiển của Hệ thống kiểm soát hỏa lực pháo Mark 37 tiên tiến, cho phép bắn chính xác và kịp thời vào cả các mục tiêu tàu nổi và máy bay. Ngay cả với hệ thống tiên tiến như vậy, cũng phải mất đến gần 1.000 quả đạn mới tiêu diệt được một mục tiêu máy bay. Tuy nhiên phần lớn máy bay bị bắn hạ bởi mảnh đạn nổ hơn là bắn trúng trực tiếp; vì vậy màn hỏa lực được áp dụng, khi nhiều khẩu pháo bắn lên không trung cùng một lúc. Chúng tạo ra một màn chắn mảnh đạn lớn ngăn được một hay nhiều máy bay, hay ngăn ngừa một máy bay chưa được phát hiện; sự tiêu phí đạn như vậy là chấp nhận được, đặc biệt là khi đối phó với máy bay cảm tử kamikaze vốn có thể gây sát thương lớn.
Tốc độ bắn tương đối nhanh so với cỡ nòng đã tạo cho nó tiếng tăm và sự tin cậy, đặc biệt là như một vũ khí phòng không, một nhiệm vụ mà nhiều tàu chiến Hoa Kỳ phải đảm trách. Kiểu bệ pháo xoay vòng với dây chuyền nạp đạn tích hợp có tốc độ bắn danh định 15 phát mỗi phút cho mỗi nòng pháo; tuy nhiên một kíp pháo thủ được huấn luyện thành thạo có thể bắn được đến 22 phát mỗi phút trong một thời gian ngắn. Trên các bệ không có dây chuyền nạp đạn, tốc độ bắn đạt được từ 12 đến 15 phát mỗi phút. Tuổi thọ của nòng pháo được ước lượng khoảng 4.600 lượt bắn với liều thuốc phóng toàn phần.
Pháo 5 inch/38 được lắp đặt cho một số lượng rất lớn tàu chiến của Hoa Kỳ trong thời kỳ Thế Chiến II. Chúng cũng được tái trang bị cho nhiều thiết giáp hạm thời Thế Chiến I khi được nâng cấp, thường là thay thế kiểu 5-inch/25-caliber được trang bị vào thập niên 1930. Hiện tại nó không còn được sử dụng trong hải quân hiện dịch, nhưng vẫn hiện diện trên các tàu bị bỏ không thuộc các hạm đội dự bị, cũng như hoạt động cùng một số quốc gia đang sở hữu những tàu chiến cũ của Hoa Kỳ. Hàng triệu quả đạn đã được sản xuất, với hơn 720.000 vẫn còn trong các kho đạn của Hải quân Mỹ vào giữa thập niên 1980 vì một số lượng lớn tàu của hạm đội dự bị có kiểu pháo 5-inch/38-caliber.
Bệ pháo 5-inch/38-caliber Mark 12
left|thumb|Sơ đồ bệ pháo Mark 12, trình bày như bệ nòng đơn hay khẩu bên phải trên bệ nòng đôi
Mỗi bệ pháo bao gồm một hoặc hai bệ pháo 5-inch/38-caliber Mark 12, trọng lượng . và cho đến Thế Chiến II đã được trang bị trên bệ nòng đơn hay nòng đôi của hầu hết các lớp tàu chiến và tàu phụ trợ của Hải quân Hoa Kỳ.
Đặc tính
Các đặc tính chính của bệ Mark 12:
;Bán tự động
:Trong quá trình giật lùi, một phần năng lượng được chứa trong hệ thống chống giật và được dùng để chuẩn bị cho quả đạn tiếp theo. Kim hỏa được cài, khóa nòng mở, vỏ đạn pháo rỗng được đẩy ra, và nòng pháo được đẩy sạch bụi với sức ép khí.
;Nạp đạn tay
:Một pháo thủ nạp đầu đạn và một pháo thủ nạp thuốc phóng được bố trí cạnh pháo. Nhiệm vụ của nọ là chuyển đạn pháo, bao gồm đầu đạn pháo và một vỏ đạn chứa thuốc phóng, từ dây chuyền chuyển đạn sang khay nhồi đạn phía trước khóa nòng, và bắt đầu chu kỳ nhồi đạn.
right|thumb|Khối khóa nòng hình nêm trượt dọc.
;Nhồi đạn bằng điện
:Khẩu pháo sử dụng một bộ nhồi đạn vận hành bằng điện-thủy lực công suất , được thiết kế để nhồi quả đạn pháo nặng , dài (kết hợp cả đầu đạn và vỏ thuốc phóng) vào buồng đạn ở bất kỳ góc nâng nào trong vòng chưa đầy một giây.
;Khối khóa nòng hình nêm trượt dọc (xem sơ đồ)
:Khối khóa nòng đóng buồng đạn phía sau vỏ thuốc phóng; nó cũng chứa bộ kim hỏa để khai hỏa.
;Bộ chịu giật thủy lực
:Hai piston thủy lực hấp thu lực giật chính khi khối bệ pháo giật lùi trên bệ trượt. Chúng cũng đệm quá trình chống giật để nhẹ nhàng quay về vị trí ban đầu.
right|thumb|Sơ đồ các hệ thống chịu giật (recoil) và chống giật (counter-recoil). Mũi tên chỉ thị hướng di chuyển của bệ pháo trên bệ trượt trong quá trình giật lùi.
;Bộ chống giật khí nén
:Vào cuối chu trình giật lùi, hệ thống chống giật di chuyển khối pháo trở lại phía trước để quay về vị trí ban đầu, và giữ nó ở bất kỳ góc nâng nào. Một buồng chứa khí nén, và ở phía cuối là một lổ tròn đường kính . Đi qua lổ này là một piston di động tiếp giáp với mặt sau của khối trượt (xem hình). Áp lực khí trong buồng có xu hướng đẩy piston ra khỏi buồng, nhưng piston không thể di chuyển do khối trượt. Vì vậy, khi piston không thể đi lùi, áp lực khí trong buồng giữ cho khối pháo đẩy lên phía trước. Khi khẩu pháo ở vị trí sẵn sàng, áp lực trong buồng vào khoảng ; khi pháo giật lùi, áp lực buồng tăng lên khoảng .
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Pháo 5 inch/38 caliber Mark 12** là một kiểu hải pháo của Hải quân Hoa Kỳ. Chúng được lắp đặt trên nhiều lớp thiết giáp hạm, tàu sân bay, tàu tuần dương và tàu khu
**Pháo 5-inch/25-caliber** được đưa vào sử dụng như là pháo phòng không hạng nặng tiêu chuẩn trên những tàu tuần dương hiệp ước của Hải quân Hoa Kỳ được đưa vào hoạt động trong các
thumb|[[Pháo 5-inch/38-caliber|Pháo lưỡng dụng Mark 37 Modification 6 5-inch được trưng bày tại Bảo tàng Quốc gia Chiến tranh Thái Bình Dương. Pháo có tầm bắn hơn và có thể đạt tốc độ bắn 22
**Lớp thiết giáp hạm _North Carolina**_ là một lớp bao gồm hai thiết giáp hạm, _North Carolina_ và _Washington_, được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ vào cuối thập niên 1930 và đầu thập
**Lớp tàu khu trục _Gearing**_ bao gồm 98 tàu khu trục được Hải quân Hoa Kỳ trong và ngay sau Chiến tranh Thế giới thứ hai. Lớp _Gearing_ có những cải tiến nhỏ so với
**Lớp tàu khu trục _Mahan**_ của Hải quân Hoa Kỳ thoạt tiên bao gồm 16 tàu khu trục, gồm 15 chiếc được nhập biên chế năm 1936 và một chiếc vào năm 1937; sau đó
**Lớp tàu tuần dương _Brooklyn**_ bao gồm chín chiếc tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Hoa Kỳ đã phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Được trang bị năm tháp pháo
thumb|right| USS _Barr_ (APD-39) (nguyên là tàu hộ tống khu trục DE-576) sau khi được cải biến thành một tàu vận chuyển cao tốc phụ trợ **Tàu vận chuyển cao tốc** (tiếng Anh: high-speed transport)
**Lớp tàu hộ tống khu trục _Evarts**_ là những tàu hộ tống khu trục được Hoa Kỳ chế tạo trong giai đoạn 1942 – 1944. Chúng đã phục vụ trong Chiến tranh thế giới thứ
**Lớp tàu frigate Captain** bao gồm 78 tàu frigate của Hải quân Hoàng gia Anh được chế tạo tại Hoa Kỳ và hạ thủy vào các năm 1942–1943. Chúng được chuyển giao cho Anh Quốc
**USS _Pennsylvania_ (BB-38)** là một thiết giáp hạm của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó thuộc thế hệ các thiết giáp hạm "siêu-dreadnought"; và là chiếc tàu chiến thứ
**USS _Harmon_ (DE-678)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _Buckley_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên nó được đặt theo thủy thủ Leonard Roy
**Lớp tàu khu trục _Allen M. Sumner**_ là một nhóm 58 tàu khu trục được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai; và thêm mười hai chiếc khác được
**USS _Bull_ (DE-693/APD-78)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _Buckley_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên nó được đặt theo Thiếu úy Hải quân
**Tàu khu trục hộ tống** (tiếng Anh: _Escort destroyer_, ký hiệu lườn **DDE**) là một định danh phân loại của Hải quân Hoa Kỳ đối với các tàu khu trục (DD) được sửa đổi và
**USS _Thompson_ (DD-627/DMS-38)** là một tàu khu trục lớp _Gleaves_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó đã tham gia suốt Thế Chiến II, cải biến thành
**Đạn rocket tốc độ cao phóng từ máy bay** (**High Velocity Aircraft Rocket**, viết tắt **HVAR**), còn được gọi với tên lóng **Holy Moses**, là một loại rocket không điều khiển do Mỹ phát triển
**SCB-27**, (tên lóng: "Two Seven-Alpha" hay "Two Seven-Charlie") là tên gọi của Hải quân Hoa Kỳ cho một loạt những nâng cấp dành cho lớp tàu sân bay _Essex_ (cả phiên bản "thân ngắn" lẫn
**USS _Oliver Mitchell_ (DE-417)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _John C. Butler_ từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến
**USS _Raby_ (DE-698/DEC-698)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _Buckley_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên nó được đặt theo Chuẩn đô đốc James
**USS _Welles_ (DD-628)** là một tàu khu trục lớp _Gleaves_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó đã tham gia suốt Thế Chiến II, sống sót qua
**USS _Hobson_ (DD-464/DMS-26)**, là một tàu khu trục lớp _Gleaves_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó đã tham gia suốt Thế Chiến II, cải biến thành
**USS _Kleinsmith_ (APD-134)** là một tàu vận chuyển cao tốc lớp _Crosley_, nguyên được cải biến từ chiếc **DE-718**, một tàu hộ tống khu trục lớp _Rudderow_, và đã phục vụ cùng Hải quân Hoa
**USS _Mahan_ (DD-364)** là một tàu khu trục, chiếc dẫn đầu trong lớp của nó được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giữa những năm 1930. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của
**USS _Weber_ (DE-675/APD-75)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _Buckley_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên nó được đặt theo Trung úy Hải quân
**USS _Shaw_ (DD-373)** là một tàu khu trục lớp _Mahan_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giữa những năm 1930. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được
**USS _St. Louis_ (CL-49)** là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Hoa Kỳ, chiếc dẫn đầu cho phân lớp _St.Louis_ của lớp _Brooklyn_, và là chiếc tàu chiến thứ năm của Hải
**USS _Helena_ (CL-50)** là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc phân lớp _St. Louis_ của lớp _Brooklyn của Hải quân Hoa Kỳ. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ được
**USS _Pratt_ (DE-363)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _John C. Butler_ từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy
**USS _Corry_ (DD-817/DDR-817)** là một tàu khu trục lớp _Gearing_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba của
**Lớp thiết giáp hạm _Colorado**_ là một lớp bốn chiếc thiết giáp hạm thế hệ dreadnought được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Tuy nhiên, chỉ có ba
**USS _West Virginia_ (BB-48)** (tên lóng "Wee Vee"), là một thiết giáp hạm thuộc lớp _Colorado_, và là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này nhằm tôn
**Lớp thiết giáp hạm _Pennsylvania**_ là một lớp thiết giáp hạm thế hệ dreadnought của Hải quân Hoa Kỳ; là loạt hai chiếc thứ bảy được thiết kế trên căn bản mở rộng lớp lớp
**USS _Colorado_ (BB-45)** là một thiết giáp hạm của Hải quân Hoa Kỳ từng tham gia Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó, và là tàu chiến
**Lớp thiết giáp hạm _South Dakota**_ là một nhóm bốn thiết giáp hạm nhanh được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Chúng là lớp thiết giáp
**USS _Idaho_ (BB-42)** là một thiết giáp hạm thuộc lớp _New Mexico_ của Hải quân Hoa Kỳ, và là chiếc tàu chiến thứ tư của Hải quân Mỹ được đặt cái tên này nhằm tôn
**Lớp thiết giáp hạm _Nevada**_ là một lớp thiết giáp hạm thế hệ dreadnought của Hải quân Hoa Kỳ; là loạt hai chiếc thiết giáp hạm thứ sáu được thiết kế. Chúng là lớp thiết
**USS _Parche_ (SS-384/AGSS-384)** là một tàu ngầm lớp _Balao_ và là con tàu đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo loài cá bướm Bốn mắt của chi Cá bướm. _Parche_ đã
**Lớp tàu tuần dương _Baltimore**_ là một nhóm mười bốn tàu tuần dương hạng nặng được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giai đoạn sau của Chiến tranh thế giới thứ hai. Tốc độ
**Lớp tàu khu trục L và M** là một lớp bao gồm 16 tàu khu trục được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào cuối những năm 1930 và đã phục vụ trong
**Lớp tàu tuần dương _Alaska**_ là một lớp bao gồm sáu tàu tuần dương rất lớn được Hải quân Hoa Kỳ đặt hàng trước Chiến tranh thế giới thứ hai. Cho dù thường được gọi
**USS _Spadefish_ (SS/AGSS-411)** là một tàu ngầm lớp _Balao_ và là con tàu đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo loài cá thuộc họ tai tượng biển. Mặc dù được nhập
**Lớp tàu tuần dương _Danae**_, còn gọi là **lớp _D_**, là một lớp tàu tuần dương hạng nhẹ được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ
**USS _Aaron Ward_ (DD-483)** là một tàu khu trục lớp _Gleaves_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó đã tham gia trong Thế Chiến II tại Mặt
**USS _Wyman_ (DE-38)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _Evarts_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu quân sự đầu tiên của
**Lớp tàu sân bay _Yorktown**_ bao gồm ba tàu sân bay được Hoa Kỳ chế tạo, hoàn tất và đưa vào sử dụng không lâu trước Chiến tranh Thế giới thứ hai nổ ra. Chúng
**Lớp tàu tuần dương _Albany**_ là những tàu tuần dương tên lửa điều khiển được cải biến từ tàu tuần dương hạng nặng lớp _Baltimore_ và lớp _Oregon City_ của Hải quân Hoa Kỳ. Trang
**HMS _Delhi_ (D47)** là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Danae_, đã phục vụ cùng Hải quân Hoàng gia Anh Quốc tại Baltic và trong Chiến tranh Thế giới thứ hai tại Đại
**Lớp tàu khu trục _Porter**_ bao gồm tám tàu khu trục có trọng lượng choán nước 1.850 tấn được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giữa những năm 1930. Chúng đã phục vụ trong
**USS _Des Moines_ (CA-134)** là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ được đưa ra hoạt động sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, là chiếc dẫn đầu của lớp tàu