✨USS Mahan (DD-364)

USS Mahan (DD-364)

USS Mahan (DD-364) là một tàu khu trục, chiếc dẫn đầu trong lớp của nó được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giữa những năm 1930. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo Chuẩn đô đốc Alfred Thayer Mahan (1840-1914), sử gia và là nhà lý thuyết chiến lược hải quân có tầm ảnh hưởng lớn trên thế giới. Nó bắt đầu hoạt động tại Đại Tây Dương trước khi chuyển sang Trân Châu Cảng năm 1937 và trải qua quảng đời hoạt động còn lại tại Thái Bình Dương.

Mahan đang cùng Lực lượng Đặc nhiệm 12 ở ngoài khơi vào lúc diễn ra cuộc tấn công Trân Châu Cảng vào ngày 7 tháng 12 năm 1941. Nó tiếp tục phục vụ trong nhiều chiến dịch tại Mặt trận Thái Bình Dương cho đến khi bị áp đảo bởi cả một phi đội máy bay kamikaze tại vịnh Ormoc, Leyte, Philippines vào ngày 7 tháng 12 năm 1944. Hư hại nặng đến mức không thể cứu chữa, nó bị bỏ lại và bị đánh đắm bởi hải pháo và ngư lôi của một tàu khu trục khác.

Thiết kế và chế tạo

Chế tạo

Mahan được đặt lườn vào ngày 12 tháng 6 năm 1934 tại xưởng tàu của hãng United Shipyards, Inc, ở đảo Staten, New York. Nó được hạ thủy vào ngày 15 tháng 10 năm 1935, được đỡ đầu bởi cô Kathleen H. Mahan, chắt của đô đốc Mahan; và được đưa ra hoạt động vào ngày 18 tháng 9 năm 1936 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung tá Hải quân J. B. Waller. trong thời chiến tăng lên khoảng 250 sĩ quan và thủy thủ.

Mahan có cột ăn-ten trước ba chân và cột ăn-ten chính dạng cột. Để cải thiện góc bắn của vũ khi phòng không, cột ăn-ten trước ba chân được cấu trúc mà không có các mấu hoa tiêu. Kiểu dáng của nó tương tự như với lớp Porter lớn hơn, vốn được chế tạo ngay trước nó. Mahan được trang bị ba dàn ống phóng ngư lôi bốn nòng dùng cho ngư lôi Mark 15 , dẫn hướng bằng bộ kiểm soát hỏa lực ngư lôi Mark 27.

Mahan được nâng cấp vào tháng 6 năm 1944 tại Xưởng hải quân Mare Island, tuy nhiên chi tiết nâng cấp không được biết rõ. Hầu hết việc cải biến những chiếc khác trong lớp của Mahan bao gồm việc tháo dỡ một khẩu pháo 5 inch/38 caliber, thay bằng hai khẩu đội Bofors 40 mm phòng không nòng đôi và từ bốn đến sáu khẩu Oerlikon 20 mm phòng không.

Lịch sử hoạt động

Trong hai tháng kể từ khi nhập biên chế, Mahan lên đường viếng thăm các cảng thuộc vùng biển Caribe và Nam Mỹ, kết hợp chuyến đi chạy thử máy và huấn luyện với một lượt viếng thăm thiện chí. Nó ở lại khu vực Đại Tây Dương cho đến tháng 7 năm 1937, khi nó khởi hành đi sang vùng bờ biển Nam California để huấn luyện hạm đội, rồi tiếp tục đi đến cảng nhà mới tại Trân Châu Cảng. và sau khi nghe tin tức về cuộc tấn công, tư lệnh lực lượng đặc nhiệm nhận mệnh lệnh hủy bỏ nhiệm vụ vận chuyển để truy tìm các tàu chiến Nhật. Không tìm thấy đối phương, lực lượng quay trở về Trân Châu Cảng vào ngày 12 tháng 12. Một nhiệm vụ hộ tống vận tải đã đưa chiếc tàu khu trục đến Samoa, nơi nó gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm 17, bao gồm tàu sân bay , hai tàu tuần dương và năm tàu khu trục. Lực lượng này tiến hành không kích các đảo san hô Jaluit, Mili và Makin (Butaritari) thuộc quần đảo Marshall và Gilbert. Nó tiếp tục đi đến đảo Canton vào cuối tháng 2 năm 1942, tạm thời được phân công nhiệm vụ tuần tra gần bờ. Đến đầu tháng 4, nó ra khơi cùng một đoàn tàu vận tải hướng đến San Pedro, California, và sau đó đi lên phía Bắc đến Xưởng hải quân Mare Island để đại tu, đi vào ụ tàu vào ngày 18 tháng 4 năm 1942. thumb|left|alt=Aerial view of large ship and three smaller ones, side by side|Từ trên xuống dưới: [[thiết giáp hạm , tàu sửa chữa , Mahan và , sau khi South Dakota va chạm với Mahan sau Trận chiến quần đảo Santa Cruz]] Mahan quay trở lại hoạt động tại vùng biển Trân Châu Cảng vào tháng 8 năm 1942. Hai đội tàu sân bay kết hợp thành Lực lượng Đặc nhiệm 61 đặt dưới quyền chỉ huy của Chuẩn đô đốc Thomas C. Kinkaid, và được lệnh đi đến quần đảo Santa Cruz để tấn công quân Nhật nếu chúng tiến đến Guadalcanal. Sau khi lực lượng đặc nhiệm thả neo ngoài khơi quần đảo vào sáng ngày 26 tháng 10, máy bay trinh sát của Enterprise phát hiện một lực lượng tàu sân bay Nhật Bản đông hơn đáng kể, và Trận chiến quần đảo Santa Cruz nổ ra. Khi trận chiến kết thúc, hải quân bị mất máy bay, tàu sân bay Hornet và một tàu khu trục; Enterprise, South Dakota, một tàu tuần dương và một tàu khu trục bị hư hại. Phía Nhật Bản bị mất khoảng 100 máy bay, nhưng thiệt hại về tàu chiến nhẹ hơn nhiều. Dù sao, các đô đốc Nimitz và Halsey tỏ ý hài lòng với trận chiến mà lực lượng của Kinkaid đã đối chọi với đối phương có ưu thế áp đảo, và các tàu khu trục hộ tống chung quanh HornetEnterprise đã làm tròn vai trò bảo vệ phòng không. Tuy nhiên, trên đường đi Nouméa, New Caledonia, việc phát hiện một tàu ngầm Nhật Bản đã khiến South Dakota va chạm với Mahan, lúc này dưới quyền chỉ huy của Trung tá Hải quân R. W. Simpson; cả hai đều bị hư hại đáng kể. Việc sửa chữa tạm thời cho Mahan được thực hiện tại Nouméa, và nó quay về Trân Châu Cảng để được trang bị một mũi tàu mới. Chiến dịch được bắt đầu vào tháng 8 năm 1943 với kế hoạch tấn công Lae, New Guinea; hai tuần trước đó, Mahan, dưới quyền chỉ huy của Thiếu tá Hải quân L. T. Smith, cùng ba tàu khu trục Hoa Kỳ khác đã dọn sạch các lối tiếp cận Lae và vùng biển giữa Salamaua và Finschhafen, cũng như bắn phá các vị trí quân Nhật ở Finschhafen. Đến đầu tháng 9, Lực lượng đặc nhiệm Lae dưới quyền Chuẩn đô đốc Daniel E. Barbey rời vịnh Milne tiến đến Lae với 8.000 binh lính Australia. Đến tối ngày 4 tháng 9, việc đổ bộ binh lính hoàn tất; và sang ngày 11 tháng 9, Salamaua dưới quyền kiểm soát của lực lượng Đồng Minh, và Lae bị chiếm vào ngày 16 tháng 9. Mahan và các tàu khu trục khác đã bảo vệ cho các cuộc đổ bộ.

Bị thất bại tại Lae, quân Nhật rút lui về Finschhafen, cũng là nơi được liên quân Hoa Kỳ-Australia lựa chọn cho cuộc tấn công tiếp theo tại New Guinea. Vào ngày 21 tháng 9, một lực lượng tấn công dưới quyền Barbey đã rời Buna, New Guinea, được các tàu khu trục Hoa Kỳ hộ tống, dừng lại tại Lae để đón lên tàu một lữ đoàn bộ binh Hoa Kỳ. Một số tàu khu trục được phối thuộc cùng lực lượng, dẫn trước đoàn tàu vận chuyển đến điểm hẹn.

Vào ngày 14 tháng 12 năm 1943, lực lượng đổ bộ dưới quyền Barbey đã tập trung tại Buna, New Guinea nhằm chuẩn bị cho cuộc đổ bộ lên Arawe, New Britain. Trong số chúng có Mahan và bốn tàu khu trục khác thuộc đội bắn phá. Lực lượng lên đường và thả neo ngoài khơi Arawe vào sáng sớm hôm sau, các tàu khu trục đã bắn phá công sự phòng ngự của quân Nhật đối diện bãi đổ bộ chính. Đạn pháo 5 inch và rocket buộc phía Nhật phải rút lui, và đến giữa buổi sáng, các bãi đổ bộ được kiểm soát. Lối vào vịnh Borgen đầy bất trắc do những chướng ngại không được hiển thị trên hải đồ; Mahan và được chọn để dò đường dẫn đầu, di chuyển qua eo biển, với hai tàu quét mìn theo sau thả những phao tiêu đánh dấu. Lực lượng đổ bộ theo sau con đường đã được đánh dấu, tiến qua lối vào vịnh. Vào sáng ngày 26 tháng 12, Thủy quân Lục chiến đổ bộ lên bãi biển mà không gặp sự kháng cự. Quân Nhật chỉ tấn công mạnh vào xế chiều hôm đó, nhưng không đánh bật được lực lượng Hoa Kỳ. Vào mùa Xuân năm 1944, sau khi đã làm nhiệm vụ kéo dài tại Thái Bình Dương, Mahan được lệnh quay trở về California để đại tu, và được sửa chữa tại Xưởng hải quân Mare Island. Nó rời xưởng tàu vào đầu tháng 7 để đi Trân Châu Cảng, tham gia các cuộc thực tập tại đây cho đến ngày 15 tháng 8. Nó quay trở lại khu vực New Guinea vào ngày 20 tháng 10, ngang qua Eniwetok, Jaluit, Guam, Saipan và Ulithi, hộ tống các đoàn tàu vận tải đi lại giữa Hollandia (Jayapura) và Leyte. Đến cuối tháng 11 năm 1944, nó tuần tra chống tàu ngầm ngoài khơi Leyte thuộc Philippines. Do đó quyết định về việc tấn công đổ bộ lên Ormoc là điều không tránh khỏi.

Sáng ngày 7 tháng 12 năm 1944, ba năm sau ngày Nhật ném bom Trân Châu Cảng, binh lính thuộc Sư đoàn 77 Bộ binh (Hoa Kỳ) đổ bộ lên phía Nam thành phố Ormoc; cùng lúc đó, Mahan đang tuần tra tại eo biển giữa Leyte và đảo Ponson. Cuộc đổ bộ của bộ binh chỉ gặp sức kháng cự nhẹ của quân Nhật, nhưng chín máy bay ném bom cùng ba máy bay tiêm kích hộ tống đã tập trung vào Mahan. Phía Nhật Bản áp dụng một trong những phương thức tấn công khác thường và hủy diệt nhất trong các kiểu tấn công Kamikaze, là sử dụng chiến thuật tấn công với máy bay ném bom-ngư lôi, nhưng sau khi bị đánh trúng liền chuyển sang tấn công cảm tử. Trong cuộc tấn công, máy bay tiêm kích quân đội Mỹ đã bắn rơi ba máy bay Nhật và làm hư hại hai chiếc khác; Mahan bắn rơi bốn chiếc nhưng chịu đựng ba cú kamikaze trúng đích,

Bị nổ tung và ngập chìm trong lửa, Mahan dưới quyền chỉ huy của Trung tá Hải quân E. G. Campbell được hướng về phía các tàu cột mốc với hy vọng cứu vớt mong manh, trước khi ông ra lệnh bỏ tàu. Các tàu khu trục và đã cứu vớt những người sống sót; một sĩ quan và năm thủy thủ mất tích, 13 người khác bị thương kể cả bỏng. Một tàu khu trục đã đánh đắm Mahan bằng hải pháo và ngư lôi.

Phần thưởng

Mahan được tặng thưởng năm Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**USS _Mahan_ (DD-364)** là một tàu khu trục, chiếc dẫn đầu trong lớp của nó được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giữa những năm 1930. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của
**Trận chiến vịnh Ormoc** là một loạt các trận chiến diễn ra giữa Hải-Không quân Đế quốc Nhật Bản và Hoa Kỳ tại biển Camotes thuộc Philippines trong khoảng thời gian từ 11 tháng 11