✨Omar Khayyám

Omar Khayyám

Ghiyāth al-Dīn Abū al-Fatḥ ʿUmar ibn Ibrāhīm Nīsābūrī (ngày 18 tháng 5 năm 1048 – ngày 4 tháng 12 năm 1131), thông thường được biết đến với tên gọi Omar Khayyám (),, là một nhà bác học người Ba Tư xưa, được biết đến bởi những cống hiến của ông cho toán học, thiên văn học, khoáng sản học, triết học và thơ ca. Ông sinh ra tại Nishapur, thủ phủ trước kia của Đế chế Seljuk (gần thủ đô Mashad, miền đông Iran ngày nay). Ông là một học giả cùng thời với sự cai trị của triều đình Seljuk quanh thời điểm của cuộc Thập tự chinh đầu tiên.

Là một nhà toán học, ông được chú ý nhiều nhất cho những cố gắng trong công cuộc phân loại và giải nghiệm các phương trình khối (bậc ba). Theo đó, ông đã phát kiến ra các phương án giải bằng hình học qua giao điểm của các đường conic. Khayyam đồng thời cũng đóng góp cho những hiểu biết về tiên đề song song. Là một nhà thiên văn, ông đã tính toán được thời lượng của năm mặt trời với độ chính xác và tinh vi đáng kinh ngạc. Ông đã thiết kế ra bộ lịch Jalali, một bộ lịch dựa theo mặt trời với chu kỳ 33 năm xen kẽ cực kỳ chuẩn xác, đặt làm nền móng cho bộ lịch Ba Tư vẫn còn được sử dụng sau gần một thiên niên kỷ.

Có một truyền thống về việc quy gán thơ ca cho Omar Khayyam, được viết theo thể thơ bốn câu tứ tuyệt(rubāʿiyāt ). Thể thơ này trở nên được biết đến rộng rãi tới bạn đọc tiếng Anh qua một bản dịch bởi Edward Fitzgerald (Rubaiyat của Omar Khayyam, 1859) và nhận được về thành công vang dội trong trường phái chủ nghĩa phương đông Orientalism của fin de siècle.

Cuộc đời

Omar Khayyam ra đời, thuộc dân tộc [https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=%C4%90%E1%BA%A1i_Khorasan Khorasani] Ba Tư cổ, tại Nishapur vào năm 1048 thời Trung Cổ. Cha của Khayyam có lẽ từng là một người Hỏa giáo đã cải sang đạo Hồi.Trong các văn bản Ba Tư thời ấy, ông thường đơn giản được gọi là Hakim Omar Khayyam. Dẫu cho những nghi vấn còn bỏ ngỏ, người ta vẫn thường cho rằng các tổ tiên của ông theo nghề làm lều. bởi Khayyam có nghĩa là người làm túp lều trong tiếng Ả-rập. Nhà sử học Bayhaqi, người quen biết thân thích với Omar, cung cấp đầy đủ chi tiết về lá số tử vi horoscope của ông: "Omar là thuộc chòm Song Tử Gemini, mặt trời và sao Thuỷ đang ở thế thượng phong[...]". Điều này khiến cho các học giả hiện đại công bố ngày sinh của ông là vào 18 tháng 5, năm 1048.. Nó từng là một trung tâm chính của giáo phái Hoả giáo. Toàn bộ tên đầy đủ của ông, như được ghi trong các nguồn tài liệu Ả-rập, là Abu’l Fath Omar ibn Ibrahim al-Khayyam. Tài năng của ông được phát hiện bởi các thầy kèm dạy đầu tiên. Họ gửi ông tới theo học chỗ Imam Muwaffaq Nishaburi, giáo viên tài giỏi nhất của vùng Khorasan, người kèm cặp cho các con em của giới quý tộc thượng lưu nhất. Omar và Imam trở thành cặp thầy trò tri giao tuyệt vời qua bao năm liền. Sau khi học tập khoa học, triết học, toán học và thiên văn tại Nishapur, vào khoảng năm 1068, Omar lên đường tới tỉnh Burakha, nơi ông thường xuyên lui tới thư viện trứ danh của Ark Burakha. Vào khoảng năm 1070, ông chuyển tới ở Samarkand, nơi ông đã bắt đầu biên soạn công trình nổi tiếng của mình về đại số dưới sự bảo trợ của Abu Tahir Abd al-Rahman ibn ʿAlaq, quan tổng đốc và tổng thẩm phán của thành phố. Omar Khayyam được đón tiếp rất tử tế bởi Shams al-Mulk Nasr, người cai trị Karakhanid, mà theo như Bayhaqi, sẽ "bày tỏ với ông niềm hân hạnh vinh dự to lớn nhất, to đến nỗi có thể cho [Omar] ngồi cạnh mình trên ngai". Nếu giả thiết rằng, độ dài của năm thay đổi tại vị trí thập phân thứ sáu trong khoảng thời gian một đời người, điều này thực sự là chính xác, tinh vi đến đáng kinh ngạc. Để dễ hình dung, độ dài của năm vào cuối thế kỷ 19 là 365.242196 ngày, trong khi ngày nay nó là 365.242190 ngày.

Sau cái chết của Malik-Shah và tể tướng của mình (bị sát hại, được cho là thực hiện bởi các sát thủ theo mệnh lệnh Ismaili). Omar bị thất sủng tại triều đình. Kết cục là ông phải sớm khăn gói hành hương tới Mecca. Một nguyên do động cơ thầm kín cho chuyến hành hương của ông được báo cáo bởi Al-Qifti, đó là một màn thể hiện công khai cho công chúng đức tin của ông nhằm xoa dịu những nghi hoặc đối với chủ nghĩa hoài nghi và bác bỏ những cáo buộc về sự không chính thống (bao gồm cả những đồng cảm hoặc tuân thủ có thể có đối với Hỏa giáo) do một giáo sĩ thù địch nhằm vào ông. Sau đó, ông được quốc vương Sultan Sanjar mới mời đến Marv, khả năng là để làm việc với tư cách là một nhà chiêm tinh của triều đình. Sau đó, Khayyam được chấp thuận hồi hương quê nhà tại Nishapur do sức khỏe ngày càng giảm sút. Khi trở về, ông dường như đã sống một cuộc sống ẩn dật.

Omar Khayyam qua đời ở tuổi 83 tại quê nhà Nishapur vào ngày 4 tháng 12 năm 1131. Ông được mai táng tại nơi mà hiện nay là Lăng mộ Omar Khayyam. Một trong các đệ tử của ông, Nizami Aruzi, thuật lại câu chuyện rằng, đâu đó trong khoảng năm 1112 và 1113, Khayyam lúc ấy ở tại Balkh trong một đoàn thể của Al-Isfizari (một trong những khoa học gia đã cộng tác cùng ông trong dự án lịch Jalali) khi ông đưa ra một lời tiên đoán rằng "lăng mộ của ta sẽ ở vị trí mà ngọn gió phương bắc sẽ trải hoa hồng lên đó".. Về phép chia góc phần tư của hình tròn (, chưa được định ngày tháng nhưng đã hoàn thành trước chuyên luận về đại số) và Về các chứng minh cho các vấn đề liên quan đến Đại số (, rất có thể được hoàn thành vào năm 1079). Không được thoả mãn với thất bại của các nhà toán học trong việc chứng minh tuyên bố của Euclid từ các định đề khác của mình, Omar đã cố gắng nối kết tiên đề với Mệnh Đề Thứ Tư, theo đó nói rằng tất cả các góc vuông là đều bằng nhau.

thumb|"Phương trình khối và phần giao nhau của các phần conic", trang đầu tiên trong bản thảo gồm hai chương được lưu giữ tại Trường đại học Tehran.

Các bình luận của Tusi về cách xử lý của Khayyam với đường song song cũng lan truyền tới châu Âu. John Wallis, giáo sư hình học tại Oxford, đã dịch bình luận của Tusi sang tiếng Latinh. Nhà hình học dòng Jesuit Girolamo Saccheri, người có tác phẩm (euclides ab omni naevo vindicatus, 1733) thường được coi là bước đầu tiên trong sự phát triển tất yếu của hình học phi Euclid, đã khá quen thuộc với công trình của Wallis. Nhà sử học toán học người Mỹ David Eugene Smith đề cập rằng Saccheri "đã sử dụng cùng một bổ đề như của Tusi, thậm chí còn ký hiệu cho hình hoạ trùng hợp theo cùng một cách và sử dụng bổ đề cho cùng mục đích". Ông nói thêm, "Tusi nói một cách tường minh rằng đó là do Omar Khayyam, và từ văn bản, có vẻ như rõ ràng đó chính là người đã truyền nguồn cảm hứng cho ông."

Khái niệm số thực

Chuyên luận này về Euclid chứa đựng một đóng góp khác liên quan tới lý thuyết về tỷ lệ và với sự kết hợp của các tỷ lệ. Khayyam thảo luận về mối quan hệ giữa khái niệm tỷ lệ và khái niệm số và nêu rõ ra nhiều khó khăn về mặt lý thuyết khác nhau. Cụ thể, ông đóng góp vào nghiên cứu lý thuyết của khái niệm số vô tỷ.[citation needed] .Không hài lòng với định nghĩa của Euclid về các tỷ số bằng nhau, ông đã định nghĩa lại khái niệm về của con số bằng cách sử dụng một phân số liên tục làm phương tiện biểu thị tỷ số. Rosenfeld và Youschkevitch (1973) lập luận rằng, "bằng cách đặt các đại lượng và các số vô tỷ trên cùng một quy mô hoạt động, [Khayyam] đã bắt đầu một cuộc cách mạng thực sự trong học thuyết về số.". Tương tự như vậy, D. J. Struik đã lưu ý rằng Omar "đang trên con đường tiến tới mở rộng khái niệm số, dẫn đến khái niệm về số thực." Trong "Chuyên luận về phép chia góc phần tư của hình tròn", Khayyam đã áp dụng đại số vào hình học. Trong việc này, ông chủ yếu dành tâm huyết để nghiên cứu xem liệu có thể chia một góc phần tư hình tròn thành hai phần sao cho các đoạn thẳng chiếu từ điểm phân chia đến các đường kính vuông góc của hình tròn tạo thành một tỷ lệ cụ thể hay không. Theo đó, giải pháp của ông đã sử dụng một số cách xây dựng đường cong dẫn đến các phương trình chứa các số hạng bậc ba và bậc bốn. và là người đầu tiên sử dụng hình học để giải mọi loại phương trình bậc ba, miễn là đề cập đến nghiệm dương. Chuyên luận về đại số có chứa công trình của ông về phương trình bậc ba. Nó được chia làm ba phần: (i) các phương trình có thể giải bằng compa và thước thẳng, (ii) các phương trình có thể giải bằng đường cung cônic, và (iii) các phương trình liên quan đến nghịch đảo của ẩn số.

Khayyam đã đưa ra một danh sách đầy đủ tất cả các phương trình khả hữu liên quan đến đường thẳng, hình vuông và hình lập phương. Ông xem xét ba phương trình nhị thức, chín phương trình tam thức và bảy phương trình tứ thức. Các bổ đề tiên quyết cho chứng minh hình học của Khayyam bao gồm Euclid VI, Mệnh đề 13, và Apollonius II, Mệnh đề 12. Tuy nhiên, ông thừa nhận rằng vấn đề số học của các hình khối này vẫn chưa được giải quyết, đồng thời bổ sung rằng, "có khả năng ai đó khác sẽ khám phá ra nó sau chúng ta". Cách giải bằng hình học cụ thể này của phương trình khối bậc ba đã được M. Hachtroudi nghiên cứu sâu hơn và mở rộng để giải các phương trình bậc bốn. Mặc dù các phương pháp tương tự đã xuất hiện lẻ tẻ kể từ thời Menaechmus, và được phát triển thêm bởi nhà toán học thế kỷ thứ 10 Abu al-Jud, công trình của Khayyam có thể được xem là nghiên cứu có hệ thống đầu tiên và phương pháp chính xác đầu tiên để giải các phương trình khối bậc ba. Nhà toán học Woepcke (1851), người đã phiên dịch đại số của Khayyam sang tiếng Pháp đã ca ngợi ông cho "năng lực khái quát hóa và quy trình hệ thống chặt chẽ của ông."

Định lý nhị thức và khai thác nghiệm

Trong chuyên luận đại số của mình, Khayyam ám chỉ đến một cuốn sách mà ông đã viết về việc khai thác căn bậc n của các số bằng cách sử dụng một định lý mà ông đã khám phá ra mà không phụ thuộc vào các hình hoạ hình học. Cuốn sách này rất có thể có tựa đề là Những khó khăn của số học (), và không còn được lưu giữ nữa. Dựa trên ngữ cảnh, một số nhà sử học toán học như D. J. Struik, tin rằng Omar hẳn đã biết công thức khai triển nhị thức (a+b)^n, trong đó n là một số nguyên dương. Một trong những người tiền nhiệm của Khayyam, Al-Karaji, đã khám phá ra quy luật sắp xếp theo hình tam giác của các hệ số của khai triển nhị thức mà người châu Âu sau này biết tới qua tên gọi tam giác Pascal; Khayyam đã phổ biến sắp xếp tam giác này ở Iran, do vậy ngày nay nó được gọi là tam giác Omar Khayyam. Thành quả bộ lịch được đặt tên để vinh danh Malik-Shah ấy là bộ lịch Jalālī, và được khánh thành vào ngày 15 tháng 3 năm 1079. Bản thân đài quan sát đã không được dùng đến nữa sau cái chết của Malik-Shah vào năm 1092. Bộ lịch vẫn được sử dụng trên khắp Đại Iran từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 20. Năm 1911, lịch Jalālī trở thành bộ lịch quốc gia chính thức của Qajar Iran. Năm 1925, nó được đơn giản hóa và tên của các tháng được hiện đại hóa, trở thành bộ lịch Iran hiện đại. Lịch Jalālī chính xác hơn lịch dương Gregorian của năm 1582,

Trong một số tác phẩm đã bị mất của Khayyam, có một bản đồ các vì sao mà ông vẽ năm 1079.

Những công trình khác

Khayyam có một chuyên luận ngắn về nguyên lý của Archimedes (Tựa đề đầy đủ Về sự Lừa dối khi Tìm hiểu Lượng Vàng và Bạc trong một Hợp kim được Cấu thành từ cả Hai). Đối với một hợp kim của vàng được pha trộn với bạc, ông mô tả một phương pháp để đo một cách chính xác hơn trọng lượng trên mỗi dung tích của mỗi nguyên tố. Nó bao gồm việc cân đo hợp kim cả trong không khí lẫn trong nước, vì trọng lượng dễ đo được chính xác hơn là đo thể tích. Bằng cách lặp lại tương tự với đồng thời cả vàng cả bạc, người ta biết được chính xác rằng vàng, bạc và hợp kim nặng hơn bao nhiêu so với nước. Chuyên luận này đã được kiểm tra chuyên sâu bởi Eilhard Wiedemann, ông tin rằng giải pháp của Khayyam chính xác và tinh vi phức tạp hơn so với của Khazini và Al-Nayrizi, những người cũng giải quyết vấn đề này từ vị trí khác. Một trong những mẫu vật sớm nhất của văn phẩm Rubiyat của Omar Khayyam là từ học giả Fakhr al-Din Razi. Trong tác phẩm (khoảng năm 1160) của mình, Razi trích dẫn một trong những bài thơ của Khayyam (tương ứng với khổ tứ tuyệt LXII trong ấn bản đầu tiên của Fitzgerald). Daya trong các thư tích của mình (, khoảng năm 1230) có trích dẫn hai bài tứ tuyệt, một trong số đó giống với bài đã được ghi nhận bởi Razi. Một bài tứ tuyệt bổ sung được trích dẫn bởi nhà sử học Juvayni ( [https://vi.wikipedia.org/wiki/Tarikh-i_Jahangushay],khoảng năm 1226–1283). Một bản thảo tương đối muộn là bản thảo của thư viện Bodleian, MS. Ouseley 140, viết tại Shiraz vào năm 1460, bao gồm 158 bài tứ tuyệt viết trên 47 tán lá. Bản thảo thuộc về William Ouseley (1767–1842) và được Thư viện Bodleian mua lại vào năm 1844.

thumb|Bút tích từ thời đại [[Đế quốc Ottoman|Ottoman một bài thơ được viết bởi Omar Khayyam tại Morića Han ở Sarajevo, Bosnia và Herzegovina]]

Thỉnh thoảng có những đoạn trích dẫn những câu thơ được cho là của Omar trong các văn bản được cho là của các tác giả thế kỷ 13 và 14, nhưng những câu này có tính xác thực đáng nghi ngờ, vì vậy các học giả hoài nghi chỉ ra rằng toàn bộ truyền thống có thể là bút ký giả.

Năm trong số các bài tứ tuyệt mà sau này được cho là của Omar được tìm thấy sớm nhất là 30 năm sau khi ông qua đời, được trích dẫn trong "Sindbad-Nameh". Mặc dù điều này chứng tỏ rằng những câu thơ cụ thể này đã được lưu hành vào thời của Omar hoặc sau đó không lâu, nhưng điều đó không có nghĩa là những câu thơ đó phải là của ông. De Blois kết luận rằng, ít nhất quá trình gán thơ cho Omar Khayyam dường như đã bắt đầu từ thế kỷ 13. Edward Granville Browne (1906) ghi nhận sự khó khăn trong việc tách bạch câu thơ chân thực và câu thơ giả mạo: "Mặc dù chắc chắn là Khayyam đã viết nhiều bài thơ tứ tuyệt, nhưng gần như là không thể, ngoại trừ một số trường hợp ngoại lệ, khẳng định một cách chắc chắn rằng ông đã viết bất kỳ bài thơ nào mà đã được gán cho ông". và còn nhiều ấn bản khác đã được xuất bản từ khi đó.

Triết học

Khayyam tự xem mình là học trò của Avicenna. Theo Al-Bayhaqi, ông đã đọc siêu hình học trong "Sách chữa lành" của Avicenna trước khi qua đời.

Các quan điểm tôn giáo

Việc đọc các bài tứ tuyệt của Khayyam theo nghĩa đen dẫn đến việc giải thích thái độ triết học của ông đối với cuộc sống như một sự kết hợp của chủ nghĩa bi quan, chủ nghĩa hư vô, chủ nghĩa sử thi Epicurus, thuyết định mệnh và thuyết bất khả tri. Quan điểm này được tiếp nhận bởi các nhà Iran học như Arthur Christensen, H. Schaeder, Richard N. Frye, E. D. Ross, E. H. Whinfield Bên cạnh những bài thơ tứ tuyệt Ba Tư của Khayyam, J. C. E. Bowen (1973) đề cập rằng, những bài thơ Ả Rập của Khayyam cũng "thể hiện quan điểm bi quan hoàn toàn phù hợp với vẻ ngoài của một nhà triết học duy lý trí sâu sắc mà Khayyam được biết đến trong lịch sử." Edward FitzGerald nhấn mạnh chủ nghĩa hoài nghi tôn giáo mà ông thấy ở Khayyam. Trong lời nói đầu của Rubáiyát, ông nhận rằng ông "bị những người Sufi căm ghét và khiếp sợ", và đã phủ nhận mọi sự giả bộ trước những câu chuyện ngụ ngôn thần thánh: "Rượu của anh thực sự là Nước ép từ Nho: Quán rượu của anh, nơi nó từng đã có: Saki của anh, Thịt và Máu đã đổ ra cho anh.”. Sadegh Hedayat là một trong những người ủng hộ đáng chú ý nhất của triết học Khayyam đó là chủ nghĩa hoài nghi bất khả tri, và theo như Jan Rypka (1934), ông thậm chí còn xem Khayyam là một người vô thần. Hedayat (1923) nói rằng, "trong khi Khayyam tin vào sự biến tính và chuyển đổi của cơ thể con người, ông ấy không tin vào một linh hồn riêng biệt; nếu chúng ta may mắn, các phần tử cơ thể của chúng ta sẽ có thể được sử dụng để làm ra một bình rượu vang.". Thơ ca của Omar Khayyam đã được trích dẫn trong bối cảnh của Chủ nghĩa Vô thần Mới, chẳng hạn như trong "The Portable Atheist" của Christopher Hitchens.

Al-Qifti (khoảng năm 1172–1248) dường như xác nhận quan điểm này về triết học của Omar.

Một bản tường thuật về ông, được viết vào thế kỷ thứ 13, cho thấy ông là người "thông thạo tất cả sự khôn ngoan của người Hy Lạp", và thường nhấn mạnh vào sự cần thiết của việc nghiên cứu khoa học theo đường lối Hy Lạp. Trong số các tác phẩm văn xuôi của ông, có hai tác phẩm đứng vững trước nhà cầm quyền, lần lượt đề cập đến đá quý và khí hậu học. Không còn nghi ngờ gì nữa, nhà thơ kiêm nhà thiên văn là người không hề sùng đạo; và thiên văn học của ông chắc chắn đã giúp ông trở thành như vậy. Một người đương thời viết rằng: "Tôi không quan sát thấy ông ấy có bất kỳ niềm tin lớn nào vào các dự đoán chiêm tinh; tôi cũng chưa từng thấy hay nghe nói về bất kỳ (nhà khoa học) vĩ đại nào sở hữu niềm tin như vậy. Ông dành sự tuân thủ của mình cho trường phái không tôn giáo nào cả. Thuyết bất khả tri, mà không phải đức tin, là từ khoá trong các tác phẩm của ông. Trong số các giáo phái, ông thấy đầy rẫy khắp nơi những xung đột và hận thù mà ông không thể nhập cuộc...."

Tiểu thuyết gia Ba Tư Sadegh Hedayat kể rằng, Khayyám từ "khi còn trẻ cho đến khi qua đời vẫn là một người theo chủ nghĩa duy vật, bi quan, bất khả tri. Khayyam nhìn nhận mọi câu hỏi về tôn giáo bằng con mắt hoài nghi", Hedayat tiếp tục, "và ghét bỏ chủ nghĩa cuồng tín, hẹp hòi, và tinh thần báo thù của các giáo sĩ mulla, những người được gọi là các học giả tôn giáo."

Trong bối cảnh của một văn phẩm có tựa đề Về kiến thức của các Nguyên lý Tồn tại, Khayyam tán thành đường lối thần bí Sufi. Các nhà bình luận khác không chấp nhận được rằng thơ ca của Omar có tư tưởng chống tôn giáo và diễn giải những đề cập của ông đến rượu và say theo nghĩa ẩn dụ thông thường phổ biến trong trường phái thần bí Sufism. Dịch giả tiếng Pháp J. B. Nicolas cho rằng không nên hiểu việc Omar thường xuyên khuyến khích uống rượu theo nghĩa đen, mà hơn là nên được xem xét dưới ánh sáng của tư tưởng Sufi, theo đó cơn say cuồng nhiệt của "rượu" được hiểu như một phép ẩn dụ cho trạng thái giác ngộ hoặc sự sung sướng hân hoan thần thánh của "baqaa". Quan điểm xem Omar Khayyam như là một Sufi được bảo vệ bởi Bjerregaard (1915), Idries Shah (1999), và Dougan (1991), những người cho rằng danh tiếng của chủ nghĩa khoái lạc là do những thất bại trong bản dịch của Fitzgerald, cho rằng thơ của Omar nên được hiểu như một điều "bí truyền sâu sắc". Mặt khác, các chuyên gia Iran như Mohammad Ali Foroughi và Mojtaba Minovi bác bỏ giả thuyết rằng Omar Khayyam từng là một Sufi. Các tác phẩm văn xuôi được cho là của Omar được viết theo phong cách Peripatetic và rõ ràng là hữu thần, đề cập đến các chủ đề như là sự tồn tại của Chúa và thần học.

Trên cơ sở tất cả các chứng cứ văn bản và tiểu sử hiện có, câu hỏi vẫn còn phần nào bỏ ngỏ, Nhiều người gọi ông bằng danh hiệu Vua Thông Thái (). Sự quan tâm của phương Tây đối với Ba Tư đã lớn dần cùng với phong trào Chủ nghĩa phương Đông Orientalism vào thế kỷ 19. Joseph von Hammer-Purgstall (1774–1856) đã dịch một số bài thơ của Khayyam sang tiếng Đức năm 1818, và Gore Ouseley (1770–1844) dịch sang tiếng Anh năm 1846, nhưng Khayyam vẫn còn tương đối ít được biết đến ở phương Tây cho tới sau khi cuốn sách Rubaiyat of Omar Khayyam của Edward FitzGerald được xuất bản vào năm 1859. Thành quả của Fitzgerald lúc đầu không thành công nhưng đã được phổ biến bởi Whitley Stokes từ năm 1861 trở đi, và tác phẩm đã được nhóm nghệ thuật Pre-Raphaelites vô cùng ngưỡng mộ. Năm 1872, Fitzgerald đã cho in ấn bản thứ ba, điều này làm gia tăng sự quan tâm đến tác phẩm tại Mỹ. Đến những năm 1880, cuốn sách cực kỳ nổi tiếng trên khắp cộng đồng nói tiếng Anh, tới mức hình thành nên nhiều quán rượu mang tên ông, các "Câu lạc bộ Omar Khayyam" và một "hội sùng bái fin de siècle dành cho Rubaiyat". Những bài thơ của Khayyam đã và đang còn được dịch ra nhiều thứ tiếng; nhiều trong số những bản dịch gần đây được dịch sát nghĩa hơn cả bản của Fitzgerald.

Bản dịch của Fitzgerald là một yếu tố khơi dậy nên sự quan tâm đến Khayyam với tư cách là một nhà thơ ngay cả tại quê hương Iran của ông. Sadegh Hedayat, trong Những bài ca Khayyam (Taranehha-ye Khayyam, 1934) của mình, đã giới thiệu lại di sản thơ ca của Omar cho Iran hiện đại. Dưới triều đại Pahlavi, một tượng đài mới làm từ đá cẩm thạch trắng do kiến trúc sư Houshang Seyhoun thiết kế đã được dựng lên trên lăng mộ của ông. Một bức tượng của Abolhassan Sadighi đã được dựng lên ở Công viên Laleh, Tehran vào những năm 1960, và một bức tượng bán thân của cùng nhà điêu khắc đặt gần lăng mộ Khayyam ở Nishapur. Năm 2009, nhà nước Iran đã quyên tặng một toà đài điêu khắc cho Văn phòng Liên hợp quốc tại Vienna, khánh thành tại Trung tâm Quốc tế Vienna. Năm 2016, ba bức tượng của Khayyam được khánh thành: một ở Trường đại học Oklahoma, một ở Nishapur và một ở Florence, Ý. Hơn 150 nhà soạn nhạc đã sử dụng Rubaiyat làm nguồn cảm hứng của họ. Nhà soạn nhạc đầu tiên như vậy là Liza Lehmann.

Fitzgerald chuyển tên của Omar thành "Người làm túp lều", và cái tên được Anh ngữ hoá "Omar, người làm túp lều (Omar the Tentmaker)" đã gây được tiếng vang trong văn hóa đại chúng nói tiếng Anh trong một thời gian. Do đó, Nathan Haskell Dole đã xuất bản một cuốn tiểu thuyết có tên Omar, người làm túp lều: Một chuyện tình Ba Tư Cũ (Omar, the Tentmaker: A Romance of Old Persia) vào năm 1898. Omar, người làm túp lều của Naishapur (Omar the Tentmaker of Naishapur) là một cuốn tiểu thuyết lịch sử của John Smith Clarke, xuất bản năm 1910. "Omar the Tentmaker" cũng là tựa đề của một vở kịch năm 1914 do Richard Walton Tully lấy bối cảnh phương Đông, được chuyển thể thành phim câm năm 1922. Tướng Hoa Kỳ Omar Bradley được đặt cho biệt danh "Omar the Tent-Maker" (Omar người làm túp lều) trong Thế chiến thứ hai.

Bài tứ tuyệt Ngón tay chuyển động (The Moving Finger)

alt=A line of English translation of the Persian poetry of Omar Khayyam on one of the faculty buildings of Leiden University|thumb|Một dòng của bản dịch tiếng Anh của bài tứ tuyệt The Moving Finger. Các bài thơ Rubaiyat Ba Tư của Omar Khayyam trên một trong những toà nhà của khoa thuộc [[Trường đại học Leiden.]]

Bài thơ tứ tuyệt của Omar Khayyam được biết đến với tên gọi "Ngón tay Chuyển động" (The Moving Finger), theo bản dịch của nó bởi nhà thơ người Anh Edward Fitzgerald là một trong những bài tứ tuyệt nổi tiếng nhất trong vùng ngôn ngữ tiếng Anh. Martin Luther King cũng trích dẫn bài tứ tuyệt này của Omar Khayyam trong một bài diễn văn của ông "Beyond Vietnam: A Time to Break Silence" (Bên kia Việt Nam: Thời điểm để Phá vỡ Im lặng):

Trong bài diễn văn thứ lỗi cho vụ scandal Clinton–Lewinsky, tổng thống thứ 42 của Hoa Kỳ Bill Clinton cũng trích dẫn bài tứ tuyệt này.

Trong văn hoá đại chúng

Nhà văn người Pháp gốc Li-băng Amin Maalouf đã dựa vào ông để viết nửa đầu cuốn tiểu thuyết hư cấu lịch sử 'Samarkand_ về cuộc đời của Khayyam và quá trình tạo ra Rubaiyat của ông. Nhà điêu khắc Eduardo Chillida đã tạo ra bốn tác phẩm bằng sắt khổng lồ mang tên _Mesa de Omar Khayyam'' (Bàn của Omar Khayyam) vào những năm 1980.

Hố Mặt trăng Omar Khayyam được đặt tên để vinh danh ông vào năm 1970, cũng như tiểu hành tinh 3095 Omarkhayyam được nhà thiên văn Liên Xô Lyudmila Zhuravlyova phát hiện vào năm 1980.

Google đã phát hành hai Google Doodles để tưởng nhớ ông. Lần đầu tiên là vào sinh nhật lần thứ 964 của ông vào ngày 18 tháng 5 năm 2012. Lần thứ hai là vào sinh nhật lần thứ 971 của ông vào ngày 18 tháng 5 năm 2019.

Trưng bày

File:005-a-Ruby-kindles-in-the-vine-810x1146.jpg|"Một viên hồng ngọc trên cành nho", minh hoạ cho _Rubaiyat of Omar Khayyam_ của Fitzgerald bởi Adelaide Hanscom Leeson (khoảng 1905). File:At the Tomb of Omar Khayyam - by Jay Hambidge.jpg|"Tại lăng mộ Omar Khayyam" bởi Jay Hambidge (1911). File:Persian Scholar pavilion in Viena UN (Omar Khayyam).jpg|Tượng của Khayyam tại Văn phòng Liên Hợp Quốc tại Vienna như một phần của Đài điêu khắc các học giả Ba Tư (Persian Scholars Pavilion) được quyên tặng bởi Iran. File:Bucureşti - Omar Khayam 3.jpg|Tượng của Omar Khayyam tại Bucharest File:Madrid - Ciudad Universitaria, Monumento a Omar Jayyam 1.jpg|Tượng đài Omar Khayyam tại Trường đại học Ciudad của Madrid File:Bucureşti - Omar Khayam 2.jpg|Tượng Omar Khayyam tại Bucharest (từ góc khác) File:رساله_الدائره_-_عمر_بن_ابراهیم_الخیامی.png|Trang đầu tiên bản thảo Risālah fī qismah rub‘ al-dā’irah, Thư viện điện tử Grand Ayatollah Boroujerdi
👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Ghiyāth al-Dīn Abū al-Fatḥ ʿUmar ibn Ibrāhīm Nīsābūrī** (ngày 18 tháng 5 năm 1048 – ngày 4 tháng 12 năm 1131), thông thường được biết đến với tên gọi **Omar Khayyám** (),, là một nhà
Hình bìa một quyển Rubaiyat **Thơ Rubaiyat của Omar Khayyam** (tiếng Ba Tư: رباعیات عمر خیام) (tiếng Anh: Rubaiyat of Omar Khayyam) là tên gọi mà Edward FitzGerald đặt cho bản dịch thơ Omar Khayyam
Toán Học và Nghệ thuật Tái Bản Bức tranh Mona Lừa của Leonardo da Vinci được mệnh danh là bức tranh nổi tiếng nhất thế giới. Quyển truyện Alice ở xứ sở thần tiên của
thumb|Vệ tinh Khayyam được phóng bằng tên lửa Soyuz của Nga từ Sân bay vũ trụ Baikonur ở Kazakhstan.|border **Vệ tinh Khayyam** () là một vệ tinh quan sát có độ phân giải cao của
**Edward FitzGerald** hay Edward Fitzgerald (ngày 31 tháng 3 năm 1809 - ngày 14 tháng 6 năm 1883) là một nhà văn người Anh, được biết đến bởi bản dịch tiếng Anh đầu tiên và
**Vụ án Tamám Shud**, còn được gọi là **bí ẩn của người đàn ông Somerton**, là một vụ án chưa được giải quyết về cái chết của một người đàn ông không xác định
Carpe diem **Carpe diem** – thành ngữ Latin có nghĩa là "_Hãy sống với ngày hôm nay_"", đôi khi còn gọi là ""_Nắm bắt khoảnh khắc_" hoặc "_Nắm bắt thời điểm_", theo nghĩa bóng là
thumb|right|Một trang từ _[[Cuốn sách Súc tích về Tính toán bởi Hoàn thiên và Cân bằng_ của Al-Khwarizmi]] Toán học trong thời đại hoàng kim của Hồi giáo, đặc biệt là trong thế kỷ 9
A ruba'i of Omar Khayyam in Shikasta Nastaʿlīq **Rubai** hay **Ruba'i** (số nhiều là **Rubaiyat**, tiếng Ba Tư: رباعی, tiếng Anh: Ruba’i) – là một thể thơ trữ tình của Ba Tư gồm có bốn
thumb|Hình vẽ minh họa cho phát biểu gốc của Euclid về tiên đề song song. Trong hình học, **định đề song song** (tiếng Anh: _parallel postulate_) hay **định đề thứ năm của Euclid** do là
_[[Nhà thiên văn học (Vermeer)|Nhà thiên văn_, họa phẩm của Johannes Vermeer, hiện vật bảo tàng Louvre, Paris]] **Thiên văn học** là một trong những môn khoa học ra đời sớm nhất trong lịch sử
nhỏ| Vỉa hè nhô cao nằm bên cạnh con đường 2000 năm tuổi, [[Pompeii, Ý ]] **Vỉa hè** hay lối đi bộ là phần đường đi bộ dọc bên cạnh một con đường. Thông thường,
**Umm Kulthum** (, khai sinh , ; xem Kunya; Egyptian Arabic: **Om Kalsoum**). (khoảng 1900; 3 tháng 2 năm 1975). Cách phát âm khác gồm **Om Koultoum**, **Om Kalthoum**, **Oumme Kalsoum**, và **Umm Kolthoum**. Cô
**Đại số** là một nhánh của toán học nghiên cứu những hệ thống trừu tượng nhất định gọi là cấu trúc đại số và sự biến đổi biểu thức trong các hệ thống này. Đây
Ngày **4 tháng 12** là ngày thứ 338 (339 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 27 ngày trong năm. ## Sự kiện *794 – Heian-kyo thay thế Nagaoka-kyo trong vai trò thủ đô của
Đây là danh sách các nhà toán học nổi tiếng xếp theo thứ tự bảng chữ cái Latinh của chữ cái đầu tiên của họ. ## A 188x188px|Archimedes|thế=|phải|không_khung * Niels Henrik Abel - Na Uy
**Iran** ( **' ), quốc hiệu là **Cộng hòa Hồi giáo Iran** ( **' ), còn được gọi là **Ba Tư** (Persia), là một quốc gia tại khu vực Tây Á. Iran có biên giới
**Amin Maalouf** (, sinh năm 1949 ở Beirut) là nhà văn nổi tiếng người Liban viết tiếng Pháp, được trao tặng giải thưởng Goncourt năm 1993, đồng thời cũng là học giả nổi tiếng được
**Trại Họp bạn Hướng đạo Thế giới lần thứ 15** _(15th World Scout Jamboree)_ được dự định tổ chức vào tháng 7 năm 1979 bởi Iran ở Neyshâbûr, nhưng bị hủy bỏ vì bất ổn
**Baba Taher** còn gọi là **Baba Tahir** (tiếng Ba Tư: **بابا طاهر -**) (sống vào khoảng 1000 – 1055) là nhà thơ của giáo phái thần bí Ba Tư. Tên hiệu của Baba Taher là
_Hip hip hurra!_ Tranh vẽ [[Người Đan Mạch chúc rượu]] **Lời chúc rượu** (tiếng Anh: _toast_) là những lời nói trước khi chạm cốc và uống rượu trong những dịp lễ, hội, trong những cuộc
_Cuốn [[The Compendious Book on Calculation by Completion and Balancing_]] Từ _toán học_ có nghĩa là "khoa học, tri thức hoặc học tập". Ngày nay, thuật ngữ "toán học" chỉ một bộ phận cụ thể
phải|thumb|Đồ thị của hàm số bậc 3 có 3 nghiệm với 3 lần cắt trục hoành. Trong đại số, một **phương trình bậc ba** có một biến là một biểu thức có dạng: : ax^3+bx^2+cx+d=0
**3095 Omarkhayyam** (1980 RT2) là một tiểu hành tinh nằm phía ngoài của vành đai chính được phát hiện ngày 8 tháng 9 năm 1980 bởi L. Zhuravleva ở Nauchnyj. Tiểu hành tinh được đặt
**Những nụ hồng hãy nhanh tay góp nhặt** (tiếng Anh: _Gather Ye Rosebuds While Ye May_) – là một bức tranh do họa sĩ Anh John William Waterhouse sáng tác năm 1909. Đây là phiên
nhỏ|_Phiến đất sét Đại hồng thủy_ từ Sử thi Gilgamesh, lấy từ tàn tích thư viện Ashurbanipal, thế kỉ thứ 7 TCN, hiện đang trưng bày ở [[Bảo tàng Anh]] **_Sử thi Gilgamesh_** là một
Ấn bản "If" của [[Doubleday Page and Company, Garden City, New York, 1910.]] **_Nếu_** (tiếng Anh: **If**) (tên bản dịch tiếng Việt của Nguyễn Viết Thắng) – là bài thơ nổi tiếng nhất của Rudyard
Bài này nói về từ điển các chủ đề trong toán học. ## 0-9 * -0 * 0 * 6174 ## A * AES * ARCH * ARMA * Ada Lovelace * Adrien-Marie Legendre *
**Gilgamesh** (tiếng Akkad: 𒀭𒄑𒂆𒈦, _Gilgameš_; tiếng Sumer nguyên bản: 𒀭𒉋𒂵𒈩, _Bilgames_) là một vị vua trong lịch sử của thành bang Uruk của Sumer cổ đại, và là một nhân vật anh hùng trong thần
thumb|
Trụ sở Liên Hợp Quốc tại [[Viên trong
Trung tâm Quốc tế Viên, .
]] **Trụ sở Liên Hợp Quốc tại Viên**, viết tắt tiếng Anh **UNOV** (_United Nations Office at Vienna_) là một trong
phải|nhỏ|210x210px|Đồ thị của một hàm số bậc ba với 3 [[Nghiệm số|nghiệm số thực (tại đó đường đồ thị cắt trục hoành—thỏa mãn ). Hình vẽ cho thấy hai điểm cực trị. Phương trình của
**Andrew Lang** (31 tháng 3 năm 1844 – 20 tháng 7 năm 1912) là nhà thơ, tiểu thuyết gia và nhà phê bình văn học người Scotland. Ông cũng có đóng góp cho lĩnh vực
Là một nhánh của toán học, đại số phát triển vào cuối thế kỷ 16 ở châu Âu với công trình của François Viète. Đại số được xem xét một cách đáng chú ý như
Danh sách này không đầy đủ, nhưng liên tục được mở rộng và bao gồm **Các nhà thơ Ba Tư** cũng như các nhà thơ viết bằng tiếng Ba Tư tới từ Iran, Azerbaijan, I
**Lịch Jalali** là một bộ lịch mặt trời được biên soạn trong thời kỳ cai trị của Jalaluddin Malik-Shah I nhà Seljuk, theo chỉ thị của Nizam al-Mulk, thông qua việc sử dụng các quan
Sau đây là danh sách các nhà toán học người Iran bao gồm cả người thuộc các dân tộc Iran. ## A * Athir al-Din al-Abhari (?–1262/1265) * Abu Nasr-e Mansur (khoảng 960–1036) * Abū