✨Người Khiết Đan

Người Khiết Đan

Khiết Đan hay Khất Đan (chữ Hán: 契丹) là âm Hán-Việt tên gọi của một dân tộc du mục Khitan () (còn được phiên âm là Khitai hay Kidan), từng tồn tại ở Trung Á và Bắc Á. Dân tộc này từng phát triển thành tổ chức quốc gia Liêu quốc, tồn tại và kiểm soát phía bắc Trung Quốc giai đoạn 907-1125. Sau khi bị người Nữ Chân đánh bại, họ chuyển sang phía tây và giữ được tổ chức nhà nước, được sử Trung Quốc gọi là Tây Liêu, các tài liệu phương Tây gọi là Hãn quốc Kara Khitai. Vương quốc này tồn tại từ 1125 cho đến khi bị đế quốc Mông Cổ tiêu diệt vào năm 1218.

Nguồn gốc tên gọi

Các tài liệu sử của Trung Quốc cho rằng nguồn gốc của dân tộc Khiết Đan bắt nguồn từ một nhánh du mục Đông Hồ hoặc Hung Nô. Sách Ngụy thư lần đầu tiên ghi nhận, vào thời Bắc Ngụy, người Khiết Đan là một dân tộc thượng võ, dũng mãnh, phát triển mạnh lên và di chuyển địa bàn sinh sống này dọc theo vùng thượng lưu sông Liêu.

Tuy nhiên, có rất nhiều giả thuyết về từ gốc tên gọi Khiết Đan. Chủ yếu có 3 giả thuyết cơ bản. Thuyết của Feng Jiasheng (Bằng Gia Sinh?) cho rằng nguyên tên Khitan là biến âm của tên một tộc du mục khác là tộc Yuwen (Vũ Văn). Zhao Zhenji (Triệu Chấn Kỷ?) thì cho rằng từ nguyên Khitan có nguồn gốc từ tiếng Xianbei (Tiên Ti) với ý nghĩa là "vùng đất của người Tiên Ti". Học giả người Nhật Otagi Matuo coi tên gốc Khiết Đan là "Xidan ", có nghĩa là "những người tương tự như người Hề" hay "những người sống ở đất Hề" .

Từ Китай trong tiếng Nga, Cathay trong tiếng Anh, Catai trong tiếng Bồ Đào Nha, Catay trong tiếng Tây Ban Nha đều có nghĩa "Trung Quốc" và đều bắt nguồn từ tên gọi của dân tộc này.

Lịch sử

Hình thành và phát triển

Từ các giả thuyết trên đã dẫn đến những giả thuyết khác biệt về sự hình thành của dân tộc Khiết Đan. Phổ biến nhất là người Khiết Đan vốn xuất phát từ tộc Tiên Ti, sau đó hình thành như một bộ lạc nhánh của tộc Khố Mặc Hề (Kumo Xi), sinh sống ở lưu vực sông Hoàng Thủy thuộc thượng du sông Liêu (ngày nay là sông Tây Thích Mục Luân của vùng Nội Mông). Đến năm 388, họ phát triển hùng mạnh và chinh phục các bộ lạc xung quanh. Cùng với sự phát triển của tộc Tiên Ti trở thành vương triều Bắc Ngụy, kiểm soát miền Bắc Trung Quốc, tộc Khiết Đan cũng trở nên hùng mạnh và được ghi nhận lần đầu trong lịch sử.

Thời kỳ liên minh bộ lạc

Suốt từ thế kỷ thứ 5 đến thế kỷ thứ 7, người Khiết Đan thường xuyên bị sự chèn ép từ phía Nam (các triều đình Bắc triều, nhà Tùy, nhà Đường). Thời vua Đường Thái Tông, chính quyền nhà Đường đã thiết lập Tùng Mạc Đô đốc phủ ở đây, đồng thời ban cho thủ lĩnh của họ (một người họ Lý) đảm nhận chức Đô đốc. Vào thế kỷ thứ 8 và thứ 9, tộc Khiết Đan dần dần lớn mạnh nhưng vẫn bị các dân tộc hùng mạnh lân cận ở phía Tây (Đột Quyết, Duy Ngô Nhĩ, thậm chí từ vương quốc Cao Câu Ly ở phía Đông, khống chế và gây áp lực. Để chống lại, từ những bộ lạc du mục nhỏ, sinh sống bằng chăn nuôi và đánh bắt cá, họ đã liên kết với nhau thành một liên minh 8 bộ lạc lớn. Cuối đời Đường, khi mà vùng Trung Nguyên bắt đầu bị chiến tranh loạn lạc thì người Khiết Đan nhân cơ hội này vùng dậy, trở thành một thế lực rất hùng mạnh ở vùng đất hoang vu phía Bắc (vùng Nội Mông), thường xuyên xâm nhập vào miền Bắc Trung Quốc để bắt người Hán về làm ruộng và thu thuế. Người Khiết Đan cũng bắt đầu học hỏi bắt chước người Hán cách thức tổ chức chính quyền và sáng chế văn tự.

Lập quốc và cường thịnh

Bản đồ vị trí giữa [[Nhà Liêu|Liêu, Tống và Tây Hạ.]] Năm 907, một thủ lĩnh của bộ lạc Điệt Thích tên là Da Luật A Bảo Cơ được bầu là thủ lĩnh của liên minh 8 bộ lạc. Sau khi nắm quyền thủ lĩnh tối cao, A Bảo Cơ đã dùng vũ lực để thống nhất 8 bộ lạc Khiết Đan, đồng thời xâm chiếm đất Đột Quyết, tiêu diệt tộc Hề, thu phục các bộ lạc nhỏ xung quanh. Năm 916, A Bảo Cơ tự xưng đế kiến quốc, xây dựng một quốc gia chủ nô - nô lệ. Quốc gia Khiết Đan được thành lập, ban đầu có quốc hiệu là Khiết Đan (916-947), sau đấy đổi quốc hiệu là Đại Liêu (947-983), rồi trở lại thành Khiết Đan (983-1066), cuối cùng lại trở lại là Liêu 1066 cho đến khi diệt vong.

Quốc gia Khiết Đan non trẻ nhanh chóng cường thịnh, nhiều lần xâm nhập Trung Nguyên, thậm chí từng đem quân tiêu diệt Hậu Đường (936), Hậu Tấn (947), tấn công Hậu Hán (950), Hậu Chu (951). Trong thời kỳ cường thịnh nhất, dân tộc này từng là chủ nhân của một đế quốc rộng lớn bao trùm cao nguyên Mông Cổ và phía Bắc Trung Quốc, phía Bắc tới tận hồ Baikal, phía Đông sát Sakhalin, phía Tây vượt dãy núi Altai, phía Nam tới các tỉnh Hà Bắc, Sơn Tây ngày nay.

Do quản lý một quốc gia rộng lớn với nhiều sắc tộc khác nhau, người Khiết Đan đã hình thành một chính sách nổi tiếng về sau: "Một quốc gia, hai chế độ". Chính sách này được tóm tắt bằng câu "Dĩ Quốc chế trị Khiết Đan, dĩ Hán chế đãi Hán nhân" (已國制治契丹,已漢制待漢人). Quản lý người Khiết Đan thì dựa theo chế độ quý tộc bộ lạc Khiết Đan, quản lý người Hán thì dựa theo thể chế nhà Đường. Chính sách này đã đem lại hiệu quả to lớn, đặc biệt vào đầu thế kỷ 11, quốc gia Khiết Đan đã chuyển đổi hoàn toàn từ chế độ nô lệ sang chế độ phong kiến. Quân đội Khiết Đan hùng mạnh, liên tục uy hiếp Bắc Tống và Tây Hạ, buộc hai quốc gia này phải thần phục.

Suy tàn và diệt vong

Đầu thế kỷ thứ 12, nước Liêu bước vào giai đoạn suy tàn. Năm 1114, một thủ lĩnh của tộc người Nữ Chân là Hoàn Nhan A Cốt Đả, liên kết với Bắc Tống, mang đại quân cướp đất Đại Liêu, một năm sau dựng nên nhà Kim. Nhà Kim đã hạ lệnh giết sạch những người Khiết Đan phản kháng, trong đó có một cuộc chém giết kéo dài hơn 1 tháng. Đến năm 1125 thì hầu hết lãnh thổ Khiết Đan đã bị người Nữ Chân chinh phục. Một bộ phận dân tộc Khiết Đan ở lại lãnh thổ của họ, hòa huyết với người Nữ Chân. Một bộ phận người Khiết Đan khác theo hoàng thân Da Luật Đại Thạch di tản về phía Tây, dựng nên nước Ha Lạt Khiết Đan tức triều Tây Liêu ở giữa Trung Á và Tân Cương. Nước này cũng có một thời cường thịnh nhưng cuối cùng bị đại quân đế quốc Mông Cổ của Thành Cát Tư Hãn tiêu diệt. Những tàn dân Khiết Đan lại chạy về miền Nam của Iran ngày nay lập nên vương triều Khởi Nhi Man (Qierman). Không lâu sau, vương triều này cũng tàn lụi. Dưới sự cai trị của Mông Cổ, các cuộc chinh chiến liên miên khiến cho tộc người thiện chiến Khiết Đan phần lớn bỏ thây nơi chiến địa, số còn lại phân tán khắp nơi và nhanh chóng bị dân cư địa phương đồng hóa.

Hậu duệ của dân tộc Khiết Đan

Khiết Đan từng là một dân tộc lớn nhưng lại không có tên trong số 56 dân tộc Trung Quốc ngày nay. Tuy nhiên bằng phương pháp so sánh phương thức sản xuất, sinh hoạt, tập tục, tôn giáo, ngôn ngữ, lịch sử và dùng kỹ thuật DNA các học giả đã chứng minh tộc người Đạt Oát Nhĩ (Dawr) cư trú tại vùng tiếp giáp giữa Đại Hưng An, Nộn Giang và thảo nguyên Hô Luân Bối Nhĩ (Hulunbeier) chính là hậu duệ của dân tộc Khiết Đan.

Văn hóa và chữ viết

Dân tộc Khiết Đan từng sáng tạo ra chữ viết của riêng mình. Khi triều Kim vừa kiến lập, do tộc Nữ Chân không có văn tự riêng nên phải dùng chữ Hán và chữ Khiết Đan. Sau khi văn tự Nữ Chân được tạo ra thì hoàng đế triều Kim hạ lệnh phế bỏ chữ Khiết Đan, chính vì thế mà văn tự Khiết Đan thất truyền.

Dân tộc Khiết Đan từng xây dựng được một nền văn hóa rực rỡ. Thể hiện rõ nét nhất nền văn hóa này là những chùa Liêu và tháp Liêu. Hiện ở khu vực phía bắc Hoàng Hà còn chùa Cổ Phật và Phật tháp nguy nga hùng vĩ của dân tộc Khiết Đan. Trải qua ngàn năm mưa gió nó vẫn uy nghi, vững chãi như mới. Đặc biệt, tháp Thích Ca ở huyện Ứng, tỉnh Sơn Tây hiện nay là kiến trúc tháp bằng gỗ cổ nhất và cao nhất thế giới. Dù đã trải qua nhiều trận động đất mạnh mà vẫn không bị hư hỏng.

Ngôn ngữ Khiết Đan (còn gọi là Liêu, Kitan [ISO 639-3]) ngày nay gần như tuyệt chủng giống như sự tồn tại của những người Khiết Đan.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Khiết Đan** hay **Khất Đan** (chữ Hán: _契丹_) là âm Hán-Việt tên gọi của một dân tộc du mục **Khitan** () (còn được phiên âm là **Khitai** hay **Kidan**), từng tồn tại ở Trung Á
**Tiếng Khiết Đan** hay **tiếng Khất Đan** (Tập tin:Khitan (Large Script).svg khi viết bằng đại tự Khiết Đan và Tập tin:Khitan (Small Script).svg khi viết bằng tiểu tự Khiết Đan, _Khitai_; , _Qìdānyǔ_), cũng gọi
**Đông Đan** (926-936) (東丹, tiếng Khiết Đan:**Dan Gur**, Hán tự: 东丹, Hangul:동단) là một vương quốc do người Khiết Đan lập nên để kiểm soát địa hạt của vương quốc Bột Hải, phía đông Mãn
**Người Daur**, hay **người Đạt Oát Nhĩ** (Phồn thể: 達斡爾族, Giản thể: 达斡尔族, Bính âm: Dáwò'ěr zú, Hán Việt: Đạt Oát Nhĩ tộc) cũng từng được gọi là _"Dahur"_ là một trong 56 dân tộc
**Chiến tranh Tống-Khiết Đan** còn được gọi là **Chiến tranh Tống-Liêu** (1004 - 1005) chỉ các cuộc giao tranh giữa quân đội Bắc Tống và Khiết Đan trong năm 1004 ở khu vực phía bắc
nhỏ|phải|Những [[chiến binh người Hung]] **Nguồn gốc người Hung** (_Origin of the Huns_) và mối quan hệ của tộc người Hung này với những giống dân khác được nhắc đến trong các nguồn sử liệu
Người **Naiman** hay còn gọi là Nãi Man (Tiếng Mông Cổ: Найман/Naiman; Tiếng Kazakh: Найман; Tiếng Uzbek: Nayman) là một bộ tộc Mông Cổ (Đông Hãn quốc Đột Quyết), họ là một trong những bộ
**Gia Luật Đại Thạch** (耶律大石 Yēlǜ Dàshi) hay _Gia Luật Đạt Thực_ (耶律達實 Yēlǜ Dáshí) là người sáng lập nên vương triều Tây Liêu. Trong các tài liệu Hồi giáo, ông được biết đến với
**Người Khắc Liệt** (cũng gọi là _Kerait, Kereit, Khereid_; ) là một trong năm bộ tộc chiếm ưu thế trong liên minh bộ lạc Mông Cổ thống trị ở vùng Altai-Sayan trong giai đoạn thế
**Người Mãn** hay **Người Mãn Châu** hoặc **Người Nữ Chân** (tiếng Mãn: , _Manju_; tiếng Mông Cổ: Манж, tiếng Nga: Маньчжуры; tiếng Trung giản thể: 满族; tiếng Trung phồn thể: 滿族; bính âm: Mǎnzú;
**Nhà Liêu** hay **Liêu triều** ( 907/916-1125), còn gọi là nước **Khiết Đan** (契丹國, đại tự Khiết Đan: Tập tin:契丹國.png) là một triều đại phong kiến do người Khiết Đan kiến lập trong lịch sử
**Tiêu Phong** (Chữ Hán: 萧峯) hay **Kiều Phong** (喬峰), là nhân vật chính trong ba nhân vật tiêu biểu (Kiều Phong, Đoàn Dự, Hư Trúc) của tiểu thuyết kiếm hiệp Thiên Long Bát Bộ do
**Dương Khiết** (chữ Hán: **楊潔**, bính âm: **Yáng Jié**, tiếng Anh: **Yang Jie**; 7 tháng 4 năm 1929 – 15 tháng 4 năm 2017) là một nữ đạo diễn người Trung Quốc. Bà sinh ra
MÔ TẢ SẢN PHẨMMẫu thử nước hoa mini 2ml Xin giới thiệu với các bạn các mẫu thử nước hoa toàn mùi nước hoa nổi tiếng để các bạn thoải mái dùng thử. Shop nhập
nhỏ| Một vũ hội của người Digan **Người Digan** hoặc **người Rom** là một dân tộc thuộc nhóm sắc tộc Ấn-Arya, sống thành nhiều cộng đồng ở tại các quốc gia trên khắp thế giới.
**Hội họa dân gian Việt Nam** là thuật ngữ mô tả một loại hình mỹ thuật dân gian đã hiện diện từ rất lâu đời tại Việt Nam và thường được sáng tác bởi các
**Người Mã Lai** hay **Người Malay** (; chữ Jawi: ملايو) là một dân tộc Nam Đảo nói Tiếng Mã Lai chủ yếu sinh sống trên bán đảo Mã Lai cùng các khu vực ven biển
**_Huyền thoại người hóa sói_** (tên gốc tiếng Anh: **_Wolfwalkers_**) là phim điện ảnh hoạt hình phiêu lưu kỳ ảo năm 2020 do Tomm Moore và Ross Stewart đạo diễn. Đây là tác phẩm thứ
thumb|Bản đồ thời [[nhà Chu gồm Hoa Hạ bao quanh là _Tứ Di_: Đông Di, Bắc Địch, Tây Nhung và Nam Man]] nhỏ|_Tứ di_: [[Nam Man (南蠻) ở phía nam; Đông Di (東夷) ở phía
**Mông Cổ** (, _Mongolchuud_, ) định nghĩa là một hay một vài dân tộc, hiện nay chủ yếu cư trú tại Trung Quốc, Mông Cổ và Nga. Ước tính có khoảng 11 triệu người Mông
- Nước hoa Armaf Club De Nuit Intense For Man 105ml là chai nước hoa dành cho nam huyền bí đầy mạnh mẽ cá tính từ hãng Armaf.- Armaf Club De Nuit Intense biến một
Nước hoa Armaf Club De Nuit Intense For Man 105ml là chai nước hoa dành cho nam huyền bí đầy mạnh mẽ cá tính từ hãng Armaf. - Armaf Club De Nuit Intense biến một
**Đại Quang Hiển** (, ? ~ ?) là vị thái tử cuối cùng của vương quốc Bột Hải, là con trai cả của quốc vương Đại Nhân Soạn. Ông đã lãnh đạo những người tị
**Liêu Thái Tổ** () (872-926), tên là **Gia Luật A Bảo Cơ** (**_Yelü Abaoji_**, 耶律阿保機), phiên âm tiếng Mongol: _Ambagyan_, Hán danh là **Gia Luật Ức** (耶律亿), nhũ danh **Xuyết Lý Chích** (啜里只), là vị
**Tiêu Xước** (萧綽, 953–1009), hay **Tiêu Yến Yến** (萧燕燕), là một hoàng hậu, hoàng thái hậu và chính trị gia triều Liêu. Bà là hoàng hậu của Liêu Cảnh Tông, và sau khi Cảnh Tông
**Tây Liêu** () (1124 hoặc 1125-1218), hay còn gọi là **Hãn quốc Kara-Kitai** () hay **Tây Khiết Đan** quốc hiệu chính thức là **Đại Liêu** (), là một nhà nước của người Khiết Đan ở
**Đường Huyền Tông** (chữ Hán: 唐玄宗, bính âm: Xuánzōng ; 8 tháng 9, 685 tên thật là **Lý Long Cơ**, có thời điểm gọi là **Võ Long Cơ** () trong giai đoạn 690 - 705,
**Lý Tự Nguyên** (李嗣源, sau đổi thành **Lý Đản** (李亶)) (10 tháng 10 năm 867), còn được gọi theo miếu hiệu là **Hậu Đường Minh Tông** ( 后唐明宗), là hoàng đế thứ hai của nhà
**Phong trào Thánh khiết** qui tụ các tín hữu Cơ Đốc là những người xác tín và rao giảng đức tin cho rằng "bản chất xác thịt" của con người có thể được thanh tẩy
**Lý Khắc Dụng** (chữ Hán: 李克用, 856-908), vốn có họ **Chu Tà** (chữ Hán: 朱邪), còn đọc là Chu Gia hay Chu Da (chữ Hán: 朱爷). Ông là danh tướng cuối đời nhà Đường, người
**Trịnh Sách Khiết** (hoặc **Trịnh San Khiết**, tiếng Trung giản thể: 郑栅洁, bính âm Hán ngữ: _Zhèng Zhà Jié_, tiếng Latinh: _Zheng Zhajie_; sinh ngày 10 tháng 11 năm 1961, người Hán) là chính trị
**Võ Tắc Thiên** (chữ Hán: 武則天, 624 - 16 tháng 12, 705) hay **Vũ Tắc Thiên**, thường gọi **Võ hậu** (武后) hoặc **Thiên hậu** (天后), là một phi tần ở hậu cung của Đường Thái
[[Tập tin:五代后晋、后汉时形势图(繁).png| Sau năm 945, lãnh thổ nước Mân trước đây bị phân chia giữa Nam Đường, Ngô Việt và Thanh Nguyên quân
]] **Nhà Hậu Tấn** (936-947) là một trong năm triều đại,
**Đường Cao Tông** (chữ Hán: 唐高宗, 21 tháng 7 năm 628 - 27 tháng 12 năm 683) là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc, trị vì
**Tiết Lễ** (薛禮, 613-683), tự **Nhân Quý** (仁貴), là một danh tướng thời nhà Đường, phục vụ qua 2 triều vua Đường Thái Tông và Đường Cao Tông. Ông được biết đến nhiều bởi hình
**Vương Thanh** (chữ Hán: 王清, 894 – 946) tự Khứ Hà, người Khúc Chu, Minh Châu , tướng lãnh nhà Hậu Tấn đời Ngũ Đại trong lịch sử Trung Quốc. ## Sự nghiệp Cha là
**Vương Đô** () (?- 26 tháng 3 năm 929), nguyên danh **Lưu Vân Lang** (劉雲郎), là một quân phiệt vào thời Ngũ Đại Thập Quốc tại Trung Quốc. Ông giữ chức Nghĩa Vũ tiết độ
**Lương Khiết** (Tiếng Trung giản thể: 梁洁, bính âm: Liáng Jié; tiếng Anh: **Liang Jie**, sinh ngày 16 tháng 6 năm 1994), là nữ diễn viên truyền hình người Trung Quốc. Cô được biết đến
**Mạnh Sưởng** () (919–12 tháng 7, 965), sơ danh **Mạnh Nhân Tán** (孟仁贊), tự **Bảo Nguyên** (保元), được Tống Thái Tổ truy thụy hiệu là **Sở Cung Hiếu Vương** (楚恭孝王), là hoàng đế thứ hai
**Bảo Tạng Vương** (trị vì 642–668) là vị quốc vương thứ 28 và cuối cùng của Cao Câu Ly, vương quốc cực bắc trong Tam Quốc Triều Tiên. Ông được lãnh đạo quân sự Uyên
**AlphaGo đấu với Kha Khiết (Ke Jie)** là một trận đấu cờ vây ba ván giữa phần mềm máy tính chơi cờ vây AlphaGo và nhà vô địch cờ vây thế giới Kha Khiết trong
[[Tập tin:五代后晋、后汉时形势图(繁).png| Sau năm 945, lãnh thổ nước Mân trước đây bị phân chia giữa Nam Đường, Ngô Việt và Thanh Nguyên quân
]] **Nhà Hậu Hán** (後漢) được thành lập năm 947. Đây
Nước hoa Armaf Club De Nuit Intense For Man 105ml là chai nước hoa dành cho nam huyền bí đầy mạnh mẽ cá tính từ hãng Armaf Ả Rập. Armaf Club De Nuit Intense biến
nhỏ|Ông lão người do thái Ashkenazi **Người Do Thái Ashkenazi** ( ), hay còn gọi là **Ashkenazic Do Thái** trong tiếng Hebrew số nhiều có hậu tố _-im,_ **Ashkenazim** là một Cộng đồng người Do
**Hung Nô** () là các bộ lạc du cư ở khu vực Trung Á, nói chung sinh sống ở khu vực thuộc Mông Cổ ngày nay. Từ thế kỷ III TCN họ đã kiểm soát
**Liêu Thế Tông** (chữ Hán: 遼世宗; 25 tháng 12, 918-4 tháng 9, 951 (Âm lịch), 29 tháng 1, 919-7 tháng 10, 951), tên thật là **Gia Luật Nguyễn**, tự **Ngột Dục**, là vị hoàng đế
**Dương Khiết Trì** (sinh ngày 1 tháng 5 năm 1950) là chính trị gia và nhà ngoại giao cao cấp người Trung Quốc. Ông hiện là Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ nhiệm Văn phòng
**Bắc Tề Văn Tuyên Đế** (北齊文宣帝) (526–559), tên húy là **Cao Dương** (高洋), tên tự **Tử Tiến** (子進), miếu hiệu là Hiển Tổ, là vị hoàng đế khai quốc của triều đại Bắc Tề trong
**Trương Tuấn** (chữ Hán: 張浚, 1097 – 1164), tên tự là **Đức Viễn**, hiệu là **Tử Nham cư sĩ**, người Miên Trúc, Hán Châu , là Ngụy Trung Hiến công, tể tướng nhà Nam Tống,
nhỏ|Một tảng đá hình rùa _[[bí hí_ nguyên được dựng trên phần mộ của Hoàn Nhan A Tư Khôi (完颜阿思魁, ?-1136), một trong những tướng của A Cốt Đả. Vốn được đặt gần Ussuriysk ngày