✨Mikoyan-Gurevich MiG-9

Mikoyan-Gurevich MiG-9

Mikoyan-Gurevich MiG-9 (tiếng Nga: Микоян и Гуревич МиГ-9, tên ký hiệu của NATO: Fargo) (không phải là bản phát triển từ MiG-3 cũng được gọi là "MiG-9") là máy bay đầu tiên trong thế hệ máy bay sử dụng động cơ tua bin tạo lực đẩy dưới dạng luồng khí phụt ra và cũng là chiếc máy bay chiến đấu đầu tiên được phát triển ngay sau chiến tranh thế giới thứ II.

Phát triển

MiG-9 được phát triển từ nguyên mẫu máy bay I-300 (cũng còn được gọi là izdeliye F {mẫu F hay sản phẩm F} bởi OKB), nó bay lần đầu vào ngày 24 tháng 4 năm 1946 do phi công Alexei N. Grinchik điều khiển. I-300 đã trở thành máy bay phản lực thực sự đầu tiên của Nga, nó chỉ bay trước Yakovlev Yak-15 có 1 giờ.

I-300 được thiết kế hoàn toàn bằng kim loại, với động cơ được đặt sau buồng lái ở phía dưới thân máy bay, ống xả khí nằm ngay dưới đuôi. Thiết kế này thường được các OKB của Liên Xô sử dụng cho các mẫu máy bay phản lực đầu tiên. Với thiết kế này đã nảy sinh một số vấn đề như bảo vệ bộ phận đuôi khỏi luồng khí nóng phát ra từ động cơ, và người ta đã sử dụng biện pháp đặt các tấm thép cán mỏng chịu nhiệt đặt dưới đuôi.

I-300 có thiết kế cánh thẳng đơn giản với những cánh tà được xẻ rãnh, và cánh đuôi có hình tam giác. Chú ý là I-300 là một trong những thiết kế máy bay tiêm kích đầu tiên của Liên Xô có bộ bánh đáp ba bánh.

Động cơ gồm 2 động cơ phản lực tua bin RD-20, đây là bản sao chép của động cơ BMW 003 do Đức chế tạo, được Liên Xô thu giữ sau chiến tranh. Trong một số trường hợp vì thiếu động cơ RD-20, nên những động cơ BMW 003 vẫn được sử dụng trên một số sản phẩm máy bay

I-300 có 4 thùng đựng nhiên liệu kiểu túi trong thân và 3 ở mỗi cánh, cho phép máy bay mang được tổng số nhiên liệu là 1.625 lít (429 US gallon).

Trong khi kế hoạch trang bị vũ khí cơ bản dựa trên pháo 37 mm NL-37 đặt ở giữa thân, thì phiên bản sản xuất của MiG-9 lại được trang bị vũ khí thường là 1 khẩu pháo 37 mm và 2 khẩu pháo NS-23 23 mm. Cách bố trí 3 khẩu pháo cũng khác thường, với khẩu NL-37 đặt ở giữa trước khe hút không khí của động cơ, và hai khẩu pháo nhỏ hơn đặt thấp hơn miệng hút không khí của động cơ. Cách thiết kế khác thường này của khẩu pháo hạng nặng đã đẩy ra những nghi ngờ là nguyên nhân gây ra vài cái chết của những phi công.

Điểm khác thường nữa là I-300 không có ghế phóng dành cho phi công. MiG-9 tại bảo tàng Monino I-300 đặt đến tốc độ 565 mph (910 km/h) trong những thử nghiệm ban đầu, và sau những cải tiến, sửa đổi I-300 bắt đầu hoạt động trong biên chế của Không quân Xô viết với tên gọi MiG-9 trong mùa đông 1946-1947. Chiếc máy bay phản lực này có khá nhiều điều gây phiền toái và những vấn đề liên quan đến thiết bị lái, tuy nhiên nó vẫn được đưa vào sử dụng vì những cân nhắc chính trị. Những cân nhắc chính trị là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cái chết của phi công thử nghiệm Alexei N. Grinchik vào ngày 11 tháng 7-1946, khi anh gặp tai nạn với nguyên mẫu I-300 trong khi đang bay trình diễn cho những người đứng đầu VVS và quan chức chính phủ xem.

Sản phẩm MiG-9 có tên ký hiệu của NATO là "Fargo" và tên gọi của Liên Xô là I-301.

Những đồ án sau này của MiG-9 cố gắng giải quyết những vấn đề đã nảy sinh với I-300, bao gồm lắp một bộ thăng bằng hình chữ nhật cho nòng pháo 37 mm, dẫn đến tên gọi "The Butterfly", tuy nhiên không có cố gắng nào tiến triển tốt. Cuối cùng, toàn bộ phần mũi được thiết kế lại với nóng pháo được chuyển ra sau khe hút không khí của động cơ và với buồng lái được chuyển ra phía trước. Kết quả là MiG-9M một chỗ ngồi, nó có ghế phóng dành cho phi công và động cơ RD-21, RD-21 là phiên bản có khả năng đốt nhiên liệu phụ trội của RD-20 / BMW-003.

MiG-9 được dùng cho vai trò tấn công mặt đất và 598 chiếc đã được chế tạo với các phiên bản khác nhau cho đến cuối năm 1948.

Các phiên bản

  • I-300: mẫu đầu tiên
  • MiG-9 (F): "aircraft F" - sử dụng động cơ RD-20
  • MiG-9 (FP): "aircraft FP", I-302 - mẫu máy bay với sự giảm bớt vũ khí
  • MiG-9 (FL): "aircraft FL", I-305 - biến thể với động cơ Lyulka TR-1A nhưng không thành công
  • MiG-9 (FF): "aircraft FF", I-307 - mẫu máy bay với động cơ RD-20F hoặc RD-21
  • MiG-9L: nguyên mẫu máy bay thử nghiệm hệ thống điện tử hàng không cho tên lửa hành trình chống tàu phóng từ máy bay Raduga KS-1 Komet.
  • MiG-9M (FR): "aircraft FR", I-308 - mẫu máy bay giảm nhẹ trọng lượng với động cơ RD-21
  • MIG-9UTI: máy bay huấn luyện 2 chỗ

Quốc gia sử dụng

  • Liên bang Xô viết ** Không quân Xô viết
  • Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ** Không quân Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc

Thông số kỹ thuật

phải

Thông số riêng

  • Phi đoàn: 1
  • Dài: 9.83 m (32 ft 3 in)
  • Sải cánh: 10 m (32 ft 10 in)
  • Cao: 3.22 m (10 ft 7 in)
  • Diện tích cánh: 18.20 m² (195.9 ft²)
  • Trọng lượng rỗng: 3.420 kg (7.540 lb)
  • Trọng lượng cất cánh: 4.965 kg (10.945 lb)
  • Trọng lượng tối đa: 5.500 kg (12.125 lb)
  • Động cơ: 2x Kolesov RD-20 động cơ phản lực, công suất 7.8 kN (lbf) cho mỗi động cơ

Hiệu suất bay

  • Vận tốc cực đại: Mach 0.8, 910 km/h (565 mph) trên độ cao 4.500 m (14.765 ft)
  • Tầm hoạt động: 800 km (495 mi)
  • Trần bay: 13.000 m (42.650 ft)
  • Tốc độ bay lên: 19.4 m/s (3.815 ft/min)
  • Lực đẩy/ trọng lượng: 0.40 (kN/kg)

Vũ khí

  • 1x pháo 37 mm NL-37
  • 2x pháo 23 mm NS-23
👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Mikoyan-Gurevich **MiG-9** (tiếng Nga: Микоян и Гуревич МиГ-9, tên ký hiệu của NATO: _Fargo_) (không phải là bản phát triển từ MiG-3 cũng được gọi là "MiG-9") là máy bay đầu tiên trong thế hệ
Mikoyan-Gurevich **MiG-15** (tiếng Nga: Микоян и Гуревич МиГ-15) (tên ký hiệu của NATO đặt là "**Fagot**") là một máy bay tiêm kích phản lực thế hệ thứ nhất của Liên Xô do Artem Mikoyan và
**Mikoyan-Gurevich MiG-23** (tiếng Nga: Микоян и Гуревич МиГ-23; tên ký hiệu của NATO: "**Flogger**") là một loại máy bay tiêm kích cánh cụp cánh xòe, được thiết kế bởi phòng thiết kế Mikoyan-Gurevich OKB của
**Mikoyan-Gurevich MiG-21** (tiếng Nga: Микоян и Гуревич МиГ-21) (tên ký hiệu của NATO: **Fishbed** - **Cá hóa thạch**) là một máy bay tiêm kích phản lực, được thiết kế bởi phòng thiết kế Mikoyan, Liên
**Mikoyan-Gurevich MiG-3** (Tiếng Nga: Микоян и Гуревич **МиГ-3**) là một loại máy bay tiêm kích của Liên bang Xô-viết trong Chiến tranh thế giới II. Nó được phát triển từ MiG-1 bởi OKO (opytno-konstrooktorskiy otdel
Mikoyan-Gurevich **MiG-19** (tiếng Nga: Микоян и Гуревич МиГ-19) (tên ký hiệu của NATO là "**Farmer**" - **Nông dân**) là máy bay tiêm kích phản lực thế hệ thứ hai của Liên Xô, một chỗ ngồi,
Máy bay tiêm kích Mikoyan-Gurevich **MiG-1** (Tiếng Nga: Микоян-Гуревич МиГ-1) được sử dụng trong không quân Liên Xô trong Chiến tranh thế giới thứ II. Mặc dù nó bị coi là gây khó khăn cho
**Mikoyan-Gurevich MiG-17** (tiếng Nga: Микоян и Гуревич МиГ-17; Tên ký hiệu của NATO: **Fresco**) là một máy bay tiêm kích phản lực cận âm sản xuất bởi Liên Xô, được đưa vào sử dụng từ
**Mikoyan-Gurevich MiG-25** (tiếng Nga: МиГ-25) (tên ký hiệu của NATO: "**Foxbat**") là một máy bay tiêm kích đánh chặn, trinh sát và ném bom siêu thanh thế hệ 3, được thiết kế bởi Phòng thiết
**Mikoyan-Gurevich MiG-8** (tiếng Nga: Микоян и Гуревич МиГ-8 «Утка») là một loại máy bay thí nghiệm của Liên Xô năm 1945. Tên gọi khác là **Utka** (Vịt), nó có một thiết kế lạ thường với
**Mikoyan-Gurevich Ye-152A** (tên ký hiệu của NATO **Flipper** - Bàn tay) là một mẫu máy bay thử nghiệm của Liên Xô, đây là mẫu máy bay thử nghiệm được phát triển dựa trên máy bay
**Mikoyan-Gurevich I-270** (thiết kế **Ж** ("Zh"), hay MiG I-270 là một thiết kế máy bay quân sự Liên Xô của Viện thiết kế Mikoyan-Gurevich, (Không quân Hoa Kỳ gọi nó với cái tên "Type 12")
Mikoyan-Gurevich **DIS** (Tiếng Nga: _Дальний истребитель сопровождения_ - máy bay tiêm kích hộ tống tầm xa) là một mẫu máy bay chiến đấu của Liên Xô trong chiến tranh thế giới thứ II. Nó được
**Mikoyan-Gurevich Ye-2** (tiếng Nga: Е-2), còn có các tên **Ye-2A1**, **Ye-2A2** (tên ký hiệu của NATO **"Tấm xoay"**), là một loại máy bay thử nghiệm trong chương trình chế tạo máy bay chiến thuật có
**YE-8** (tiếng Nga: ОКБ Микояна Гуревича Е-8) là một loại máy bay thử nghiệm được phát triển bởi phòng thiết kế máy bay Mikoyan và Gurevich, Liên Xô, là một máy bay thử nghiệm nằm
Trong chiến tranh thế giới thứ II, với sự xuất hiện Me-262 của Đức quốc xã đã khiến Liên Xô bị phá sản chương trình phát triển máy bay chiến đấu có hiệu suất cao
**Mikoyan-Gurevich Ye-152P** là mẫu máy bay chiến đấu thử nghiệm tiên tiến của Liên Xô, loại máy bay này được phát triển dựa trên MiG-21 và được dùng để thiết lập các kỷ lục bay
**Mikoyan-Gurevich SN** là một mẫu máy bay chiến đấu thử nghiệm của không quân Xô Viết trong thập nhiên 1950. Mặc dù lúc này các tên lửa không đối không có dẫn đường đã được
**Mikoyan-Gurevich I-75** là một mẫu máy bay chiến đấu thử nghiệm của Liên Xô được phát triển cuối thập kỷ 1950. Nó được đưa ra để cạnh tranh với mẫu Sukhoi T-431 trong việc sản
Mikoyan-Gurevich SM-12 là một mẫu máy bay chiến đấu thử nghiệm của Liên Xô, nó được phát triển dựa trên các thông số của MiG-19, có 4 mẫu được chế tạo, nhưng sau này nó
**Mikoyan-Gurevich I-370** là một mẫu máy bay chiến đấu thử nghiệm của Liên Xô, được phát triển để dựa trên các kế quả đó các kỹ sư của MiG đã thiết kế ra mẫu máy
**Mikoyan-Gurevich I-7U** là một mẫu máy bay chiến đấu thử nghiệm của Liên Xô được phát triển dựa trên mẫu I-370, nó sử dụng động cơ Lyulka AL-7F thay vì dùng động cơ Klimov. ##
**Mikoyan-Gurevich I-360** là mẫu máy bay chiến đấu thử nghiệm của Liên Xô trong chiến tranh lạnh. Nó được thử nghiệm để làm tăng vận tốc bay và tính ổn định. ## Lịch sử Cuối
**Mikoyan-Gurevich I-225** là một mẫu máy bay trong seri "A", đây là một loạt các máy bay chiến đấu thử nghiệm của Liên Xô trong chiến tranh thế giới II. ## Lịch sử Mặc dù,
**Mikoyan-Gurevich I-210** là một máy bay thí nghiệm của Liên Xô dựa trên mẫu MiG-3, nó được cải tiến động cơ và một số chi tiết nhằm nâng cao hiệu suất bay và tính ổn
**Mikoyan-Gurevich I-224** là một máy bay chiến đấu thử nghiệm của Liên Xô trong chiến tranh thế giới II nhưng nó không bao giờ được sản xuất hàng loạt. ## Lịch sử 2 chiếc máy
**Mikoyan-Gurevich I-350** là một mẫu máy bay chiến đấu thử nghiệm của Liên Xô trong thời kỳ chiến tranh lạnh, nó có khung tương tự như MiG-17, và là máy bay tiêm kích đầu tiên
**Mikoyan-Gurevich I-220** là mẫu máy bay chiến đấu tiếp theo sau các mẫu thử nghiệm I-210, I-211 và I-230. Nó được Liên Xô phát triển giữa chiến tranh thế giới II, nhưng sau đó đã
Hành lang MiG (MiG Alley) **Hành lang MiG** (tiếng Anh:**MiG Alley**) hay **Thung lũng MiG** là tên của phi công Không quân Hoa Kỳ đặt cho một vị trí địa lý nằm ở đông bắc
**Mikoyan**, trước kia là **Mikoyan-Gurevich** (tiếng Nga: Микоян и Гуревич, МиГ), là một công ty chuyên thiết kế và sản xuất máy bay quân sự Nga, chủ yếu là máy bay chiến đấu. Trước kia
**YE-50**, tiếng Nga Е-50. Được phát triển bởi phòng thiết kế máy bay OKB Mikoyan và Gurevich (nơi thiết kế các MiG, tiếng Nga: ОКБ Микояна, Гуревича). **YE-50**, YE-1, YE-2 là những máy bay mang
YE-5 (tiếng Nga: Е-5, hay Х-5, И-500, МиГ-21), các cách gọi khác: Kh-5, I-500, MiG-21, là một loại máy bay thử nghiệm trong chương trình phát triển MiG-21. Nó là mấu thử đạt yêu cầu
**YE-4** (tiếng Nga: Е-4) là một loại máy bay được phát triển bởi phòng thiết kế máy bay Mikoyan (ОКБ Микояна) và Gurevich (Гуревича). YE-4 bay lần đầu năm 1955 và có thân gần giống
MiG-110 **Mikoyan-Gurevich MiG-110** (tiếng Nga: МиГ-110) là một máy bay chở khách/hàng hóa, nó bắt đầu được phát triển vào năm 1995 nhưng chưa bao giờ bay. Nó có 2 động cơ tua bin phản
**Artem Ivanovich Mikoyan** (tiếng Armenia: Արտյոմ Հովհաննեսի Միկոյան hoặc Անուշավան Հովհաննեսի Միկոյան; tiếng Nga: Артё́м Ива́нович Микоя́н) (5 tháng 8-1905 - 9 tháng 12-1970), ông là một nhà thiết kế máy bay của Liên bang
SDK Máy bay MiG-15 và MiG-17 không người lái. SDK Tiếng Nga "Самолет-дублер Кометы СДК". Máy bay nghiên cứu thử nghiệm trong quá trình thiết kế tên lửa Kometa. (Kometa là phiên âm tiếng nga
**Raduga K-9** (tên ký hiệu của NATO **AA-4 _Awl**_) là một tên lửa không đối không tầm xa được Liên Xô phát triển vào cuối thập niên 1950. Nó được thiết kế bởi MKB Raduga
**Guizhou JL-9** còn được gọi là **FTC-2000 Mountain Eagle** (), là một loại máy bay huấn luyện phản lực tiên tiến và máy bay chiến đấu hạng nhẹ siêu thanh do Guizhou Aviation Industry Import/Export
Chiếc **Grumman F9F Cougar** (được đổi tên thành **F-9 Cougar** theo Hệ thống định danh máy bay Thống nhất năm 1962) là một kiểu máy bay tiêm kích hoạt động trên tàu sân bay của
__NOTOC__ Danh sách máy bay :A B C-D E-H I-M N-S T-Z ## I ### IAI * IAI Arava * IAI Astra * IAI C-38 Courier * IAI F-21 Kfir * IAI Galaxy * IAI
Tên ký hiệu của NATO/ASCC cho máy bay chiến đấu, với tên gọi của Liên Xô, Nga, Trung Quốc, thứ tự theo bản báo cáo của NATO: * "Faceplate" MiG Ye-2A * "Fagot" Mikoyan-Gurevich MiG-15
## Máy bay cường kích * Ilyushin ** Ilyushin Il-2 "Sturmovik" ** Ilyushin Il-10 * MiG ** Mikoyan MiG-27 * Sukhoi ** Sukhoi Su-2 ** Sukhoi Su-7 ** Sukhoi Su-24 ** Sukhoi Su-25 * Yakovlev
thế=Một phi công của Không quân Hoa Kỳ điều khiển một máy bay F-35A Lightning II được giao cho Phi đội Tiêm kích 58, Phi đoàn Tiêm kích 33 vào vị trí để tiếp nhiên
**Yakovlev Yak-25** là một máy bay quân sự của Liên Xô, một máy bay tiêm kích đánh chặn động cơ phản lực đầu tiên được thiết kế bởi OKB Yakovlev. Tên gọi Yak-25 sau này
**Trung tâm nghiên cứu tên lửa vũ trụ Tiến bộ-Progress Rocket Space Centre** (), trước đây là **TsSKB-Progress** (), là một công ty cổ phần của Nga trực thuộc Roscosmos State Corporation có nhiệm vụ
**JSC Kuznetsov** () là một trong những nhà sản xuất động cơ máy bay lớn của Nga, ngoài ra JSC Kuznetsov cũng phát triển và chế tạo động cơ tên lửa nhiên liệu lỏng cũng
**Bảo tàng Máy bay Szolnok** _(Szolnoki Repülőmúzeum)_ là bảo tàng hàng không lớn ở Szolnok, Hungary. Bảo tàng trưng bày các loại máy bay, động cơ máy bay quân sự và dân sự cũ. Bảo
**Danh sách máy bay quân sự** là danh sách liệt kê tất cả các loại máy bay quân sự hiện đại thường gặp của các nước được sử dụng gần đây để so sánh và
**Danh sách trang thiết bị quân sự sử dụng trong Chiến tranh Vùng Vịnh** là bảng tổng hợp các loại vũ khí và các trang bị quân sự được sử dụng bởi các quốc gia
**Máy bay tiêm kích phản lực thế hệ thứ ba** tồn tại trong giai đoạn từ nửa sau thập niên 1960 tới thập niên 1970. nhỏ|phải|[[McDonnell Douglas F-4 Phantom II|McDonnell Douglas F-4G Phantom II]] nhỏ|phải|[[Mikoyan-Gurevich