✨Mikoyan-Gurevich MiG-21

Mikoyan-Gurevich MiG-21

Mikoyan-Gurevich MiG-21 (tiếng Nga: Микоян и Гуревич МиГ-21) (tên ký hiệu của NATO: Fishbed - Cá hóa thạch) là một máy bay tiêm kích phản lực, được thiết kế bởi phòng thiết kế Mikoyan, Liên bang Xô viết. Ở Nga Mikoyan-Gurevich MiG-21 được gọi là đàn balalaika, vì thiết kế khung thân của nó giống cây đàn dân tộc Nga.

Chiếc máy bay này được thiết kế bởi Mikoyan-Gurevich, và Tổng công trình sư đầu tiên của Phòng thiết này là ông Mikoyan. Động cơ của máy bay do ông Gurevich thiết kế. Hơn 50 quốc gia trên 4 lục địa đã sử dụng loại máy bay này. Hiện nay, MiG-21 vẫn đang hoạt động trong không quân một số quốc gia sau 50 năm từ khi nó bay lần đầu tiên.

MiG-21 có khả năng đạt đến vận tốc Mach 2. Vận tốc này vượt qua tốc độ tối đa của nhiều kiểu máy bay chiến đấu hiện đại sau này. Có khoảng 11.496 chiếc MiG-21 đã được chế tạo (chưa kể khoảng 2.400 chiếc Chengdu J-7 do Trung Quốc tự chế tạo dựa trên MiG-21).

Phát triển

nhỏ|MiG-21UM hai chỗ ngồi, [[Không quân Ba Lan]] Máy bay tiêm kích phản lực MiG-21 là mẫu máy bay nối tiếp trong chuỗi những máy bay tiêm kích phản lực của Liên Xô, bắt đầu từ máy bay MiG-15, MiG-17 và MiG-19. Một số thiết kế thử nghiệm đạt tốc độ Mach 2 của Liên Xô đều dựa vào thiết kế khe hút không khí ở đầu mũi với cánh xuôi sau như Sukhoi Su-7, hoặc kiểu cánh tam giác; trong đó, MiG-21 là thiết kế thành công nhất.

Nguyên mẫu E-5 của MiG-21 thực hiện bay lần đầu tiên vào năm 1955 và thực hiện chuyến bay trước công chúng lần đầu tiên trong Ngày hàng không Xô viết tại Sân bay Tushino Moskva vào tháng 6 năm1955. Nguyên mẫu cánh tam giác đầu tiên, có tên gọi là Ye-4 (hay E-4) được bay vào ngày 14 tháng 6năm 1956, và chiếc MiG-21 đầu tiên bắt đầu được phục vụ vào năm 1959. Với cấu hình cánh tam giác, MiG-21 là máy bay đầu tiên của Liên Xô thành công trong việc kết hợp giữa tính năng của máy bay tiêm kích và đánh chặn trong cùng một máy bay. Đây là một máy bay chiến đấu có trọng lượng nhẹ, đạt được đến tốc độ Mach 2 với một động cơ phản lực đốt nhiên liệu phụ trội có công suất nhỏ, và MiG-21 có tính năng tương đương với loại F-104 Starfighter của Mỹ và Dassault Mirage III của Pháp.

Khi MiG-21 lần đầu tiên được đưa vào hoạt động, nó đã bộc lộ vài điểm bất thường. Những tên lửa không đối không Vympel K-13 (tên ký hiệu của NATO: AA-2 'Atoll') không thành công trong các trận chiến, và thiết bị ngắm súng con quay hồi chuyển thường dễ bị hỏng khi cơ động ở tốc độ cao, dẫn đến phiên bản ban đầu của MiG-21 là một máy bay không mấy hiệu quả. Những vấn đề này đã được sửa chữa, và trong thời gian diễn ra Chiến tranh Việt Nam và các cuộc xung đột ở Trung Đông, MiG-21 tỏ ra là một máy bay rất hiệu quả.

nhỏ|MiG-21M tại bảo tàng Berlin-Gatow Như nhiều máy bay khác được thiết kế như những máy bay tiêm kích đánh chặn, MiG-21 có tầm hoạt động ngắn. Thêm vào đó, thiết kế của MiG-21 có một khuyết điểm, đó là các thùng nhiên liệu bên trong lại đặt trước trọng tâm máy bay. Điều này dẫn đến việc khi nhiên liệu tiêu hao, trọng tâm máy bay sẽ bị di chuyển về phía sau. Hậu quả là làm cho máy bay khó kiểm soát, dẫn đến máy bay chỉ bay được 45 phút trong điều kiện tốt. Việc khó kiểm soát còn làm cho nhiên liệu khó vào động cơ hơn, có thể gây động cơ bị ngưng. Với thiết kế cánh tam giác, MiG-21 thể hiện đây là một máy bay đánh chặn có tốc độ bay lên xuất sắc, song thiết kế này cũng có nghĩa là với bất kỳ kiểu đổi hướng không chiến nào đều dẫn đến việc mất tốc độ rất nhanh. Tuy nhiên, trọng tải nhẹ của máy bay lại giúp cho nó có thể đạt được trần bay cao 58000 ft (17670 m) trong một phút. Điều này hơn hẳn so với máy bay F-16A Fighting Falcon được chế tạo sau này. Phiên bản MiG-21Bis với động cơ R25-300 cho tốc độ bay đạt tới 2228 km/h (Mach 2,05), tốc độ lên cao 225 m/s, trần bay 17,8 km. Các thông số này không thua kém nhiều loại tiêm kích thế hệ 4 ra đời sau nó 30 năm. Một phi công lão luyện, với chiến thuật hợp lý và những tên lửa tốt trên MiG-21 có thể đạt được những thành tích ngang ngửa với những máy bay tiêm kích hiện đại.

Sau đó, MiG-21 được thay thế bởi những chiếc MiG-23 và MiG-27 cánh cụp cánh xòe cho các nhiệm vụ tấn công mặt đất. Tuy nhiên, không phải đến khi MiG-29 thay thế cơ bản những chiếc MiG-21 trong biên chế của Liên Xô như một máy bay không chiến cơ động cao thì nó mới có thể chống lại những kiểu máy bay chiếm ưu thế trên không của Mỹ, mà bản thân MiG-21 vẫn có thể chiến đấu chống lại các máy bay hiện đại của Mỹ mặc dù đã lỗi thời.

MiG-21 được xuất khẩu rộng rãi và tới năm 2010 nó vẫn tiếp tục được sử dụng tại nhiều nước, mặc dù khi đó nó có thể bị xem là đã lỗi thời. Chiếc máy bay này có hệ thống điều khiển, động cơ, vũ khí và điện tử đơn giản so với tiêu chuẩn ngày nay, điển hình cho thiết kế quân sự của thời kỳ cuối thập niên 1950. Do thiếu những thông tin ban đầu đáng tin cậy về MiG-21, những chi tiết ban đầu của nó thường gây nhầm lẫn với máy bay tiêm kích tương tự của Sukhoi cũng đang phát triển cùng thời điểm. Tạp chí Jane's All the World's Aircraft 1960-1961 đã nhầm lẫn khi miêu tả MiG-21 "Fishbed" như một thiết kế của Sukhoi, và sử dụng hình minh họa của Su-9 'Fishpot'.

Sản xuất

nhỏ|MiG-21UM Lancer B của Romania Tổng cộng đã có 10158 (một số nguồn nói 10645) chiếc MiG-21 được chế tạo tại Liên Xô. Chúng được sản xuất tại 3 nhà máy: GAZ 30 tại Moskva (hay còn gọi là Znamiya Truda), GAZ 21 ở Gorky và GAZ 31 ở Tbilisi. Kiểu "MiG" được sản xuất cũng khác nhau theo từng nhà máy. Nhà máy ở Gorky chế tạo MiG-21 một chỗ cho Quân đội Liên Xô. Nhà máy ở Moskva chế tạo MiG-21 một chỗ cho xuất khẩu và nhà máy ở Tbilisi chế tạo MiG-21 hai chỗ cho cả xuất khẩu và quân đội Xô viết. Tuy nhiên, phiên bản MiG-21R và MiG-21bis dành cho xuất khẩu và cho Liên Xô cũng được chế tạo tại Gorky, 17 chiếc MiG-21 một chỗ cũng được chế tạo tại Tbilisi. Phiên bản MiG-21MF được chế tạo đầu tiên tại Moskva và sau đó là Gorky, và phiên bản MiG-21U được chế tạo tại Moskva cũng như tại Tbilisi. Như vậy, mỗi nhà máy chế tạo MiG-21 với số lượng như sau:

  • 5278 chiếc (hay 5765 chiếc) tại Gorky.
  • 3203 chiếc tại Moskva.
  • 1677 chiếc tại Tbilisi.

Ngoài ra còn có 194 chiếc được sản xuất tại Tiệp Khắc, 657 chiếc sản xuất tại Ấn Độ và hàng ngàn chiếc được chế tạo tại Trung Quốc với tên gọi J-7.

Giá thành

MiG-21 có giá rất rẻ khi so sánh với máy bay cùng thời, trong khi hiệu quả chiến đấu lại cao. Giá mỗi chiếc MiG-21MF thậm chí còn rẻ hơn một chiếc xe thiết giáp BMP-1. Ngay cả phiên bản MiG-21FL (phiên bản sản xuất tại Ấn Độ) cũng chỉ có giá chỉ khoảng 2 triệu USD (thời giá năm 1974), dù phiên bản này bị đội giá cao hơn so với các phiên bản gốc của Liên Xô (do phải tính thêm chi phí vận chuyển linh kiện, tiền bản quyền...)

Mỗi chiếc F-4 Phantom của Mỹ có giá đắt gấp mấy lần một chiếc MiG-21. Ngay cả tiêm kích hạng nhẹ F-5 Freedom Fighter của Mỹ (đối thủ thiết kế của MiG-21) cũng đắt gấp đôi MiG-21.

Lịch sử hoạt động

Việt Nam

MiG-21 giành được những danh tiếng đầu tiên của mình trong Chiến tranh Việt Nam, trong thời gian diễn ra chiến tranh, nó tham gia hoạt động thường xuyên trong các nhiệm vụ. Đây là một trong số những máy bay tiên tiến nhất thời kỳ đó; tuy nhiên, rất nhiều phi công xuất sắc của Không quân Nhân dân Việt Nam lại thích lái MiG-17 hơn, do tỷ trọng lực nâng trên cánh lớn của MiG-21 khiến nó bẻ ngoặt khó hơn so với MiG-17.

MiG-21PF sơn cờ của không quân nhân dân Việt Nam MiG-21 là tiêm kích hạng nhẹ nên nó thiếu radar tầm xa, mang ít tên lửa và vũ khí hơn so với những máy bay chiến đấu đa nhiệm vụ hạng nặng của Mỹ, nhưng MiG-21 tỏ ra là một đối thủ đầy thách thức trong tay những phi công lão luyện, đặc biệt khi được sử dụng trong tấn công tốc độ cao và công kích nhanh dưới sự điều khiển của GCI. MiG-21 được sử dụng để chặn đứng những nhóm máy bay xung kích F-105 Thunderchief rất hiệu quả, đặc biệt trong việc bắn hạ những máy bay Mỹ hay chí ít cũng bắt chúng phải giảm trọng tải bom mang trên mình.

Đối thủ chính của MiG-21 ở Việt Nam là F-4 Phantom của Mỹ, cũng được nghiên cứu chế tạo năm 1958. Khác với F-4 là tiêm kích hạng nặng tầm xa, MiG-21 là tiêm kích hạng nhẹ tầm ngắn, dùng cho tác chiến trên chiến tuyến không xa sân bay căn cứ (khối lượng cất cánh tiêu chuẩn của MiG-21 là dưới 8 tấn, chỉ bằng một nửa F-4). Theo mục đích thiết kế, đối thủ của F-4 phải là loại MiG-23 tiên tiến hơn chứ không phải MiG-21 (tuy nhiên Liên Xô không viện trợ loại máy bay này cho Việt Nam). Phải tới cuối năm 1965 - đầu năm 1966, Không quân Nhân dân Việt Nam mới bắt đầu nhận được những biến thể MiG-21F-13, MiG-21PF để thay thế phi đội MiG-17 già cỗi. Trong hơn 50 năm hoạt động, Không quân nhân dân Việt Nam đã tiếp thu và sử dụng sáu phiên bản MiG-21 khác nhau, đó là các phiên bản MiG-21F-13/PF/FL/PFM/MFL/BIS, với số lượng ước tính khoảng hơn 500 chiếc.

trái|Đoàn không quân "Sao Đỏ" trang bị MiG-21, đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang trong trận [[Điện Biên Phủ trên không]]

Do mục đích thiết kế khác nhau (MiG-21 là tiêm kích hạng nhẹ tầm ngắn, trong khi F-4 là máy bay tiêm kích hạng nặng tầm xa), MiG-21 và F-4 có những ưu - nhược điểm khi so sánh với nhau:

  • Về trang bị: MiG-21 là tiêm kích đánh chặn tầm ngắn, nên sức mạnh và tải trọng vũ khí không được chú trọng như F-4, thay vào đó MiG-21 tập trung vào khả năng cơ động linh hoạt. Vì vậy, MiG-21 có kích thước và tầm bay nhỏ hơn đáng kể so với F-4, tải trọng vũ khí thấp hơn (2000 kg so với 8500 kg) và radar cũng kém hơn. Vũ khí của MiG-21 cũng ít hơn so với F-4, gồm 2 (về sau tăng lên 4) tên lửa không đối không tầm trung R-3S tự dẫn bằng tia hồng ngoại và các loại pháo 23 - 30mm (một số phiên bản thì không có pháo), trong khi F-4 trang bị tới 8 tên lửa. Cự ly ngắm bắn bằng radar của MiG-21 nhỏ (không quá 10–12 km đối với mục tiêu là tiêm kích so với 30–40 km của F-4), dấu hiệu mục tiêu trên màn hình trong buồng lái khó nhìn, tầm quan sát từ buồng lái không đủ. Tuy nhiên, F-4 cũng có điểm yếu: Radar trên F-4 của Mỹ dù có cự ly phát hiện và bao quát lớn, nhưng chống nhiễu địa vật tương đối kém, mặt khác, tên lửa đối không tầm trung của F-4 (AIM-7 Sparrow) có chất lượng đầu dò khá thấp, nên rất khó bắn trúng nếu máy bay đối phương cơ động nhanh, do vậy ưu thế không chiến tầm xa của F-4 có thể bị vô hiệu hóa nếu đối phương có chiến thuật hợp lý (theo thống kê của Mỹ, đã có 612 quả AIM-7 được phóng ở Việt Nam nhưng chỉ hạ được 59 mục tiêu, tỷ lệ bắn hạ chỉ đạt 9%, trong đó chỉ có 2 quả bắn trúng mục tiêu ở cự ly ngoài 15 km). Về độ cơ động: Tốc độ cao nhất của MiG-21 đạt 2175 - 2300 km/h, trần bay thực tế đạt 18000 - 19000 mét không thua kém máy bay F-4 Phantom. Khối lượng cất cánh tiêu chuẩn F-4B là 0,74, còn MiG-21PF là 0,79.. Về chi phí: F-4 có đội bay 2 người so với MiG-21 có 1, có nghĩa rằng nếu bị bắn hạ thì tổn thất về phi công của F-4 sẽ cao gấp đôi. Chi phí chế tạo mỗi chiếc F-4 cũng cao gấp 5 lần so với MiG-21 (có nghĩa rằng cứ mỗi F-4 phải đổi được 5 chiếc MiG-21 thì tổn thất tài chính mới là ngang bằng).

MiG-21F-13 là biến thể đầu tiên mà Việt Nam sử dụng, được trang bị một pháo 30mm NR-30 cùng một cơ số đạn 30 viên, 2 tên lửa không đối không có điều khiển tầm gần R-3S lắp đầu tự dẫn tầm nhiệt bằng tia hồng ngoại, có thể tiêu diệt mục tiêu ở cự ly 0,9 - 7,6 km. Tuy nhiên, hiệu quả sử dụng vũ khí tên lửa của các MiG-21 biến thể này không cao bởi vì trên máy bay không có radar. Tên lửa được dẫn đến mục tiêu nhờ thiết bị ngắm quang học và máy đo xa vô tuyến.

Đến tháng 4/1966, biến thể MiG-21 được sử dụng nhiều nhất ở Việt Nam xuất hiện, đó là MiG-21PF (МиГ-21ПФ). Chữ P theo phiên âm tiếng Nga là "đánh chặn", chữ F phiên âm tiếng Nga có nghĩa là "động cơ nâng cấp", đây là biến thể đánh chặn mọi thời tiết. MiG-21PF được trang bị động cơ mới R-11F2-300, trang bị thiết bị dẫn mục tiêu theo lệnh từ sở chỉ huy mặt đất và radar RP-21 Sapfir thay thế cho radar SRD-5M. Radar này có khả năng phát hiện máy bay chiến đấu đối phương ở cự ly 20 km, khóa mục tiêu ở cự ly 10 km, radar mới cũng cho phép MiG-21 sử dụng đạn tên lửa K-5M bên cạnh các tên lửa K-13. Tuy nhiên, biến thể này không được trang bị pháo, nên khả năng tác chiến tầm ngắn bị hạn chế (sau khi phóng hết các tên lửa thì MiG-21PF không thể chiến đấu tiếp). Nhìn chung, MiG-21PF có radar yếu và khả năng chống nhiễu hạn chế, nên phụ thuộc nhiều vào hệ thống chỉ mục tiêu và dẫn đường từ mặt đất.

Bộ chỉ huy Không quân và Hải quân Mỹ tin rằng: F-4 với vũ khí mạnh hơn, radar hiện đại, tính năng tốc độ và tăng tốc cao cùng với những biện pháp chiến thuật mới sẽ đảm bảo cho F-4 Phantom chiếm ưu thế. Nhưng khi đối đầu với MiG-21 gọn nhẹ hơn, F-4 bắt đầu chịu thất bại liên tiếp. Không quân Việt Nam đã đưa ra các chiến thuật nhằm khắc chế ưu thế của F-4 trong khi phát huy được lợi thế của MiG-21. MiG-21 của Việt Nam thường tấn công đối phương với tốc độ vượt âm, phóng tên lửa từ phía sau mục tiêu và nhanh chóng thoát khỏi sự truy đuổi. Người Mỹ đã khó đưa ra một giải pháp nào đó chống lại chiến thuật này, một chiến thuật đòi hỏi sự chuẩn bị tốt cho phi công và sĩ quan dẫn đường trên mặt đất ở sở chỉ huy. Không quân Nhân dân Việt Nam cũng khai thác tối đa sự phối hợp hoạt động đồng bộ của MiG-21 với MiG-17 trong không chiến. Những chiếc tiêm kích MiG-17 bay ở tầm thấp dưới 3000m đã đẩy những chiếc F-4 và F-105 từ độ cao thấp lên độ cao trung bình khoảng 5000 đến 6000m, nơi những chiếc MiG-21 đang phục kích tấn công đối phương..

Trong tháng 6, các Trung đoàn không quân tiêm kích 921 và 923 của Việt Nam đã bắn rơi 16 máy bay đối phương và chịu tổn thất 4 chiếc. Ngày 27 tháng 6, Không quân Mỹ tổ chức một trận tập kích lớn vào Hà Nội với 24 máy bay cường kích và 20 máy bay tiêm kích F-4 yểm hộ. 5 chiếc MiG-21MF của Việt Nam đã hạ 4 chiếc F-4E của Không quân Hoa Kỳ tại vùng trời Tây Bắc Việt Nam, bắn bị thương 1 chiếc F-4E khác, phía Việt Nam không bị tổn thất. Theo nghiên cứu của chuyên gia Rob Young tại Trung tâm tình báo hàng không và vũ trụ quốc gia (Mỹ), có một số thời điểm, vào giai đoạn tháng 6 và 7/1972, MiG-21 đã đạt tỷ lệ chiến thắng 1 đổi 9 trước máy bay Mỹ.

Cuộc tấn công đường không do Mỹ tiến hành mùa Xuân và Hè năm 1972, đến mùa thu trên chiến trường chỉ có 71 máy bay tiêm kích của Việt Nam (40 chiếc MiG-17 và MiG-19, 31 chiếc MiG-21) chống lại 360 máy bay tiêm kích chiến thuật của Không quân Mỹ và 96 máy bay tiêm kích của Hải quân, phần lớn trong đó là F-4 Phantom thuộc các biến thể hiện đại nhất. Tổng cộng năm 1972, giữa các máy bay Mỹ và Việt Nam đã có 201 trận không chiến, trong đó phía Việt Nam mất 54 máy bay (gồm 36 chiếc MiG-21, một MiG-21US) và Mỹ mất 90 máy bay (trong đó có 73 tiêm kích F-4 và 2 máy bay trinh sát RF-4C). Trường hợp thứ hai được phía Việt Nam ghi nhận là do phi công Phạm Tuân lái chiếc MiG-21MF, với 2 quả tên lửa đã bắn rơi tại chỗ 1 chiếc B-52 vào ngày 27 tháng 12 năm 1972. Ông được phong danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân vào ngày 3 tháng 9 năm 1973. Trường hợp thứ ba diễn ra ngay vào ngày hôm sau, 28 tháng 12 năm 1972, được ghi nhận do phi công Vũ Xuân Thiều sau khi đã bắn tên lửa mà không hạ được B-52, đã lao máy bay vào chiếc B-52 (một số nguồn thì cho rằng chiếc MiG-21 của Vũ Xuân Thiều bị rơi do chiếc B-52 mục tiêu đã phát nổ ở quá gần). Vũ Xuân Thiều được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

Trong số 16 phi công Việt Nam đạt cấp Ace (bắn hạ từ 5 máy bay địch trở lên), có 13 phi công lái MiG-21, 2 phi công lái MiG-17 và 1 phi công lái cả hai loại. Phi công Nguyễn Văn Cốc với chiếc MiG-21 đã hạ 9 máy bay Mỹ cùng với 2 chiếc UAV trinh sát của Mỹ, là phi công có thành tích cao nhất trong cả cuộc chiến.

Thành tích không chiến của MiG-21 tại Việt Nam

Ngày 04/03/1966, phi công Nguyễn Hồng Nhị lái MiG-21 đã bắn hạ thành công một chiếc máy bay trinh sát không người lái AQM-34 Firebee của Mỹ ở độ cao 18 km. Đây là thành tích không chiến đầu tiên của MiG-21 tại Việt Nam.

Trong suốt thời gian tham chiến tại Việt Nam, MiG-21 được điều khiển bởi các phi công Việt Nam được tuyên bố đã bắn hạ 165 máy bay các loại của Mỹ, trong khi phía Mỹ tuyên bố có 96 chiếc MiG-21 bị máy bay Mỹ bắn rơi. Tài liệu của Việt Nam xác nhận là đã có 65 chiếc MiG-21 bị rơi (trong đó có một vài chiếc bị rơi do trục trặc hoặc do hỏa lực phòng không mặt đất bắn nhầm). 16 phi công MiG-21 đã thiệt mạng, tỷ lệ phi công thương vong của MiG-21 là thấp nhất trong số các loại máy bay chiến đấu của Việt Nam trong cuộc chiến Trong số những chiếc MiG-21 bị rơi, có 6 chiếc bị rơi do bị hỏa lực phòng không đồng đội bắn nhầm

Kết quả không chiến cụ thể qua các năm như sau:

  • 1966: Hoa Kỳ tuyên bố 6 chiếc MiG-21 bị phá hủy; Việt Nam tuyên bố 7 chiếc F-4 Phantom II và 11 chiếc F-105 Thunderchiefs bị MiG-21 bắn hạ.
  • 1967: Hoa Kỳ tuyên bố 21 chiếc MiG-21 bị phá hủy; Việt Nam tuyên bố 11 chiếc F-4 Phantom II, 17 chiếc F-105 Thunderchiefs, 2 chiếc McDonnell RF-101 Voodoo, 1 chiếc Douglas A-4 Skyhawk, 1 chiếc Vought F-8 Crusader, 1 chiếc EB-66 Destroyer và 3 máy bay loại khác bị MiG-21 bắn hạ.
  • 1968: Hoa Kỳ tuyên bố 9 chiếc MiG-21 bị phá hủy; Việt Nam tuyên bố 17 máy bay các loại của Mỹ bị MiG-21 bắn hạ.
  • 1969: Hoa Kỳ tuyên bố 3 chiếc MiG-21 bị phá hủy; 2 chiếc máy bay không người lái Firebee bị MiG-21 bắn hạ.
  • 1970: Hoa Kỳ tuyên bố 2 chiếc MiG-21 bị phá hủy; Việt Nam tuyên bố 1 chiếc F-4 Phantom và 1 trực thăng CH-53 Sea Stallion bị MiG-21 bắn hạ.
  • 1972: Hoa Kỳ tuyên bố 51 chiếc MiG-21 bị phá hủy; Việt Nam tuyên bố 53 máy bay các loại của Mỹ bị MiG-21 bắn hạ, bao gồm 2 chiếc B-52 Stratofortress. Tướng Fesenko, cố vấn Liên Xô tại Việt Nam năm 1972, báo cáo có 34 chiếc MiG-21 bị mất trong năm này.. Trong đợt tấn công thứ hai, Israel tuyên bố 4 chiếc MiG-21 bị bắn rơi trong không chiến, và đợt thứ ba có hai chiếc MiG-21 của Syria và một chiếc MiG-21 của Iraq bị bắn rơi. Đợt tấn công thứ tư phá hủy nhiều MiG-21 của Syria trên mặt đất. Nhìn chung, Ai Cập mất khoảng 100 trong số khoảng 110 chiếc MiG-21 mà họ có, gần như tất cả đều đang đậu trên mặt đất. Syria và Iraq mất 35 trong số 60 chiếc MiG-21F-13 và MiG-21PF trong không chiến và trên mặt đất Tuy nhiên phía Israel phủ nhận và cho rằng chỉ có 2 máy bay của họ bị rơi. Theo Kenneth Pollack, trong suốt cuộc chiến đã có 52 trận không chiến lớn giữa Ai Cập và Israel. Israel chỉ công nhận Ai Cập đã bắn hạ thành công 5-8 máy bay của Israel, trong khi Israel tuyên bố đã bắn hạ 172 máy bay Ai Cập (bao gồm 73 chiếc MiG-21). Theo Chaim Herzog, trong cuộc chiến tranh Yom Kippur, Israel tuyên bố 73 chiếc MiG-21 của Ai Cập bị hạ (65 được Israel khẳng định). Ngược lại, Ai Cập khẳng định đã bắn hạ 27 máy bay Israel bởi MiG-21 của mình, cộng với tám chiếc khác có thể cũng đã bị hạ.

Ở mặt trận Syria, ngày 06 Tháng 10 năm 1973, MiG-21MF của Syria đã bắn hạ một chiếc A-4E và 1 chiếc Mirage IIICJ, trong khi Syria mất 3 chiếc MiG. Ngày 7 tháng 10, MiG-21MF của Syria đã bắn hạ 2 chiếc F-4E, ba chiếc Mirage IIICJs và 1 chiếc A-4E trong khi bị mất hai máy bay MiG của họ, cộng với 2 chiếc MiG bị tên lửa phòng không của quân nhà bắn nhầm. MiG-21PF cũng hoạt động trên mặt trận này, và cùng ngày hôm đó bắn rơi 2 chiếc A-4E trong khi bị mất một chiếc MiG. 08 tháng 10 năm 1973, MiG-21PFM của Syria bắn rơi 3 chiếc F-4E, nhưng 6 chiếc MiG-21 của họ đã bị rơi. Vào cuối cuộc chiến, MiG-21 của Syria tuyên bố tổng cộng 30 máy bay Israel đã bị bắn hạ, trong khi Israel tuyên bố 29 chiếc MiG-21 của Syria đã bị hạ

Theo dữ liệu của phương Tây, những chiếc MiG-21 của Syria đã bắn hạ ít nhất 1 F-4E, 1 Kfir C.2 và bắn hỏng 2 chiếc F-15D và 1 RF-4E. Không quân Israel xác nhận có ít nhất 1 chiếc F-15 của phi đội 133 (do Ronen Shapiro lái) đã bị hư hại do trúng tên lửa R-60 từ MiG-21 vào ngày 9/6/1982, quả tên lửa đã phá tan một động cơ của chiếc F-15 nhưng nó vẫn cố hạ cánh về sân bay bằng động cơ còn lại trước khi bị ngọn lửa bao trùm. Việc chiếc F-15 của Israel bị bắn trọng thương cho thấy MiG-21 vẫn là một tiêm kích nguy hiểm, ngay cả đối với máy bay chiến đấu thế hệ thứ 4 ra đời sau nó 25 năm.

Chiến tranh Iran-Iraq

Thử nghiệm chính của MiG-21 ở Iraq là cuộc chiến với Iran (22 tháng 9 năm 1980 - 20 tháng 8 năm 1988).

Khi đó, MiG-21 là máy bay chiến đấu có số lượng lớn nhất ở Iraq. Vào đầu cuộc chiến, Iraq đã có 135 chiếc MiG-21PFM/MF/bis phiên bản tiêm kích, 4 chiếc MiG-21R phiên bản do thám và 24 chiếc MiG-21U/UM phiên bản huấn luyện (khoảng 100 chiếc đã sẵn sàng chiến đấu khi bắt đầu chiến tranh). 27 chiếc MiG-21 khác đang được cất giữ.

Tổng cộng trong giai đoạn 1980-1988, các phi công MiG-21 của Iraq đã giành được 34 chiến thắng trên không theo dữ liệu rời rạc (bao gồm 13 chiếc F-5, 11 chiếc F-4, 4 trực thăng AH-1J, 3 chiếc CH-47, 2 chiếc Bell và 1 chiếc F-14 Tomcat), trong khi theo dữ liệu rời rạc, 34 máy bay MiG-21 đã bị bắn rơi trong các trận không chiến (18 bởi máy bay F-14, 9 bởi F-4, 5 bởi F-5 và 2 bởi trực thăng AH-1J). Theo các nguồn khác, tổng cộng 22 chiếc MiG-21 đã bị bắn hạ (12 chiếc đã bị hạ bởi F-14, 6 bởi F-4, 3 bởi F-5 và 1 bởi AH-1J). Ở thời điểm đó, MiG-21 đã có phần lỗi thời, lại là tiêm kích hạng nhẹ nên các phi công MiG-21 của Iraq được khuyên nên tránh không chiến với các tiêm kích hạng nặng như F-4E và F-14, nếu không có yếu tố bất ngờ về phía họ.

Trên máy bay chiến đấu MiG-21MF, phi công át chủ bài của Iraq là Mohhamed Rayyan bắt đầu sự nghiệp. Vào ngày 23 tháng 10 năm 1980, ông đã bắn hạ hai chiếc F-5 Tiger II của Iran. Phi công MiG-21 thành công nhất của Iraq là Samir Abdul Razak, chiếc MiG-23MF của anh đã bắn hạ 4 chiếc F-5 Tiger II của Iran, đều bởi tên lửa R-13M (xem thêm tại [https://math.fce.vutbr.cz/safarik/aces/victories/iraq-iran.html|đây])

Ấn Độ

nhỏ|phải|[[Không quân Ấn Độ|IAF MiG-21 Bison]] Ấn Độ đưa vào sử dụng những chiếc tiêm kích MiG-21 đầu tiên vào năm 1964. Tổng cộng, nước này đã nhận được 874 chiếc MiG-21, khoảng hơn 200 chiếc do các nhà máy Liên Xô sản xuất và 657 chiếc khác được lắp ráp tại Ấn Độ. MiG-21 từng là xương sống của lực lượng không quân Ấn Độ, chúng đã tham gia tất cả các cuộc xung đột vũ trang lớn ở đất nước này từ năm 1963.

Không quân Ấn Độ cũng sử dụng MiG-21 trong chiến tranh Ấn Độ-Pakistan 1971. Trong cuộc chiến này đã chứng kiến cuộc không chiến siêu âm đầu tiên trên tiểu lục địa Ấn Độ, khi 1 chiếc MiG-21 của Ấn Độ bắn hạ 1 chiếc F-104 Starfighter của Không quân Pakistan. Những chiếc MiG đã thực hiện một vai trò quan trọng trong các cuộc không chiến, bảo đảm chiếm ưu thế trên không và cuối cùng khiến Pakistan thất bại. Tổng cộng trong cuộc chiến này, những chiếc MiG-21 của Ấn Độ đã bắn hạ 7-8 máy bay Pakistan và bắn hỏng 1 chiếc khác. 4 máy bay Pakistan khác đã bị phá hủy bởi những phi cơ Ấn Độ khi chúng đang đậu tại sân bay. Ấn Độ chỉ mất duy nhất 1 máy bay trong chiến đấu trên không, bị bắn hạ vào ngày 17 tháng 12.

MiG-21 cũng được sử dụng vào cuối năm 1999 trong Chiến tranh Kargil. Những chiếc MiG-21 lần cuối cùng được biết đến sử dụng trong không chiến vào năm 1999 trong Sự kiện Atlantique, khi 2 chiếc MiG-21 của Ấn Độ đã bắn hạ 1 chiếc máy bay trinh sát Breguet Atlantique của Hải quân Pakistan, người Ấn Độ đã đưa ra lý do máy bay của Pakistan đã bay vào không phận của Ấn Độ.

các máy bay MiG-21 của Không quân Ấn Độ đã phải trải qua đợt hiện đại hóa quy mô vào năm 1999. Nga đã nâng cấp sâu rộng 125 chiếc MiG-21Bis của Ấn Độ lên chuẩn "MiG-21-93 Bison". Gói nâng cấp đã áp dụng một số công nghệ trên các loại tiêm kích thế hệ 4, như là thay mới radar cũ RP-21MA/RP-22 bằng loại Phazotron Kopyo - được phát triển dựa trên công nghệ dòng radar Zhuk với tầm trinh sát bán cầu trước đến 57 km, ở bán cầu sau là 25–30 km, có thể theo dõi mục tiêu RCS 3m2 tại khoảng cách 45 km. Kopyo cung cấp cho MiG-21-93 khả năng theo dõi 10 mục tiêu cùng lúc và dẫn đường cho tối đa 2 tên lửa tiêu diệt 2 mục tiêu cùng lúc. Trong chế độ không đối đất, Kopyo có thể phát hiện mục tiêu xe thiết giáp ở cự ly 25 km hoặc cầu đường ở cách 100 km trong khi theo dõi 2 mục tiêu, có thể phát hiện tàu thuyền cỡ nhỏ ở cách 80 km hoặc mục tiêu kích cỡ tương đương khu trục hạm ở khoảng cách 150 km. MiG-21-93 Bison có thể triển khai các loại tên lửa không đối không mới nhất của Nga như R-73E (tầm ngắn), R-27 (dẫn đường radar bán chủ động, tầm trung) và R-77 (radar chủ động, tầm trung – xa lên tới 100 km)

Những máy bay nâng cấp MiG-21 'Bison' được đưa tin có hiệu suất tốt và có thể chống lại được những máy bay F-15 và F-16 của Không quân Hoa Kỳ trong cuộc tập trận chung Ấn Độ-Hoa Kỳ. Những phi công Mỹ đã ngạc nhiên với những khả năng của MiG-21 Bison. Theo tường trình thì trong các cuộc không chiến mô phỏng khả năng thao diễn của phiên bản 'Bison' mới đã bỏ xa những máy bay của phương Tây và có tỷ lệ chiến thắng lớn. Hai bên tập trận theo thể thức 6 máy bay F-15C chiến đấu với 18 máy bay Ấn Độ (gồm 12 MiG-21 Bison và 6 Su-30), Ấn Độ không cho phía Mỹ sử dụng radar quét mảng điện tử chủ động (AESA) tiên tiến trên F-15 của họ và phía Mỹ không được mô phỏng bắn tên lửa ngoài tầm nhìn (BVR) (do yêu cầu của Ấn Độ không sử dụng tên lửa AMRAAM). Hơn nữa, người Ấn Độ đã phái những phi công giàu kinh nghiệm nhất của họ đến chiến đấu chống lại người Mỹ trong khi Mỹ chỉ đưa ra một phi đội tiêu chuẩn có sự kết hợp giữa các phi công giàu kinh nghiệm và ít kinh nghiệm. Các phi công Mỹ nhận xét rằng MiG-21 Bison là một đối thủ rất ghê gớm với F-15C khi đánh cận chiến, do loại máy bay này có độ bộc lộ radar thấp, vận tốc cao và rất linh hoạt. hay "nơi sản xuất ra những góa phụ". Trong nửa thế kỷ qua, Ấn Độ đã mua nguyên chiếc (hoặc mua linh kiện để tự lắp ráp) 976 máy bay MiG-21, trong đó có 1 nửa gặp phải sự cố, bị tổn thất và không thể tiếp tục sử dụng. Ấn Độ hiện nay cũng đã đẩy nhanh các bước thay thế loại máy bay cũ này, chuyển sang sử dụng máy bay không phải do Nga chế tạo hoặc không phải máy bay MiG (chẳng hạn Su-30). Mặc dù rất muốn thay thế MiG-21 càng sớm càng tốt nhưng Ấn Độ buộc phải tiếp tục duy trì MiG-21 tới năm 2019.

Cũng không ít chuyên gia quân sự cho rằng, các vụ tai nạn MiG-21 không phải do lỗi thiết kế, mà chủ yếu là do "căn bệnh" quản lý chất lượng không chặt chẽ của cả không quân Ấn Độ (nhất là với những chiếc MiG-21 do Ấn Độ tự lắp ráp), cộng với việc Ấn Độ không cho nghỉ hưu số MiG-21 đã quá niên hạn. Một dẫn chứng là rất nhiều nước khác vẫn còn sử dụng MiG-21 và tỷ lệ tai nạn của họ thấp hơn nhiều so với Ấn Độ. Không quân Ấn Độ quyết định nâng cấp hệ thống radar đa chế độ Super Kopyo do Nga sản xuất và hệ thống dẫn đường quán tính, sử dụng con quay hồi chuyển laser điều khiển vòng Totem 221G của Pháp chế tạo cho các máy bay MiG-21 còn lại.

Chỉ huy lực lượng Không quân Ấn Độ có ý định kéo dài tuổi thọ máy bay chiến đấu MiG-21, nguyên nhân của sự việc này là do việc hủy bỏ hợp đồng với công ty Dassault của Pháp về việc cung cấp 126 máy bay chiến đấu Rafale. Theo kế hoạch, tất cả những "én bạc" sẽ bị "loại khỏi vòng chiến đấu" của Không quân Ấn Độ vào năm 2019. Ngoài việc hủy bỏ hợp đồng cung cấp 126 máy bay Rafale theo chương trình MMRCA mà còn là do sự quá trì trệ trong việc đưa loại máy bay Tejas "made in India" vào sử dụng.

Ngày 27/2/2019, theo Ấn Độ tuyên bố thì 8 tiêm kích Ấn Độ và 24 chiến đấu cơ Pakistan đã tham gia trận không chiến lớn nhất từ năm 1971 giữa hai nước. Đội hình của Pakistan gồm 8 tiêm kích F-16, 4 chiến đấu cơ Mirage III, 4 máy bay JF-17 cùng 8 phi cơ hộ tống, trong khi Ấn Độ đã triển khai 4 tiêm kích hạng nặng Su-30MKI, hai chiến đấu cơ Mirage 2000 cải tiến và hai máy bay MiG-21 nâng cấp (MiG-21 Bison) để đánh chặn. Ấn Độ cũng tuyên bố chiếc MiG-21 của Thượng tá Abhinandan Varthaman đã dùng tên lửa Vympel R-73 bắn rơi 1 tiêm kích F-16 của Pakistan, ngay sau đó một tên lửa đối không tầm trung AIM-120 AMRAAM phóng từ 1 chiếc F-16 khác đã đánh trúng chiếc MiG-21 của Varthaman, buộc phi công này phải nhảy dù Đây được coi là một bất ngờ lớn, khi mà MiG-21 với tuổi đời 50 năm (dù đã được nâng cấp) nhưng vẫn có thể bắn hạ được 1 chiếc tiêm kích hiện đại thế hệ 4 do Mỹ chế tạo. Nhà báo Italia David Cenciotti, người điều hành trang web The Aviationist nổi tiếng, bình luận: "MiG-21 Bison là phiên bản nâng cấp từ mẫu MiG-21 cơ bản do Nga chế tạo. Mặc dù thiết kế của nó đã lỗi thời, nhưng khả năng linh hoạt và tăng tốc của nó cùng kính ngắm gắn trên mũ phi công kết hợp với tên lửa không đối không R-73 là những yếu tố biến MiG-21 trở thành đối thủ đáng sợ thực sự, ngay cả với những tiêm kích hiện đại hơn..."

Tạp chí Foreign Policy đưa tin rằng phía Mỹ đã tiến hành kiểm tra F-16 theo yêu cầu của Pakistan và xác nhận không thiếu chiếc nào, trái với tuyên bố của không quân Ấn Độ rằng họ đã bắn hạ một chiếc. Tuy nhiên, mấy ngày sau đó, nhiều tờ báo Ấn Độ như Defense world, Asianage và Hindustan Times tuyên bố rằng phát ngôn viên Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ nói họ không có cuộc điều tra nào về số lượng máy bay F-16 của Pakistan để xác định xem nước này có bị mất một chiếc trong trận không chiến với Ấn Độ vào ngày 27/2 hay không. Theo Washington Post thì giống như Lầu năm góc, Bộ Ngoại giao vẫn chưa đưa ra bất kỳ tuyên bố công khai nào về số lượng F-16 của Pakistan, vì thế không thể khẳng định hay phủ định được nguồn tin của Tạp chí Foreign Policy.

Phía Ấn Độ thì đưa ra những hình ảnh hiển thị radar chưa được bên thứ 3 kiểm chứng nhằm chứng minh rằng chiếc F-16 của Pakistan đã bị bắn rơi, theo đó 1 máy bay cảnh báo sớm trên không của Ấn Độ đã xác định được tín hiệu của 3 chiếc F-16 và thấy một trong số đó đã biến mất hoàn toàn sau trận không chiến Tuy nhiên Pakistan đưa ra mảnh vỡ của 4 quả tên lửa của MiG-21 với đầu dò và động cơ để bác bỏ tuyên bố của phía Ấn Độ, bởi tiêm kích MiG-21 Bison trong biên chế không quân Ấn Độ chỉ mang được tối đa 4 tên lửa trong một lần xuất kích và Pakistan căn cứ vào đó để khẳng định chiếc MiG-21 của Ấn Độ chưa kịp phóng tên lửa khi bị bắn hạ. Phát ngôn viên quân đội Pakistan, Thiếu tướng Asif Ghafoor nói với các phóng viên ở Rawalpindi: "Trong thời đại ngày nay, việc che giấu máy bay bị bắn rơi là không thể." Phía Pakistan cũng tuyên bố loại máy bay đã bắn hạ chiếc MiG-21 của Ấn Độ không phải là F-16, mà là JF-17 Thunder, sản phẩm hợp tác chế tạo giữa Trung Quốc và Pakistan

Để chứng minh rằng thực sự F-16 đã bị rơi, Ấn Độ đã lấy chính mảnh xác tên lửa Pakistan bắn rơi MiG-21 của mình ra để minh họa ngược lại rằng MiG-21 Bison đã tiêu diệt thành công F-16 và nếu mảnh tên lửa găm vào máy bay bị rơi là tên lửa AIM-120 thì máy bay đó phải là F-16 chứ không thể nào là JF-17 do các tiêm kích JF-17 mà Không quân Pakistan sử dụng đều được tích hợp tên lửa do Trung Quốc sản xuất. Việc Không quân Pakistan cho biết JF-17 đã bắn rơi MiG-21 chứ không phải F-16 rất có thể để nhằm tránh sự trừng phạt của Mỹ, vì Washington chưa chấp nhận cho Islamabad mang F-16 sử dụng nhiệm vụ nào ngoài chống khủng bố.

Nam Tư cũ

Trong thời gian 1991-1995, Quân đội Nhân dân Nam Tư (JNA) và lực lượng người Serb đã sử dụng những chiếc MiG-21M (khoảng 100 chiếc trong thỏa thuận tổng cộng 1/3 lực lượng không quân) khi diễn ra Chiến tranh Slovenia, Chiến tranh giành độc lập Croatia và Chiến tranh Bosna và lần nữa trong Chiến tranh Kosovo 1999 và Operation Allied Force (Chiến dịch Sức mạnh đồng minh - khi NATO ném bom Nam Tư 1999). Trừ trong thời gian NATO can thiệp vào Nam Tư, máy bay không có đội thử trên không và chủ yếu được sử dụng trong vai trò tấn công mặt đất. Những báo cáo chi tiết chỉ ra rằng ít nhất 6 chiếc đã bị bắn hạ bởi lực lượng AA tại Croatia và Bosnia và 24 chiếc khác bị phá hủy bởi NATO, hầu hết khi đang ở trên mặt đất. Năm 1993, Croatia đã mua khoảng 40 chiếc MiG-21 vi phạm lệnh cấm vận vũ khí, nhưng chỉ có 25 chiếc hoạt động trong các đơn vị, trong khi những chiếc khác được sử dụng như những phụ tùng thay thế. Croatia sử dụng chúng cùng 4 chiếc đào ngũ từ JNA ;MiG-21ST (Izdeliye 50) :S = Sapfir (đề cập đến radar Sapfir-21 / RP-22), T = Toplivo ("Nhiên liệu", đề cập đến khả năng tăng nhiên liệu) ::Do MiG-21SMT cực kỳ không phổ biến trong số các phi công Liên Xô, hầu hết đã được chế tạo lại với thùng chứa yên nhỏ hơn của MiG-21bis sau khi loại đó được đưa vào sản xuất năm 1972. Sau khi chuyển đổi, chúng được đổi tên thành MiG-21ST và bên ngoài không thể phân biệt được. MiG-21bis. ;MiG-21PFV :Phiên bản bay trên độ cao lớn (perekhvatchik forsirovannij visotnij, tiêm kích đánh chặn bay trên độ cao lớn). ;MiG-21MF-R :Sau khi MiG-21R ngừng hoạt động trong Không quân Bulgaria vào năm 1995, một nhóm kỹ sư đã trang bị cho MiG-21MF với những thiết bị trinh sát từ MiG-21R. ;MiG-21bis (1972; Izdeliye 75; NATO "Fishbed-L/N" :Sự phát triển cuối cùng của MiG-21, được trang bị động cơ phản lực Tumanskiy R25 -300 và một số tiến bộ khác so với các loại trước đó. Những chiếc MiG-21bis đó cho Lực lượng Phòng không Liên Xô được trang bị hệ thống Lazur GCI (NATO: "Fishbed-L"), trong khi những chiếc cho Không quân Liên Xô được trang bị hệ thống Polyot ILS (NATO: "Fishbed- NS"). thumb|upright=1.2|Mig 21fishbed L/N ;MiG-21bis (Izdeliye 75A; NATO "Fishbed-L") :Máy bay tiêm kích đa chức năng một chỗ. Kiểu sản xuất cuối cùng được chế tạo đến năm 1985 tại Liên Xô và năm 1987 tại Ấn Độ. Phiên bản này trang bị động cơ Tumansky R-25-300, và mang 2880 lít nhiên liệu. Động cơ có khả năng đốt nhiên liệu phụ trội tăng thêm 3 phút - tăng lực đẩy từ 7100 kgf lên 9900 kgf. Nó có thể tăng tốc từ 600 km/h lên 1100 km/h trong 18 giây (MiG-29 thực hiện điều này trong 11,6 giây). Tốc độ bay lên là 225 m/s. Khi so sánh với F-14 có tốc độ bay lên là 152 m/s, MiG-17F là 65 m/s, và F-16A là 215 m/s. :Vì mang quá nhiều nhiên liệu (3250 lít) nên MiG-21SMT làm giảm hiệu suất bay, vì vậy MiG-21bis đã giảm thể tích của các thùng chứa bên trong xuống còn 2880 lít. Máy bay cũng được lắp đặt một radar Sapfir-21M tiên tiến hơn (S-21M hoặc RP-22M), một thiết bị ngắm quang học đã được sửa đổi, ghế phóng KM-1M, máy thu áp suất không khí PVD-18. :MiG-21bis được sản xuất từ ​​năm 1972 đến 1985 tại Nhà máy máy bay Gorky số 21; Tổng cộng 2013 chiếc đã được chế tạo. Phần Lan là một trong những người đầu tiên mua các máy bay chiến đấu này. Ở Ấn Độ, khoảng 220 máy bay đã được lắp ráp bởi nhà máy HAL ở Nasik. Việc lắp ráp MiG-21bis cuối cùng của Ấn Độ được hoàn thành vào năm 1987. ;MiG-21bis (Izdeliye 75B; NATO "Fishbed-N") :Phiên bản trang bị Polyot với một gói thiết bị điện tử hàng không khác một chút được xuất khẩu sang một số nước thuộc Khối Hiệp ước Warsaw. Ở Bulgaria và Đông Đức, chúng được đặt tên là MiG-21bis-SAU (SAU gọi Sistema Avtomaticheskovo Upravleniya = "Hệ thống điều khiển tự động"). Biến thể này được sản xuất theo giấy phép của HAL ở Ấn Độ từ năm 1980 đến năm 1987. ;MiG-21bis/T :T = Tiedusteluversio ("Phiên bản trinh sát") ::Tên gọi của Phần Lan dành cho MiG-21bis được sửa đổi để mang các khoang trinh sát. ;MiG-21MGBT :MGBT = Tiedusteluversio ("Phiên bản trinh sát") ::Định danh Phần Lan chỉ định cho MiG-21bis được nâng cấp cho mục đích trinh sát cũng được trang bị RWR và ECM chủ động

Phiên bản huấn luyện (1960–1968+)

;Ye-6U (1960) :Nguyên mẫu máy bay huấn luyện dựa trên Ye-6T. ::"Ye-33" (1965) :::Một nguyên mẫu của Ye-6U đã được sử dụng bởi hai phụ nữ, NA Prokhanova và Lydia Zaitseva để thiết lập các kỷ lục về độ cao đối đầu. Prokhanova lập kỷ lục ở độ cao 24.336 m (79.842 ft) - cao nhất mà bất kỳ người phụ nữ nào từng đi - vào ngày 22 tháng 5 năm 1965, và một tháng sau, Zaitseva lập kỷ lục về độ cao cho chuyến bay liên tục ở độ cao 19.020 m (62.401 ft). ;MiG-21U (1961; Izdeliye 66-400; NATO "Mongol-A") :U = Uchebnyy ("Đào tạo") :Phiên bản huấn luyện hai chỗ ngồi của MiG-21F-13. ;;MiG-21U-400 ::Tên gọi Đông Đức cho máy bay MiG-21U của izdeliye 66-400. ;MiG-21UR (1961; dự án) :U = Uchebnyy ("Huấn luyện"), R = Razvedchik ("Trinh sát") ::Đây là một dự án chưa được thực hiện dựa trên Ye-6U, trong đó buồng lái phía sau được biến thành một khoang chứa camera mở rộng. ;MiG-21U (1965; Izdeliye 66-600; NATO "Mongol-B") :Về cơ bản giống như 66-400, nhưng với bộ ổn định dọc hợp âm rộng như trên MiG-21PFM. ::MiG-21U-600 :::Tên gọi Đông Đức cho máy bay MiG-21U của izdeliye 66-600. ;MiG-21US (1966; Izdeliye 68; NATO "Mongol-B") :U =Uchebnyy ("Đào tạo"), S = Sduv Pogranichnovo Sloya ("Lớp ranh giới Thổi") ::Phiên bản đào tạo hai chỗ ngồi; bản nâng cấp của MiG-21U 66-400 với cánh gió thổi. ::MiG-21US (1966; Izdeliye 68A; NATO Mongol-B") :::Phiên bản xuất khẩu của MiG-21US với các thiết bị điện tử hàng không được sửa đổi một chút. ;MiG-21UM (1968; Izdeliye 69; NATO "Mongol-B") :U = Uchebnyy ("Đào tạo"), M = Modernizovannyy ("Hiện đại hóa") ::Phiên bản huấn luyện hai chỗ ngồi của MiG-21MF. Type 69 của Không quân Ấn Độ.

Phiên bản nâng cấp (sau 1990)

nhỏ|phải|MiG-21 Bison của không quân Ấn Độ nhỏ|phải|MiG-21 bis-D Không quân Croatia ;MiG-21-93 Bison :Phiên bản nâng cấp xuất khẩu và Ấn Độ là khách hàng đầu tiên. Năm 2003, Nga đã hoàn tất hợp đồng nâng cấp 175 chiếc MiG-21 của Ấn Độ lên chuẩn Bison, giá trị hợp đồng là 626 triệu USD. :Vũ khí gồm radar cảnh báo Phazotron Kopyo (Spear) (dùng cho MiG-29), có thể theo dõi 8 mục tiêu và tấn công đồng thời 2 mục tiêu với tên lửa không đối không bán chủ động như Vympel R-27. Radar cũng có thể điều khiển được tên lửa không đối không chủ động như Vympel R-77 khi kênh bổ sung được hợp nhất. MiG-21bison có khả năng mang các vũ khí không đối không thế hệ mới: tên lửa tầm nhiệt R-73, tên lửa đối không tầm trung lắp đầu tự dẫn radar bán chủ động R-27 và tên lửa đối không tầm xa lắp đầu tự dẫn radar chủ động R-77. Qua đó, nâng cao đáng kể khả năng không chiến của MiG-21. Gói nâng cấp mới cung cấp khả năng không chiến ngoài tầm nhìn với tên lửa Vympel R-77. Hệ thống điện tử kiểu mới được lắp đặt, mũ ngắm mục tiêu cho phi công, khung thân được gia cố để kéo dài tuổi thọ thêm 20 năm. Buồng lái cũng được thiết kế lại với 2 màn hình hiển thị HUD nhằm giảm bớt số nút bấm và đồng hồ cơ khí, giúp phi công thao tác dễ dàng hơn. Các thử nghiệm tại Ấn Độ cho thấy gói nâng cấp MiG-21 Bison đạt khả năng không chiến ngang ngửa thậm chí là vượt trội so với F-16 đời đầu. Giá thành của gói nâng cấp cũng không quá cao, khoảng 3,5 triệu USD/chiếc (chỉ bằng 1/10 giá một chiếc MiG-29 mới). :Để phù hợp với chiến tranh hiện đại thể kỉ 21, Ấn Độ đã hiện đại hóa MiG-21bis lên chuẩn MiG-21-93Bison. Gói nâng cấp MiG-21Bison sẽ "lột xác" hoàn toàn MiG-21, đưa nó trở thành tiêm kích hiện đại. MiG-21 Bison là gói nâng cấp hiện đại nhất của MiG-21 được sản xuất, và có lẽ đây cũng là gói nâng cấp cuối cùng được thực hiện của loại máy bay huyền thoại này.

;MiG-21-97 :Nâng cấp từ MiG-21-93, sử dụng động cơ Klimov RD-33. Người Nga đã tuyên bố rằng những đánh giá tại Sân bay Ramenskoye đã chỉ ra rằng phiên bản này giành chiến thắng trước F-16 trong không chiến mô phỏng với tỷ lệ 4:1. Tuy nhiên phiên bản này có giá khá cao (khoảng 5,5 triệu USD/chiếc) nên không có khách hàng nào đề nghị nâng cấp, việc chế tạo hàng loạt không được tiến hành tiếp. ;MiG-21 Lancer :Phiên bản nâng cấp cho Không quân Romania do Elbit Systems của Israel và Aerostar SA của Romania thực hiện vào năm 1995–2002. Phiên bản LanceR A được tối ưu hóa cho các cuộc tấn công mặt đất có thể cung cấp các loại đạn dẫn đường chính xác có nguồn gốc từ phía đông và phía tây cũng như các tên lửa không đối không R-60, R-73 và Python III. Phiên bản LanceR B là phiên bản huấn luyện và phiên bản LanceR C là phiên bản chiếm ưu thế trên không với 2 màn hình LCD MFD, kính ngắm gắn trên mũ bảo hiểm và radar chiến đấu Elta EL / M-2032. ;MiG-21MFN :nhỏ|210x210px|MiG-21BisD của [[Croatia sau khi được tân trang vào năm 2014.]]Phiên bản nâng cấp cho Không quân Séc (hệ thống dẫn đường và thông tin tương thích với tiêu chuẩn của NATO).

;MiG-21bisD/UMD (D = Dorađen ("Đã nâng cấp"))nhỏ|phải|MiG-21 2000 :Phiên bản nâng cấp vào năm 2003 bởi Aerostar SA, cho Không quân Croatia với một số yếu tố của tiêu chuẩn LanceR. Được hiện đại hóa cho khả năng tương tác của NATO bao gồm Honeywell ILS (VOR / ILS và DME), bộ thu GPS, hệ thống IFF mới và thiết bị liên lạc của Rockwell Collins. ;MiG-21UMD (D = Dorađen) :Định danh của Croatia cho 4 chiếc MiG-21UM được nâng cấp để tăng khả năng tương tác với NATO, tương tự như MiG-21bis-D. ;MiG-21-2000 :Phiên bản xuất khẩu một chỗ cho thế kỷ 21. Được thực hiện bởi hãng Israel Aerospace Industries.

Các phiên bản nước ngoài

;Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa: Trung Quốc đã sao chép MiG-21 thành mẫu máy bay mang tên gọi Chengdu J-7F-7 (cho xuất khẩu).

;Tiệp Khắc: Trong thời gian từ năm 1962 đến 1972, phiên bản MiG-21F-13 đã được chế tạo theo giấy phép tại hãng Aero Vodochody, ở Tiệp Khắc. Aero Vodochody (khi đó là Středočeské strojírny, n.p.), đã chế tạo tổng cộng 194 máy bay trong thời gian đó, dưới tên gọi là Z-159. MiG-21 đi theo sau MiG-15 và MiG-17 được chế tạo tại nhà máy Vodochody từ những năm 50 đến 60 của thế kỷ 20. Phiên bản chế tạo tại Tiệp Khắc chỉ có một điểm khác biệt duy nhất với phiên bản chế tạo tại Liên Xô là vòm kính che buồng lái đằng sau được làm nhẵn và thon bằng những tấm hợp kim đuyra rắn, ngược lại với vòm trong suốt của những chiếc MiG ban đầu của Liên Xô. Những chiếc MiG-21 này được chế tạo cho Không quân Tiệp Khắc và cũng để xuất khẩu. Động cơ R-13-300 cũng được nhập khẩu từ Liên Xô.

;nhỏ|MiG-21 LanceR B của Không quân RomaniaẤn Độ Việc sản xuất MiG-21bis được lắp ráp từ những bộ phận CKD và cũng được tường trình là chế tạo từ đầu ở Ấn Độ theo giấy phép bởi công ty Hindustan Aeronautics tại Nasik kéo dài cho đến năm 1984. Dù một loạt những sự cố gây tại nạn trong thập niên 1990 đã dẫn đến MiG-21 bị đặt biệt danh là "flying coffin - quan tài bay", nhưng Không quân Ấn Độ vẫn quyết định nâng cấp khoảng 128 chiếc MiG-21bis lần nữa để thành tiêu chuẩn của MiG-21 "Bison". Chúng sẽ phục vụ cho đến tận năm 2015 trong không quân Ấn Độ.

;Israel Hãng chế tạo Israel Aerospace Industries đã đưa ra một gói nâng cấp cho MiG-21 gọi là MiG-21-2000.

;Israel/România Một liên doanh giữa Aerostar SA và Elbit đã phát triển gói nâng cấp "LanceR" cho MiG-21, và 114 chiếc MiG-21 đã được nâng cấp thành tiêu chuẩn MiG-21 LanceR cho Không quân Romania.

Nhà khai thác

nhỏ|320x320px|Những đất nước còn sử dụng MiG-21 là màu xanh dương.Những đất nước đã từng sự dụng là màu đỏ.Những đất nước đã từng sử dụng những chiếc tịch thu được là màu xanh lá. nhỏ|phải|MiG-21 Bulgaria tại Căn cứ không quân Graf Ignatievo trong một cuộc tập trận chung với Hoa Kỳ. nhỏ|phải|MiG-21 UMD Không quân Croatia nhỏ|phải|MiG-21U sơn [[quốc kỳ Việt Nam tại bảo tàng bay Cavanaugh]]

Nhà khai thác hiện tai

  • Angola: 23 MiG-21 hoạt động vào tháng 12 năm 2018.
  • Armenia: MiG-21 vẫn đang hoạt động.
  • Azerbaijan: 5 chiếc hoạt động vào tháng 12 năm 2018, 3 MiG-21 đang hoạt động.
  • : Sử dụng 1 phi đội MiG-21 năm 1973. Tất cả đã ngừng hoạt động, hiện sử dụng Chengdu J-7.
  • Bulgaria: Từ năm 1963 đến năm 1990, Bulgaria có: 12 MiG-21F-13, 12 MiG-21PF, 20 MiG-21PFM, 6 MiG-21R, 15 MiG-21M, 20 MiG-21MF, 72 MiG-21bis (đang hoạt động), 1 MiG-21U, 5 MiG-21US và 33 MiG-21UM (đang hoạt đông).
  • Campuchia: 4 MiG-21 không đủ kinh phí hoạt động.
  • Croatia: 12- 24 MiG-21bisD/UMD đang hoạt động.
  • Cuba: Từ năm 1962 đến năm 1983, Cuba mua 270 MiG-21 gồm các phiên bản: MiG-21F-13, MiG-21PF, MiG-21PFM, MiG-21PFMA, MiG-21U, MiG-21UM, MiG-21MF, MiG-21R và MiG-21bis. 160 chiếc hiện đang hoạt động, bao gồm: 90 MiG-21bis, 60 MiG-21MF và 10 MiG-21UM.
  • Ai Cập: 62 MiG-21 đang hoạt động.
  • Guinée: 3 chiếc hoạt động vào tháng 12 năm 2018.
  • Ấn Độ: Phiên bản MiG-21 FL rút khỏi tháng 12 năm 2013, MIG-21 PF (MIG-21 FL hoặc Type 77) rút vào tháng 1 năm 2014. MIG-21bis nâng cấp sẽ được cho nghỉ hưu vào năm 2021–2022..
  • Lào: MiG-21 hoạt động hạn chế.
  • Libya: 25 MiG-21, mua từ Liên Xô. 12 máy bay hoạt động tính đến tháng 12 năm 2018.
  • Mông Cổ: 8 MiG-21 hoạt động hạn chế.
  • Mozambique: 6 Máy bay huấn luyện MIG-21bis + 2 MiG-21UM được báo cáo là đã được tân trang lại và chuyển giao từ Romania, tháng 7 năm 2014 từ Aerostar.
  • Pakistan: 234 Chengdu J-7 đang hoạt động.
  • Nigeria: 32 MiG-21 hoạt động hạn chế.
  • Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên: 150 MiG-21F-13, MiG-21PFM, MiG-21MF, MiG-21bis và MiG-21U trong biên chế, cũng như Chengdu J-7 trông tương tự
  • România: 48 MiG-21 hiện đang hoạt động, sẽ ngừng hoạt động vào năm 2011, khi những máy bay chiến đấu mới như Eurofighter hoặc Gripen được mua.
  • Sudan: 10 Chengdu J-7 đang hoạt động.
  • Syria: 176 MiG-21 đang hoạt động.

Các nhà khái thác trong quá khứ

  • : 166 chiếc, bao gồm 70 MiG-21MF, 40 MiG-21F-13, và khoảng 50 MiG-21bis, được trang bị cho Không quân Afghan. Kiểu F-13 được chuyển gia vào năm 1965, trong khi các kiểu còn lại được chuyển giao đến năm 1980. Không còn hoạt động.
  • *: 581 MiG-21 gồm nhiều phiên bản (F-13, PF, PFM, M, R, MF, bis, U, US, và UM) được mua trong giai đoạn 1961-1980, ngừng hoạt động năm 2003.

  • ː 14 trong kho
  • Tiệp Khắc: Chuyển cho Séc và Slovakia. Rất nhiều phiên bản: F-13 (do Liên Xô và Tiệp Khắc chế tạo), PF, PFM, R, MA, MF và U, US và UM 2 chỗ. Chưa bao giờ sử dụng phiên bản Bis.
  • Cộng hòa Séc: MF được nâng cấp thành tiêu chuẩn MFN NATO. Không còn sử dụng, không quân Séc hiện sử dụng JAS39 Gripen.
  • Đông Đức
  • Đức: tiếp quản từ Cộng hoà Dân chủ Đức.
  • : Đã bị thay thế bởi những chiếc Su-27.
  • : Tiêm kích: MiG-21bis Fishbed-N (26; 1977-1998), MiG-21F-13 Fishbed-C (22; 1963-1986), Huấn luyện: MiG-21UM Mongol-B (2; 1974-1998), MiG-21US Mongol-B (2; 1981-1997), MiG-21UTI Mongol-A (2; 1965-1997)
  • : Khoảng 300 chiếc từ 1962 đến 2001 (MiG-21MF hoạt động hạn chế năm 1996)
  • : Có được những chiếc MiG-21 vào năm 1961 và sử dụng trong Chiến dịch TRIKORA năm 1962 tại Tây New Guinea (hiện nay là Papua và Papua Barat). Hoạt động hạn chế năm 1969 và ngừng hoạt động năm 1970.
  • : Hoạt động trong Thời kỳ Saddam Hussein.Hầu hết bị phá hủy hoặc bị loại bỏ. *ː Đã mua 12 chiếc MiG-21PFM cũ của Đông Đức cộng với 4 chiếc MiG-21U cho mục đích huấn luyện. Tuy nhiên, chỉ có hai chiếc MiG-21U được chuyển giao, những chiếc còn lại bị cấm vận sau khi nước Đức thống nhất.
  • Bắc Yemen: MiG-21 chuyển cho Yemen. Tiểu vương quốc Hồi giáo Afghanistan : Được tịch thu trong Chiến dịch Diamond. Hiện ở Bảo tàng Không quân Israel (Israeli Air Force Museum) *ː19 bị bắt(1 hoạt động). Ban đầu là ba chiếc trong tình trạng hoạt động. Các lực lượng không quân Syria tuyên bố đã bắn hạ hai chiếc. Các khung máy bay khác đang trong tình trạng hư hỏng khác nhau và một số trong số chúng đang được đại tu vào thời điểm bị bắt.
  • ː Năm 1993, sau khi Tiệp Khắc giải thể, Không quân Slovakia đã thu được 13 chiếc MiG-21MA, 36 chiếc MiG-21MF, 8 chiếc MiG-21R, 2 chiếc MiG-21US và 11 chiếc MiG-21UM. Chúng đã bị thu hồi vào năm 2003. Một số trong số chúng đang được trưng bày và trong các viện bảo tàng trên khắp đất nước, một số đã bị nghiền nát..
  • : MiG-21 chuyển cho các nước cộng hòa.
  • *ː đã nghỉ hưu khỏi Lực lượng Không quân Hoa Kỳ sau các chuyến bay đánh giá theo " Have Donut " và nhiệm vụ phi đội xâm lược.

  • Việt Nam: Loại biên năm 2015, từng tiếp nhận hàng trăm chiếc các phiên bản Mig-21MF, Mig-21-f13, Mig-21UM, Mig-21bis *nhỏ|phải|MiG-21MF không quân Xô viết

Hoạt động dân sự

Một số máy bay hiện đang thuộc các bộ sưu tập sở hữu tư nhân. Những người buôn máy bay tại Mỹ thậm chí còn nhập khẩu nguyên những chiếc MiG-21, MiG-15 và MiG-17 từ Nga và các quốc gia khác và bán cho những người sưu tập với giá khoảng 20.000 USD.

Image:Mig21F13web.jpg|Mig 21 F13 Image:Mig21PFfamilyweb.jpg|Mig 21 Fishbed D Image:Mig21fishbedHfamilyweb.jpg|Mig 21 Fishbed H/J Image:Mig21bisweb.jpg|Mig 21 bis Fishbed L/N

Thông số kỹ thuật

Động cơ

* = giới hạn (3 phút) "siêu năng lượng" hâm nóng ở độ cao 4000m (13.120 ft) hoặc ít hơn.

Vũ khí

Hệ thống điện tử hàng không

* ADF = Automatic direction finderː Công cụ tìm hướng vô tuyến, dấu hoa thị theo tên có nghĩa là không có mô-đun DME. ** = Dấu hoa thị theo tên biểu thị một đơn vị chỉ tìm kiếm phạm vi.

Thông số kỹ thuật (Mikoyan-Gurevich MiG-21PFM)

Đặc điểm chungː

  • Phi hành đoàn: 1
  • Chiều dài: 14,5 m (47 ft 6,86 in) (có pitot)
  • Sải cánh: 7.154 m (23 ft 5.66 in)
  • Chiều cao: 4,125 m (13 ft 6,41 in)
  • Diện tích cánh: 23,0 m 2 (247,3 sq ft)
  • Tổng trọng lượng: 8.825 kg (19.425 lb)
  • Động cơ: 1 × Tumanskiy R25-300, lực đẩy khô 40,21 kN (9,040 lbf), 69,62 kN (15,650 lbf) với đốt sau.

Hiệu suấtː

  • Tốc độ tối đa: 2.228 km / h (1.468 mph, 1.276 kn)
  • Tốc độ tối đa: Mach 2.05
  • Phạm vi: 1.210 km (751 mi, 653 nmi) (nhiên liệu bên trong)
  • Trần bay: 17.800 m (58.400 ft)
  • Tốc độ leo: 225 m / s (44.280 ft / phút)

Vũ khíː

  • 1x pháo 23 mm GSh-23 bên trong, cộng
  • 2x R-27R1 hoặc R-27T hoặc 4x Vympel R-77 hoặc 4x R-60M hoặc R-73E AAM hoặc
  • 2x bom 500 kg (1.102 lbs)
👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Mikoyan-Gurevich MiG-21** (tiếng Nga: Микоян и Гуревич МиГ-21) (tên ký hiệu của NATO: **Fishbed** - **Cá hóa thạch**) là một máy bay tiêm kích phản lực, được thiết kế bởi phòng thiết kế Mikoyan, Liên
**Mikoyan-Gurevich MiG-23** (tiếng Nga: Микоян и Гуревич МиГ-23; tên ký hiệu của NATO: "**Flogger**") là một loại máy bay tiêm kích cánh cụp cánh xòe, được thiết kế bởi phòng thiết kế Mikoyan-Gurevich OKB của
Mikoyan-Gurevich **MiG-15** (tiếng Nga: Микоян и Гуревич МиГ-15) (tên ký hiệu của NATO đặt là "**Fagot**") là một máy bay tiêm kích phản lực thế hệ thứ nhất của Liên Xô do Artem Mikoyan và
Mikoyan-Gurevich **MiG-19** (tiếng Nga: Микоян и Гуревич МиГ-19) (tên ký hiệu của NATO là "**Farmer**" - **Nông dân**) là máy bay tiêm kích phản lực thế hệ thứ hai của Liên Xô, một chỗ ngồi,
**Mikoyan-Gurevich MiG-17** (tiếng Nga: Микоян и Гуревич МиГ-17; Tên ký hiệu của NATO: **Fresco**) là một máy bay tiêm kích phản lực cận âm sản xuất bởi Liên Xô, được đưa vào sử dụng từ
**Mikoyan-Gurevich MiG-25** (tiếng Nga: МиГ-25) (tên ký hiệu của NATO: "**Foxbat**") là một máy bay tiêm kích đánh chặn, trinh sát và ném bom siêu thanh thế hệ 3, được thiết kế bởi Phòng thiết
Mikoyan-Gurevich **MiG-9** (tiếng Nga: Микоян и Гуревич МиГ-9, tên ký hiệu của NATO: _Fargo_) (không phải là bản phát triển từ MiG-3 cũng được gọi là "MiG-9") là máy bay đầu tiên trong thế hệ
**Mikoyan-Gurevich MiG-23PD** là một mẫu máy bay thử nghiệm của Liên Xô trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, đây là một mẫu máy bay được phát triển để đáp ứng nhu cầu của Không quân
**Mikoyan-Gurevich MiG-105** ("**Spiral - Đường xoắn ốc**") là một chương trình Xô Viết để chế tạo một tàu vũ trụ trên quỹ đạo. Nó là câu trả lời của người Liên Xô đối với dự
**Mikoyan-Gurevich Ye-152A** (tên ký hiệu của NATO **Flipper** - Bàn tay) là một mẫu máy bay thử nghiệm của Liên Xô, đây là mẫu máy bay thử nghiệm được phát triển dựa trên máy bay
**Mikoyan**, trước kia là **Mikoyan-Gurevich** (tiếng Nga: Микоян и Гуревич, МиГ), là một công ty chuyên thiết kế và sản xuất máy bay quân sự Nga, chủ yếu là máy bay chiến đấu. Trước kia
**Mikoyan-Gurevich Ye-2** (tiếng Nga: Е-2), còn có các tên **Ye-2A1**, **Ye-2A2** (tên ký hiệu của NATO **"Tấm xoay"**), là một loại máy bay thử nghiệm trong chương trình chế tạo máy bay chiến thuật có
**YE-8** (tiếng Nga: ОКБ Микояна Гуревича Е-8) là một loại máy bay thử nghiệm được phát triển bởi phòng thiết kế máy bay Mikoyan và Gurevich, Liên Xô, là một máy bay thử nghiệm nằm
**YE-50**, tiếng Nga Е-50. Được phát triển bởi phòng thiết kế máy bay OKB Mikoyan và Gurevich (nơi thiết kế các MiG, tiếng Nga: ОКБ Микояна, Гуревича). **YE-50**, YE-1, YE-2 là những máy bay mang
YE-5 (tiếng Nga: Е-5, hay Х-5, И-500, МиГ-21), các cách gọi khác: Kh-5, I-500, MiG-21, là một loại máy bay thử nghiệm trong chương trình phát triển MiG-21. Nó là mấu thử đạt yêu cầu
**YE-4** (tiếng Nga: Е-4) là một loại máy bay được phát triển bởi phòng thiết kế máy bay Mikoyan (ОКБ Микояна) và Gurevich (Гуревича). YE-4 bay lần đầu năm 1955 và có thân gần giống
Mikoyan-Gurevich SM-12 là một mẫu máy bay chiến đấu thử nghiệm của Liên Xô, nó được phát triển dựa trên các thông số của MiG-19, có 4 mẫu được chế tạo, nhưng sau này nó
**Mikoyan-Gurevich Ye-152P** là mẫu máy bay chiến đấu thử nghiệm tiên tiến của Liên Xô, loại máy bay này được phát triển dựa trên MiG-21 và được dùng để thiết lập các kỷ lục bay
**Mikoyan-Gurevich I-225** là một mẫu máy bay trong seri "A", đây là một loạt các máy bay chiến đấu thử nghiệm của Liên Xô trong chiến tranh thế giới II. ## Lịch sử Mặc dù,
**Mikoyan-Gurevich I-7U** là một mẫu máy bay chiến đấu thử nghiệm của Liên Xô được phát triển dựa trên mẫu I-370, nó sử dụng động cơ Lyulka AL-7F thay vì dùng động cơ Klimov. ##
Hành lang MiG (MiG Alley) **Hành lang MiG** (tiếng Anh:**MiG Alley**) hay **Thung lũng MiG** là tên của phi công Không quân Hoa Kỳ đặt cho một vị trí địa lý nằm ở đông bắc
**Artem Ivanovich Mikoyan** (tiếng Armenia: Արտյոմ Հովհաննեսի Միկոյան hoặc Անուշավան Հովհաննեսի Միկոյան; tiếng Nga: Артё́м Ива́нович Микоя́н) (5 tháng 8-1905 - 9 tháng 12-1970), ông là một nhà thiết kế máy bay của Liên bang
**Mihai I của România** (tiếng România: _Mihai I al României_ ; 25 tháng 10 năm 1921 – 5 tháng 12 năm 2017) là vị vua cuối cùng của Vương quốc România, trị vì từ ngày
__NOTOC__ Danh sách máy bay :A B C-D E-H I-M N-S T-Z ## I ### IAI * IAI Arava * IAI Astra * IAI C-38 Courier * IAI F-21 Kfir * IAI Galaxy * IAI
**Bảo tàng Máy bay Szolnok** _(Szolnoki Repülőmúzeum)_ là bảo tàng hàng không lớn ở Szolnok, Hungary. Bảo tàng trưng bày các loại máy bay, động cơ máy bay quân sự và dân sự cũ. Bảo
Tên ký hiệu của NATO/ASCC cho máy bay chiến đấu, với tên gọi của Liên Xô, Nga, Trung Quốc, thứ tự theo bản báo cáo của NATO: * "Faceplate" MiG Ye-2A * "Fagot" Mikoyan-Gurevich MiG-15
thế=Một phi công của Không quân Hoa Kỳ điều khiển một máy bay F-35A Lightning II được giao cho Phi đội Tiêm kích 58, Phi đoàn Tiêm kích 33 vào vị trí để tiếp nhiên
## Máy bay cường kích * Ilyushin ** Ilyushin Il-2 "Sturmovik" ** Ilyushin Il-10 * MiG ** Mikoyan MiG-27 * Sukhoi ** Sukhoi Su-2 ** Sukhoi Su-7 ** Sukhoi Su-24 ** Sukhoi Su-25 * Yakovlev
**Danh sách máy bay quân sự** là danh sách liệt kê tất cả các loại máy bay quân sự hiện đại thường gặp của các nước được sử dụng gần đây để so sánh và
**Không quân Liên Xô** (, _Voyenno-vozdushnye sily SSSR_), cũng còn được biết đến dưới tên gọi tắt là **VVS**, chuyển tự từ tiếng Nga là: **ВВС**, Военно-воздушные силы (_Voenno-vozdushnye sily_), đây là tên gọi chỉ
**Vympel R-73** (tên ký hiệu của NATO: **AA-11 Archer**) là một loại tên lửa không đối không tầm ngắn được Vympel NPO phát triển. Nó được thiết kế để sử dụng trong các cuộc không
**Chiến dịch Focus** (, _Mivtza Moked_) là một cuộc không kích mở màng của Israel khơi mào cho Chiến tranh Sáu ngày vào năm 1967. Đôi khi chiến dịch này được truyền thông đề cập
**Không quân nhân dân Việt Nam** (**KQNDVN**), được gọi đơn giản là **Không quân Việt Nam** (**KQVN**) hay **Không quân Nhân dân**, là một bộ phận của Quân chủng Phòng không – Không quân, trực
**Máy bay tiêm kích phản lực thế hệ thứ hai** tồn tại trong giai đoạn giữa thập niên 1950 tới nửa đầu thập niên 1960. nhỏ|phải|Máy bay tiêm kích đánh chặn [[Mikoyan-Gurevich MiG-21|MiG-21F]] [[English Electric
Tên ký hiệu của NATO/Air Standardization Coordinating Committee (ASCC - Ủy ban tiêu chuẩn không trung) cho máy bay đa chức năng của Liên Xô, sắp xếp thêo tên gọi bản báo cáo của NATO:
**AIM-120 AMRAAM** (**Advanced Medium-Range Air-to-Air Missile** - **AMRAAM**) (được đọc là "am-ram") là một tên lửa không đối không ngoài tầm nhìn (BVRAAM) hoạt động mọi thời tiết do Mỹ sản xuất. Tên lửa có
**Thành Đô Tiêm-7** (tiếng Trung: 歼-7; phiên bản xuất khẩu có tên là **F-7**; tên ký hiệu NATO: **Fishcan**) là một loại máy bay tiêm kích được Trung Quốc sản xuất theo giấy phép của
**Raduga K-9** (tên ký hiệu của NATO **AA-4 _Awl**_) là một tên lửa không đối không tầm xa được Liên Xô phát triển vào cuối thập niên 1950. Nó được thiết kế bởi MKB Raduga
**Chiến dịch Linebacker II**, hay còn được biết đến là **Chiến dịch Điện Biên Phủ trên không**, là chiến dịch quân sự cuối cùng của Hoa Kỳ chống lại Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
**Nhà máy chế tạo máy bay Sokol** () là nhà máy chuyên chế tạo và sản xuất máy bay tiêm kích MiG. Trụ sở nhà máy đặt tại Nizhny Novgorod. Nhà máy được thành lập
**Sukhoi Su-17** (tên ký hiệu của NATO **'Fitter**') là một dòng máy bay tiêm kích bom cánh cụp cánh xòe của Liên Xô, được phát triển từ Sukhoi Su-7. Dòng máy bay này được xuất
Đây là danh sách các sự kiện hàng không nổi bật xảy ra trong năm 1955: ## Các sự kiện ## Chuyến bay đầu tiên ### Tháng 2 * 14 tháng 2 - Mikoyan-Gurevich Ye-2,
**R-11** là loại động cơ máy bay tuốc bin phản lực được phát triển từ động cơ R-9 do Cục thiết kế Tumansky thực hiện với sự tham gia của A.A. Mikulin, S.K. Tumansky và
**Guizhou JL-9** còn được gọi là **FTC-2000 Mountain Eagle** (), là một loại máy bay huấn luyện phản lực tiên tiến và máy bay chiến đấu hạng nhẹ siêu thanh do Guizhou Aviation Industry Import/Export
**_Hà Nội 12 ngày đêm_** là một bộ phim điện ảnh của Việt Nam, với mục đích cố gắng khắc họa bối cảnh cuộc chiến đấu chống tập kích bằng máy bay B-52 đánh phá
**Nguyễn Văn Nghĩa** (sinh ngày 3 tháng 5 năm 1946) là một Đại tá phi công người Việt Nam của lực lượng Không quân nhân dân. ## Thân thế và sự nghiệp Nghĩa sinh ngày
nhỏ|Máy bay tiêm kích [[Supermarine Spitfire|Spitfire với cánh đặt thấp dạng elip và có góc nhị diện nhỏ hướng lên trên".]] **Cấu hình cánh của máy bay cánh cố định** (bao gồm cả tàu lượn
**Sân bay Herat** là một sân bay cách Herat 10,5 km về phía đông nam, ngay phía đông của tuyến đường Herat-Farah, gần Guzara ở quận Guzara. Sân bay này do Hoa Kỳ xây dựng cuối
**Máy bay tiêm kích phản lực thế hệ thứ ba** tồn tại trong giai đoạn từ nửa sau thập niên 1960 tới thập niên 1970. nhỏ|phải|[[McDonnell Douglas F-4 Phantom II|McDonnell Douglas F-4G Phantom II]] nhỏ|phải|[[Mikoyan-Gurevich
**Danh sách trang thiết bị quân sự sử dụng trong Chiến tranh Vùng Vịnh** là bảng tổng hợp các loại vũ khí và các trang bị quân sự được sử dụng bởi các quốc gia