✨Mikoyan-Gurevich MiG-105

Mikoyan-Gurevich MiG-105

Mikoyan-Gurevich MiG-105 ("Spiral - Đường xoắn ốc") là một chương trình Xô Viết để chế tạo một tàu vũ trụ trên quỹ đạo. Nó là câu trả lời của người Liên Xô đối với dự án tàu vũ trụ X-20 Dyna-Soar của người Mỹ và có thể nó đã có ảnh hưởng đến chương trình nâng cao thân máy bay của Trung tâm nghiên cứu bay Dryden thuộc NASA. Nó có tên Nga là "Lapot" (tiếng Nga: лапоть), hay giày sợi do hình dáng phần mũi của nó.

Phát triển

Cũng được biết đến như Máy bay thí nghiệm chở khách lên quỹ đạo, công việc về dự án này cuối cùng được bắt đầu trong năm 1965, 2 năm sau sau khi dự án X-20 Dyna-Soar bị hủy bỏ. Dự án này bị tạm dừng vào năm 1969, và được phục hồi lại vào năm 1974 như một lời đáp lại đối với chương trình tàu con thoi của Mỹ.

Phương tiện thử nghiệm chuyến bay thử nghiệm dưới tốc độ siêu âm đầu tiên của nó vào năm 1976, nó cất cánh tại một căn cứ cũ gần Moskva, nó được điều khiển bởi phi công A. G. Festovets tới từ trung tâm thử nghiệm bay Zhukovsky, nó bay lên với khoảng cách 19 dặm.

Chuyến bay thử, tổng cộng là 8 giờ tất cả, các chuyến bay tiếp tục rời rạc cho đến năm 1978. Chưa bao giờ nó được bay vào không gian, cuối cùng dự án này đã bị hủy bỏ khi người ta quyết định thay vào đó là chương trình Buran.

Tàu Spiral vẫn còn tồn tại và được trưng bày ở ngoài trời tại bảo tàng không quân Monino ở Nga. Xem hình ảnh [http://www.moninoaviation.com/11a.html Spiral tại Monino] .

Sự khác nhau giữa Dyna-Soar và Spiral

Mặc dù có cùng sứ mệnh như nhau, nhưng X-20 Dyna-Soar và Spiral về cơ bản có những điểm khác nhau, ví dụ: Trong khí X-20 Dyna-Soar được thiết kế để phóng trên đỉnh một tên lửa đẩy theo quy ước giống như Titan III hay Saturn I, những kỹ sư Liên Xô đã lựa chọn một giải pháp mạo hiểm để phóng Spiral. Giống như lựa chọn "50/50", ý tưởng là dùng một tàu mẹ sử dụng nhiên liệu lỏng để phóng Spiral từ độ cao lớn từ trên lưng của tàu mẹ, nó sẽ được chở trên lưng của tàu mẹ với tốc độ âm thanh. Ý tưởng tương tự được sử dụng tại Mỹ trong việc phóng D-21 Tagboard một loại máy bay do thám không người lái từ trên lưng của một chiếc A-12 OXCART. Tàu mẹ được chế tạo bởi cục thiết kế Tupolev (OKB-156) và được ứng dụng nhiều công nghệ được phát triển cho máy bay chở khách siêu âm Tupolev Tu-144 (một loại máy bay tương tự với Concorde) và máy bay ném bom vận tốc Mach 3 Sukhoi T-4 (nó có một vài chi tiết giống với XB-70 Valkyrie). Thật sự thì chiếc tàu mẹ này chưa bao giờ ra khỏi bản vẽ thiết kế. Người Mỹ đã công khai một thiết kế tương tự vào những năm 1990 dưới một kế hoạch tuyệt mật dự án tàu vũ trụ Sao đen. Dyna-Soar được thiết kế với cánh tam giác cố định, trong khi Spiral được thiết kế đổi mới với cánh có thể thay đổi được hình dạng. Trong thời gian phóng và quay trở lại Trái Đất, những chiếc cánh được xếp sát vào thân tạo góc 60°, đóng vai trò một bộ thăng bằng thẳng đứng. Sau khi bay vào quỹ đạo với tốc độ dưới tốc độ siêu âm, phi công kích hoạt bộ cơ cấu truyền động kích điện hạ cánh xuống trong tư thế nằm thẳng, giữ cho tàu bay tốt hơn. Spiral được chế tạo cho phép khả năng hạ cánh và cất cánh trong trường hợp thiết đường băng đủ dài. Một đầu lấy không khí vào cho động cơ phản lực đơn Koliesov được đặt ở dưới trung tâm thăng bằng thẳng đứng. Nó được bảo vệ trong thời gian phóng và quay trở về bởi một cửa kẹp điện áp, nó được mở ra ở tốc độ dưới tốc độ siêu âm. Khi so sánh, Dyna-Soar được thiết kế chủ yếu cho một lần sử dụng, nó không được gắn thiết bị hạ cánh, mặc dù một số tài liệu nào đó tuyên bố nó có tên lửa cứu hộ nhiên liệu rắn có thể được dùng cho hạ cánh nếu cần thiết (động cơ thứ 3 dựa vào mẫu tên lửa liên lục địa LGM-30 Minuteman). Spiral được thiết kế như một máy bay có thể tự nâng lên được, trong khi Dyna-Soar được thiết kế giống như một máy bay truyền thống. Kim loại chịu được nhiệt độ cao như niobi, molybden, wolfram và reni 41 đã được sử dụng để chế tạo vật liệu cách nhiệt trong thân tàu của X-20 Dyna-Soar. Spiral được bảo vệ bởi một thứ được các kỹ sư Liên Xô gọi là "tấm áo giáp vảy": được ghép từ các tấm thép đặc biệt, chúng được gắn với nhau bởi các khớp nối làm từ gốm chịu được nhiệt trong khi bay trong bầu khí quyển. Một vài Tên lửa quỹ đạo không người lái đã được chế tạo dựa trên cấu tạo này và đã được phóng lên để thử nghiệm cho tấm áo giáp này. Nếu tên lửa đẩy bị nổ hay trong trường hợp khẩn cấp khi bay, khoang của phi hành đoàn được cách ly khỏi phần còn lại của Spiral, các khoang có cấu tạo tách rời, nên khoang lái chứa các phi công sẽ được phóng trở lại Trái Đất với một hệ thống đáp bằng dù; điều này chợt nảy ra trong các chuyến bay. Một hệ thống thoát hiểm tương tự như vậy cũng được xem xét cho Dyna-Soar, nhưng các kỹ sư Mỹ cuối cùng chọn lựa một tên lửa thoát hiểm dùng nhiên liệu rắn để cứu thoát cho phi công và tàu con thoi. Ngày nay tương tự như các phi thuyền con thoi, Dyna-Soar được thiết kế với khoang trọng tải nhỏ ở phía sau để điều áp cho module phi công. Cái này cũng được sử dụng trên các vệ tinh nhỏ, mang theo thiết bị giám sát, vũ khí hay thậm chí một nhóm công tác trong buồng lái. Spiral, mặt khác, khi xuất hiện chỉ có ý định mang phi công. Có lẽ, điều này vì thêm được không gian mà có thể giữ được một trọng tải tối đa cần cho động cơ Koliesov và nhiên liệu dùng cho nó. Cả Dyna-Soar và Spiral được thiết kế hạ cánh trên đường băng bằng các bộ má phanh. Việc hạ cánh trên Dyna-Soar được thiết kế triển khai từ những cánh cửa phía dưới thân, như một máy bay truyền thống. Các kỹ sư Liên Xô, có lẽ quan tâm đến cả sự toàn vẹn của các tâm cách nhiệt, đã thiết kế những má phanh hạ cánh trên Spiral được triển khai từ một cửa trên cạnh thân tàu chỉ ở trên và phía trước cánh. Sự sắp đặt khác thường này tạo ra một sự hạ cánh ít va chạm nhất.

Phi công

Một khóa đào tạo các nhà du hành vũ trụ cho các phi công bay trên phi thuyền được hình thành vào đầu những năm 1960. Nó đã đi qua nhiều sự thay đổi và dần dần bị giải tán. Gherman Titov, người thứ hai của Liên Xô bay vào vũ trụ (xem nhiệm vụ Vostok 2), đã trở thành một thành viên của khóa huấn luyện này. Phi công A. G. Festovets đã lái phi thuyền trong phần lớn thời gian thử nghiệm trong bầu khí quyển.

Bão to

Spiral ở bảo tàng không quân Monino Dù cho Spiral chưa bao giờ làm cho mình trở thành một phi thuyền nổi tiếng, nó được đồn đại rằng thiết kế được dùng lại và bổ sung để chế tạo một tàu không gian đánh chặn được biết đến như "Bão to" vào những năm 1980. Chiếc máy bay này đã được phóng bởi tên lửa Zenit được chế tạo ở Ukraina và nó có ý định được dùng để đánh chặn và phá hoại (nếu cần thiết) các phi thuyền không gian quân sự được phóng từ căn cứ không quân Vandenberg. Nó được vũ trang gồm các tên lửa chống phi thuyền.

Liệu có phải chiếc phi thuyền này đã bao giờ bay trong không gian, hoặc như vậy thì, bao nhiêu thời gian, điều đó không được biết. Cái gì được biết, đó là 2 nhóm nhà du hành vũ trụ của không quân Liên Xô, gồm 6 người trong nhóm đầu tiên và ít nhất là 3 ở nhóm thứ 2, đã được chọn và huấn luyện để làm phi công của loại phi thuyền này. Khả năng mà những tàu con thoi có thể đánh chặn và bắn hạ các mục tiêu là nguyên nhân gây náo động trong bộ quốc phòng Hoa Kỳ tại thời điểm đó.

Sau sự cố thảm họa tàu con thoi Challenger đã thúc đẩy NASA và Ủy ban phát triển tới sự hủy bỏ mọi cuộc phóng tàu từ Vandenberg, nó được nói rằng Liên Xô không có những nhu cầu xa hơn nữa về máy bay và kết thúc chương trình Bão to.

Ngày nay, những viên chức Nga tiếp tục từ chối khéo léo việc tồn tại của chiếc máy bay và một số tin tưởng rằng đó là mọi phần trong một kế hoạch đánh lạc hướng đối phương của Liên Xô, để quân đội Mỹ sợ hãi trong ý nghĩ thứ 2 về tàu con thoi.

BOR

Nhiều tàu vũ trụ khác được sử dụng trong thiết kế Spiral đã trở thành những loạt BOR. Những mô hình này được giữ gìn trong những bảo tàng vũ trụ trên khắp thế giới.

Đặc điểm kỹ thuật (MiG-105)

*Chiều dài*: 8.5 m Sải cánh: 7.4m Chiều cao: 2.8 m Trọng lượng rỗng: 4.220 kg Trọng lượng tải: 500 kg Động cơ**: Koliesov RD 36-35-K lực đẩy 2.350 Kgf

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Mikoyan-Gurevich MiG-105** ("**Spiral - Đường xoắn ốc**") là một chương trình Xô Viết để chế tạo một tàu vũ trụ trên quỹ đạo. Nó là câu trả lời của người Liên Xô đối với dự
**Mikoyan-Gurevich MiG-21** (tiếng Nga: Микоян и Гуревич МиГ-21) (tên ký hiệu của NATO: **Fishbed** - **Cá hóa thạch**) là một máy bay tiêm kích phản lực, được thiết kế bởi phòng thiết kế Mikoyan, Liên
Mikoyan-Gurevich **MiG-19** (tiếng Nga: Микоян и Гуревич МиГ-19) (tên ký hiệu của NATO là "**Farmer**" - **Nông dân**) là máy bay tiêm kích phản lực thế hệ thứ hai của Liên Xô, một chỗ ngồi,
**Mikoyan-Gurevich MiG-17** (tiếng Nga: Микоян и Гуревич МиГ-17; Tên ký hiệu của NATO: **Fresco**) là một máy bay tiêm kích phản lực cận âm sản xuất bởi Liên Xô, được đưa vào sử dụng từ
Mikoyan-Gurevich **MiG-15** (tiếng Nga: Микоян и Гуревич МиГ-15) (tên ký hiệu của NATO đặt là "**Fagot**") là một máy bay tiêm kích phản lực thế hệ thứ nhất của Liên Xô do Artem Mikoyan và
**Mikoyan-Gurevich MiG-23PD** là một mẫu máy bay thử nghiệm của Liên Xô trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, đây là một mẫu máy bay được phát triển để đáp ứng nhu cầu của Không quân
**Mikoyan-Gurevich I-270** (thiết kế **Ж** ("Zh"), hay MiG I-270 là một thiết kế máy bay quân sự Liên Xô của Viện thiết kế Mikoyan-Gurevich, (Không quân Hoa Kỳ gọi nó với cái tên "Type 12")
**Mikoyan-Gurevich I-225** là một mẫu máy bay trong seri "A", đây là một loạt các máy bay chiến đấu thử nghiệm của Liên Xô trong chiến tranh thế giới II. ## Lịch sử Mặc dù,
**Mikoyan-Gurevich I-224** là một máy bay chiến đấu thử nghiệm của Liên Xô trong chiến tranh thế giới II nhưng nó không bao giờ được sản xuất hàng loạt. ## Lịch sử 2 chiếc máy
**Mikoyan**, trước kia là **Mikoyan-Gurevich** (tiếng Nga: Микоян и Гуревич, МиГ), là một công ty chuyên thiết kế và sản xuất máy bay quân sự Nga, chủ yếu là máy bay chiến đấu. Trước kia
**YE-8** (tiếng Nga: ОКБ Микояна Гуревича Е-8) là một loại máy bay thử nghiệm được phát triển bởi phòng thiết kế máy bay Mikoyan và Gurevich, Liên Xô, là một máy bay thử nghiệm nằm
MiG-110 **Mikoyan-Gurevich MiG-110** (tiếng Nga: МиГ-110) là một máy bay chở khách/hàng hóa, nó bắt đầu được phát triển vào năm 1995 nhưng chưa bao giờ bay. Nó có 2 động cơ tua bin phản
__NOTOC__ Danh sách máy bay :A B C-D E-H I-M N-S T-Z ## I ### IAI * IAI Arava * IAI Astra * IAI C-38 Courier * IAI F-21 Kfir * IAI Galaxy * IAI
thế=Một phi công của Không quân Hoa Kỳ điều khiển một máy bay F-35A Lightning II được giao cho Phi đội Tiêm kích 58, Phi đoàn Tiêm kích 33 vào vị trí để tiếp nhiên
**Danh sách trang thiết bị quân sự sử dụng trong Chiến tranh Vùng Vịnh** là bảng tổng hợp các loại vũ khí và các trang bị quân sự được sử dụng bởi các quốc gia
**Máy bay tiêm kích phản lực thế hệ thứ ba** tồn tại trong giai đoạn từ nửa sau thập niên 1960 tới thập niên 1970. nhỏ|phải|[[McDonnell Douglas F-4 Phantom II|McDonnell Douglas F-4G Phantom II]] nhỏ|phải|[[Mikoyan-Gurevich
**Máy bay tiêm kích phản lực thế hệ thứ hai** tồn tại trong giai đoạn giữa thập niên 1950 tới nửa đầu thập niên 1960. nhỏ|phải|Máy bay tiêm kích đánh chặn [[Mikoyan-Gurevich MiG-21|MiG-21F]] [[English Electric
**Không quân Liên Xô** (, _Voyenno-vozdushnye sily SSSR_), cũng còn được biết đến dưới tên gọi tắt là **VVS**, chuyển tự từ tiếng Nga là: **ВВС**, Военно-воздушные силы (_Voenno-vozdushnye sily_), đây là tên gọi chỉ
**Máy bay chiến đấu** là một loại máy bay quân sự của lực lượng không quân có chức năng trực tiếp tham gia chiến đấu tiêu diệt các lực lượng đối phương. ## Phân loại
**Không quân nhân dân Việt Nam** (**KQNDVN**), được gọi đơn giản là **Không quân Việt Nam** (**KQVN**) hay **Không quân Nhân dân**, là một bộ phận của Quân chủng Phòng không – Không quân, trực
**Vympel R-73** (tên ký hiệu của NATO: **AA-11 Archer**) là một loại tên lửa không đối không tầm ngắn được Vympel NPO phát triển. Nó được thiết kế để sử dụng trong các cuộc không
Một **máy bay ném bom chiến thuật** là một máy bay tương đối nhỏ được sử dụng trong khu vực chiến đấu để tấn công các đơn vị trang bị quân sự cho sự ném
**AIM-120 AMRAAM** (**Advanced Medium-Range Air-to-Air Missile** - **AMRAAM**) (được đọc là "am-ram") là một tên lửa không đối không ngoài tầm nhìn (BVRAAM) hoạt động mọi thời tiết do Mỹ sản xuất. Tên lửa có
**Chiến dịch Sấm Rền** (tiếng Anh: _Operation Rolling Thunder_) hay** Chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất** (theo cách gọi của chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày nay)
**Không quân Liên bang Nga** (tiếng Nga: Военно-воздушные cилы России, chuyển tự: _Voyenno-vozdushnye sily Rossii_) là lực lượng Phòng không - Không quân cấp quân chủng của Nga. Hải quân Nga cũng có lực lượng
Chiếc **North American F-86 Sabre** (đôi khi được gọi là **Sabrejet**) là một máy bay chiến đấu có tốc độ cận âm được chế tạo cho Không quân Hoa Kỳ. Chiếc F-86 được phát triển
**Chiến dịch Linebacker II**, hay còn được biết đến là **Chiến dịch Điện Biên Phủ trên không**, là chiến dịch quân sự cuối cùng của Hoa Kỳ chống lại Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
Đây là danh sách các sự kiện hàng không nổi bật xảy ra trong năm 1955: ## Các sự kiện ## Chuyến bay đầu tiên ### Tháng 2 * 14 tháng 2 - Mikoyan-Gurevich Ye-2,
**Yakovlev Yak-1** là một máy bay chiến đấu của Liên Xô trong Chiến tranh thế giới II và là chiếc đầu tiên trong loạt mẫu máy bay chiến đấu rất thành công của phòng thiết
**Nam Xương Q-5**, trong tiếng Anh là **Nanchang Q-5** (mã hiệu phồn thể: 強-5, bính âm: Qiang-5, ký hiệu NATO: **Fantan**), hay còn được biết với tên A-5 của phiên bản xuất khẩu, là một
**Trần Hanh** (29 tháng 11 năm 1932 – 5 tháng 12 năm 2024) là một tướng lĩnh Không quân Nhân dân Việt Nam cấp bậc Trung tướng. Ông là một trong những phi công đầu
**Guizhou JL-9** còn được gọi là **FTC-2000 Mountain Eagle** (), là một loại máy bay huấn luyện phản lực tiên tiến và máy bay chiến đấu hạng nhẹ siêu thanh do Guizhou Aviation Industry Import/Export
**Dassault M.D.450 Ouragan** (tiếng Pháp của từ Hurricane (cuồng phong) là một loại máy bay cường kích phản lực của Pháp được sản xuất vào cuối thập niên 1940. Trong khi kỹ thuật áp dụng