✨Mikoyan-Gurevich I-75

Mikoyan-Gurevich I-75

Mikoyan-Gurevich I-75 là một mẫu máy bay chiến đấu thử nghiệm của Liên Xô được phát triển cuối thập kỷ 1950. Nó được đưa ra để cạnh tranh với mẫu Sukhoi T-431 trong việc sản xuất hàng loạt.

Lịch sử

Mẫu máy bay này giữ lại cánh của I-7U và thiết kế ra-đa Bão to 5 với phạm vi cảnh giới 30 km, và trang bị tên lửa không đối không Kaliningrad K-8, I-75 bay thử lần đầu tiên vào 28 tháng 4-1958. Động cơ là loại Lyulka AL-7F-1 có lực đẩy là 6.240 kg và 9.215 kg với nhiên liệu phụ trội, I-75 bay 5 lần trước khi được trang bị loại ra-đa Bão to 5B vào 15 tháng 5. Việc thử nghiệm được tiếp tục vào 25 tháng 12-1958. Dù I-75 trình diễn một hiệu suất hiếm có, mẫu thử nghiệm này chỉ bay có 18 lần sau khi tiếp tục lại chương trình thử nghiệm, chương trình này hoàn thành và 11 tháng 5-1959 với quyết định chấp nhận cạnh tranh với Sukhoi T-431 trong giành quyền sản xuất hàng loạt (như Su-9).

Thông số kỹ thuật

Đặc điểm riêng

*Phi đoàn*: 1 Chiều dài: 18.27 m Sải cánh: 9.98 m Chiều cao: N/A Diện tích cánh: 31.90 m² Trọng lượng rỗng: 8.274 kg Trọng lượng cất cánh: 10.950 kg Động cơ**: 1x Lyulka AL-7F-1 có lực đẩy là 6.240 kg và 9.215 kg với nhiên liệu phụ trội

Hiệu suất bay

*Vận tốc cực đại*: 2.050 km/h Tầm bay**: 1.470 km *Trần bay: N/A

Vũ khí

*2x tên lửa không đối không Kaliningrad K-8

Nội dung liên quan

MiG Ye-4 - MiG Ye-5 - MiG Ye-50 - MiG I-7U - MiG SM-12 - MiG I-75 - MiG Ye-152A

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Mikoyan-Gurevich I-75** là một mẫu máy bay chiến đấu thử nghiệm của Liên Xô được phát triển cuối thập kỷ 1950. Nó được đưa ra để cạnh tranh với mẫu Sukhoi T-431 trong việc sản
**Mikoyan-Gurevich I-270** (thiết kế **Ж** ("Zh"), hay MiG I-270 là một thiết kế máy bay quân sự Liên Xô của Viện thiết kế Mikoyan-Gurevich, (Không quân Hoa Kỳ gọi nó với cái tên "Type 12")
**Mikoyan-Gurevich I-7U** là một mẫu máy bay chiến đấu thử nghiệm của Liên Xô được phát triển dựa trên mẫu I-370, nó sử dụng động cơ Lyulka AL-7F thay vì dùng động cơ Klimov. ##
**Mikoyan-Gurevich I-3** là chương trình đầu tiên trong ba chương trình mẫu thử tiêm kích có quan hệ mật thiết với nhau, được phát triển bởi viện thiết kế Mikoyan-Gurevich tại Liên Xô vào thập
Mikoyan-Gurevich **MiG-19** (tiếng Nga: Микоян и Гуревич МиГ-19) (tên ký hiệu của NATO là "**Farmer**" - **Nông dân**) là máy bay tiêm kích phản lực thế hệ thứ hai của Liên Xô, một chỗ ngồi,
**Mikoyan-Gurevich Ye-152A** (tên ký hiệu của NATO **Flipper** - Bàn tay) là một mẫu máy bay thử nghiệm của Liên Xô, đây là mẫu máy bay thử nghiệm được phát triển dựa trên máy bay
**Mikoyan-Gurevich MiG-17** (tiếng Nga: Микоян и Гуревич МиГ-17; Tên ký hiệu của NATO: **Fresco**) là một máy bay tiêm kích phản lực cận âm sản xuất bởi Liên Xô, được đưa vào sử dụng từ
Mikoyan-Gurevich SM-12 là một mẫu máy bay chiến đấu thử nghiệm của Liên Xô, nó được phát triển dựa trên các thông số của MiG-19, có 4 mẫu được chế tạo, nhưng sau này nó
**Mikoyan-Gurevich Ye-152P** là mẫu máy bay chiến đấu thử nghiệm tiên tiến của Liên Xô, loại máy bay này được phát triển dựa trên MiG-21 và được dùng để thiết lập các kỷ lục bay
YE-5 (tiếng Nga: Е-5, hay Х-5, И-500, МиГ-21), các cách gọi khác: Kh-5, I-500, MiG-21, là một loại máy bay thử nghiệm trong chương trình phát triển MiG-21. Nó là mấu thử đạt yêu cầu
**YE-4** (tiếng Nga: Е-4) là một loại máy bay được phát triển bởi phòng thiết kế máy bay Mikoyan (ОКБ Микояна) và Gurevich (Гуревича). YE-4 bay lần đầu năm 1955 và có thân gần giống
**Mikoyan**, trước kia là **Mikoyan-Gurevich** (tiếng Nga: Микоян и Гуревич, МиГ), là một công ty chuyên thiết kế và sản xuất máy bay quân sự Nga, chủ yếu là máy bay chiến đấu. Trước kia
**Yakovlev Yak-25** (tên ký hiệu của NATO: **Flashlight-A / Mandrake**) là một máy bay tiêm kích đánh chặn và trinh sát cánh cụp, trang bị động cơ phản lực được Liên Xô sử dụng trong
Đây là danh sách máy bay phản lực được phát triển trong Chiến tranh Thế giới II: ## Khối Đồng minh ### #### Thử ngiệm *Gloster E.28/39 – 15/5/1941, đây là máy bay đầu tiên
thế=Một phi công của Không quân Hoa Kỳ điều khiển một máy bay F-35A Lightning II được giao cho Phi đội Tiêm kích 58, Phi đoàn Tiêm kích 33 vào vị trí để tiếp nhiên
**Không quân Liên Xô** (, _Voyenno-vozdushnye sily SSSR_), cũng còn được biết đến dưới tên gọi tắt là **VVS**, chuyển tự từ tiếng Nga là: **ВВС**, Военно-воздушные силы (_Voenno-vozdushnye sily_), đây là tên gọi chỉ
**Voyska PVO** (tiếng Nga: Войска ПВО, hoặc **PVO strany** từ năm 1981) là quân chủng phòng không của quân đội Liên Xô. PVO là viết tắt của _protivovozdushnaya oborona_ hoặc "Phòng không". Không giống quân
**Vympel R-73** (tên ký hiệu của NATO: **AA-11 Archer**) là một loại tên lửa không đối không tầm ngắn được Vympel NPO phát triển. Nó được thiết kế để sử dụng trong các cuộc không
Chiếc **Chance Vought F4U Corsair** là máy bay tiêm kích của Hoa Kỳ hoạt động rộng rãi trong giai đoạn nửa sau của Chiến tranh thế giới thứ hai và Chiến tranh Triều Tiên cũng
**_Hà Nội 12 ngày đêm_** là một bộ phim điện ảnh của Việt Nam, với mục đích cố gắng khắc họa bối cảnh cuộc chiến đấu chống tập kích bằng máy bay B-52 đánh phá