✨Mikoyan-Gurevich MiG-1

Mikoyan-Gurevich MiG-1

Máy bay tiêm kích Mikoyan-Gurevich MiG-1 (Tiếng Nga: Микоян-Гуревич МиГ-1) được sử dụng trong không quân Liên Xô trong Chiến tranh thế giới thứ II. Mặc dù nó bị coi là gây khó khăn cho người điều khiển, nhưng nó lại là nền tảng cho MiG-3, loại này đã chứng tỏ nó là một máy bay tiêm kích đánh chặn có khả năng bay cao và đã tạo nên danh tiếng cho những người chế tạo ra nó.

Thiết kế và chế tạo

MiG-1 được thiết kế nhằm đáp ứng những đòi hỏi về máy bay tiêm kích một động cơ từ không quân Xô-viết tháng 1-1939. Lúc đầu bản thiết kế được mang tên là I-200, được phòng thiết kế Polikarpov xây dựng. Công việc bắt đầu vào tháng 6-1939, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của công trình sư Nikolai Nikolaevich Polikarpov và phụ tá là M. Tetivikin. Bản thân Polikarpov đang cải tiến thiết kế mẫu máy bay I-180 vào thời gian đó, nhưng khi động cơ có sức mạnh lớn hơn là Mikulin AM-37 được đưa vào sử dụng, ông đã sử dụng chúng vào mẫu máy bay của mình. Dự án MiG-1 được bắt đầu khi Polikarpov được chọn để sản xuất một mẫu máy bay nhỏ cơ động có khả năng bảo vệ các nhà máy điện, bằng ý tưởng đó đã dẫn đến phương châm sản xuất một loại máy bay giảm tối đa trọng lượng. Theo lý thuyết, chiếc máy bay có thể đạt được vận tốc là 670 km/h (417 mph). Vào tháng 8-1939, Polikarpov cùng N. Andrianov lãnh đạo thiết kế. Tuy nhiên vào thời giân đó, Polikarpov không giành được sự ủng hộ của Joseph Stalin và đã dẫn đến kết quả là khi Polikarpov tới Đức dự hội thảo hàng không, nhà cầm quyền Xô-viết đã giải tán đội thiết kế của ông, và xây dựng bộ phận thiết kế dựa trên thí nghiệm mới (Experimental Construction Section - OKO), được lãnh đạo bởi Artem Mikoyan và Mikhail Gurevich, bộ phận thiết kế cũ của Polikarpov cũng sáp nhập vào cơ quan này tháng 4-1940. Bản thiết kế I-200 được trao lại cho Mikoyan và Gurevich.

Thành quả là một loại máy bay quy ước đã bay theo lịch trình vào ngày 5-4-1940, mặc dù có nhiệm vụ là bảo vệ các nhà máy điện nhưng nhiệm vụ đó đã không được sẵn sàng thực hiện trong thời gian đó. Thay vào đó, một chiếc máy bay chiến đấu mới với động nhỏ hơn Mikulin AM-35, đã kém kỉ lục bay cũ trong ngành hàng không Xô-viết hơn 40 km/h (25 mph) so với kỉ lục cũ. Tuy nhiên nó lại đem đến một khả năng bay mới mẻ trong không quân bởi động cơ của nó. I-200 đã được đưa ngay vào sản xuất vào ngày 31-5-1940. Trong sự ganh đua với các thiết kế khác là I-26 (Yak-1) và I-301 (LaGG-3), I-200 đã hoàn thành thành công thử nghiệm trong tháng 8. Cho đến hết năm, I-200 đã được cung cấp cho cac phi đội bay thử nghiệm, trong các cuộc bay thử nghiệm các chuyên gia đã phát hiện ra đôi cánh quá dài so với thân đã gây ra những vấn đề về điều khiển bằng tay, bao gồm cả hiện tượng chao đảo và xoay tròn, và sự thiếu ổn định trong việc định hướng.

Bản báo cáo về những vấn đề liên quan đến sự điều khiển đã được gửi cho Mikoyan và Gurevich, họ đã bắt tay vào tìm cách khắc phục những vấn đề, nhiều thiết kế đã được thay đổi cho phù hợp. Họ đã tăng thêm khả năng phạm vi hoạt động bằng thùng xăng phụ. Sự cải tiến máy bay kéo dài cho đến 29-10-1940. Theo bản thiết kế cải tiến mới, từ ngày 9 tháng 12-1940, 100 chiếc I-200 sẽ được gọi lại là MiG-1 (bắt đầu bằng chữ cái đầu của Mikoyan và Gurevich), bản cải tiến thêm mang tên MiG-3.

Các phiên bản

  • I-61: Tên gọi ban đầu của nguyên mẫu I-200.
  • I-200: Nguyên mẫu MiG-1.
  • MiG-1: Máy bay tiêm kích đánh chặn một chỗ cho Không quân Xô viết.

Lực lượng sử dụng

  • Liên bang cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết. ** Không quân liên bang Xô viết.

Thông số kỹ thuật (Mikoyan-Gurevich MiG-1)

Đặc điểm

  • Phi đoàn: 1
  • Dài: 8,16 m (26 ft 9 in)
  • Chiều dài cánh: 10,20 m (33 ft 5 in)
  • Cao: 2,62 m (8 ft 7 in)
  • Diện tích cánh: 17,5 m² (188 ft²)
  • Loại cánh: Clark YH
  • Trọng lượng rỗng: 2.602 kg (5.736 lb)
  • Trọng lượng cất cánh: 3.099 kg (6.832 lb)
  • Trọng lượng mang tối đa: 3.319 kg (7.317 lb)
  • Động cơ: 1× Mikulin AM-35A, công suất 1.007 kW (1.350 hp)

Đặc điểm bay

  • Vận tốc tối đa: 657 km/h (410 mph)
  • Tầm bay: 580 km (362 mi)
  • Trần bay: 12.000 m (39.400 ft)
  • Vận tốc bay lên: 16.8 m/s (3.306 ft/min)
  • Lực nâng của cánh: 177 kg/m² (36 lb/ft²)
  • Lực nâng/khối lượng: 0,32 kW/kg (0,20 hp/lb)

Vũ khí

  • 1 x súng máy 12,7 mm BS
  • 2 x súng máy 7,62 mm ShKAS
👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Máy bay tiêm kích Mikoyan-Gurevich **MiG-1** (Tiếng Nga: Микоян-Гуревич МиГ-1) được sử dụng trong không quân Liên Xô trong Chiến tranh thế giới thứ II. Mặc dù nó bị coi là gây khó khăn cho
Mikoyan-Gurevich **MiG-15** (tiếng Nga: Микоян и Гуревич МиГ-15) (tên ký hiệu của NATO đặt là "**Fagot**") là một máy bay tiêm kích phản lực thế hệ thứ nhất của Liên Xô do Artem Mikoyan và
**Mikoyan-Gurevich MiG-23** (tiếng Nga: Микоян и Гуревич МиГ-23; tên ký hiệu của NATO: "**Flogger**") là một loại máy bay tiêm kích cánh cụp cánh xòe, được thiết kế bởi phòng thiết kế Mikoyan-Gurevich OKB của
**Mikoyan-Gurevich MiG-21** (tiếng Nga: Микоян и Гуревич МиГ-21) (tên ký hiệu của NATO: **Fishbed** - **Cá hóa thạch**) là một máy bay tiêm kích phản lực, được thiết kế bởi phòng thiết kế Mikoyan, Liên
**Mikoyan-Gurevich MiG-3** (Tiếng Nga: Микоян и Гуревич **МиГ-3**) là một loại máy bay tiêm kích của Liên bang Xô-viết trong Chiến tranh thế giới II. Nó được phát triển từ MiG-1 bởi OKO (opytno-konstrooktorskiy otdel
Mikoyan-Gurevich **MiG-19** (tiếng Nga: Микоян и Гуревич МиГ-19) (tên ký hiệu của NATO là "**Farmer**" - **Nông dân**) là máy bay tiêm kích phản lực thế hệ thứ hai của Liên Xô, một chỗ ngồi,
**Mikoyan-Gurevich MiG-17** (tiếng Nga: Микоян и Гуревич МиГ-17; Tên ký hiệu của NATO: **Fresco**) là một máy bay tiêm kích phản lực cận âm sản xuất bởi Liên Xô, được đưa vào sử dụng từ
**Mikoyan-Gurevich MiG-25** (tiếng Nga: МиГ-25) (tên ký hiệu của NATO: "**Foxbat**") là một máy bay tiêm kích đánh chặn, trinh sát và ném bom siêu thanh thế hệ 3, được thiết kế bởi Phòng thiết
**Mikoyan-Gurevich MiG-8** (tiếng Nga: Микоян и Гуревич МиГ-8 «Утка») là một loại máy bay thí nghiệm của Liên Xô năm 1945. Tên gọi khác là **Utka** (Vịt), nó có một thiết kế lạ thường với
Mikoyan-Gurevich **MiG-9** (tiếng Nga: Микоян и Гуревич МиГ-9, tên ký hiệu của NATO: _Fargo_) (không phải là bản phát triển từ MiG-3 cũng được gọi là "MiG-9") là máy bay đầu tiên trong thế hệ
**Mikoyan-Gurevich MiG-23PD** là một mẫu máy bay thử nghiệm của Liên Xô trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, đây là một mẫu máy bay được phát triển để đáp ứng nhu cầu của Không quân
**Mikoyan-Gurevich I-270** (thiết kế **Ж** ("Zh"), hay MiG I-270 là một thiết kế máy bay quân sự Liên Xô của Viện thiết kế Mikoyan-Gurevich, (Không quân Hoa Kỳ gọi nó với cái tên "Type 12")
**Mikoyan-Gurevich Ye-152A** (tên ký hiệu của NATO **Flipper** - Bàn tay) là một mẫu máy bay thử nghiệm của Liên Xô, đây là mẫu máy bay thử nghiệm được phát triển dựa trên máy bay
Mikoyan-Gurevich **DIS** (Tiếng Nga: _Дальний истребитель сопровождения_ - máy bay tiêm kích hộ tống tầm xa) là một mẫu máy bay chiến đấu của Liên Xô trong chiến tranh thế giới thứ II. Nó được
**Mikoyan-Gurevich Ye-2** (tiếng Nga: Е-2), còn có các tên **Ye-2A1**, **Ye-2A2** (tên ký hiệu của NATO **"Tấm xoay"**), là một loại máy bay thử nghiệm trong chương trình chế tạo máy bay chiến thuật có
Mikoyan-Gurevich SM-12 là một mẫu máy bay chiến đấu thử nghiệm của Liên Xô, nó được phát triển dựa trên các thông số của MiG-19, có 4 mẫu được chế tạo, nhưng sau này nó
**Mikoyan-Gurevich SN** là một mẫu máy bay chiến đấu thử nghiệm của không quân Xô Viết trong thập nhiên 1950. Mặc dù lúc này các tên lửa không đối không có dẫn đường đã được
Trong chiến tranh thế giới thứ II, với sự xuất hiện Me-262 của Đức quốc xã đã khiến Liên Xô bị phá sản chương trình phát triển máy bay chiến đấu có hiệu suất cao
**Mikoyan-Gurevich I-360** là mẫu máy bay chiến đấu thử nghiệm của Liên Xô trong chiến tranh lạnh. Nó được thử nghiệm để làm tăng vận tốc bay và tính ổn định. ## Lịch sử Cuối
**Mikoyan-Gurevich I-320** là một mẫu máy bay chiến đấu thử nghiệm của Liên Xô sau khi kết thúc chiến tranh thế giới II. Nó có 2 động cơ phản lực, 2 chỗ và được thiết
**Mikoyan-Gurevich Ye-152P** là mẫu máy bay chiến đấu thử nghiệm tiên tiến của Liên Xô, loại máy bay này được phát triển dựa trên MiG-21 và được dùng để thiết lập các kỷ lục bay
**Mikoyan-Gurevich I-225** là một mẫu máy bay trong seri "A", đây là một loạt các máy bay chiến đấu thử nghiệm của Liên Xô trong chiến tranh thế giới II. ## Lịch sử Mặc dù,
**Mikoyan-Gurevich I-370** là một mẫu máy bay chiến đấu thử nghiệm của Liên Xô, được phát triển để dựa trên các kế quả đó các kỹ sư của MiG đã thiết kế ra mẫu máy
**Mikoyan-Gurevich I-75** là một mẫu máy bay chiến đấu thử nghiệm của Liên Xô được phát triển cuối thập kỷ 1950. Nó được đưa ra để cạnh tranh với mẫu Sukhoi T-431 trong việc sản
**Mikoyan-Gurevich I-7U** là một mẫu máy bay chiến đấu thử nghiệm của Liên Xô được phát triển dựa trên mẫu I-370, nó sử dụng động cơ Lyulka AL-7F thay vì dùng động cơ Klimov. ##
**Mikoyan-Gurevich I-210** là một máy bay thí nghiệm của Liên Xô dựa trên mẫu MiG-3, nó được cải tiến động cơ và một số chi tiết nhằm nâng cao hiệu suất bay và tính ổn
**Mikoyan-Gurevich I-224** là một máy bay chiến đấu thử nghiệm của Liên Xô trong chiến tranh thế giới II nhưng nó không bao giờ được sản xuất hàng loạt. ## Lịch sử 2 chiếc máy
**Mikoyan-Gurevich I-230** là một mẫu máy bay thử nghiệm cải tiến của MiG-3, nó được Liên Xô chế tạo vào năm 1941, và còn được biết đến với tên gọi **MiG-3U**. ## Lịch sử Với
**Mikoyan-Gurevich I-350** là một mẫu máy bay chiến đấu thử nghiệm của Liên Xô trong thời kỳ chiến tranh lạnh, nó có khung tương tự như MiG-17, và là máy bay tiêm kích đầu tiên
**Mikoyan-Gurevich I-211** là một mẫu máy bay thử nghiệm nâng cấp, cải tiến của MiG-3, được Liên Xô phát triển trong thời gian chiến tranh thế giới II. ## Lịch sử Sau sự hoàn thành
**Dòng máy bay Mikoyan-Gurevich Ye-150** là một loạt các mẫu thử máy bay tiêm kích đánh chặn, được viện thiết kế Mikoyan-Gurevich thiết kế chế tạo tại Liên Xô từ năm 1955. ## Biến thể
**Mikoyan-Gurevich I-220** là mẫu máy bay chiến đấu tiếp theo sau các mẫu thử nghiệm I-210, I-211 và I-230. Nó được Liên Xô phát triển giữa chiến tranh thế giới II, nhưng sau đó đã
**Mikoyan**, trước kia là **Mikoyan-Gurevich** (tiếng Nga: Микоян и Гуревич, МиГ), là một công ty chuyên thiết kế và sản xuất máy bay quân sự Nga, chủ yếu là máy bay chiến đấu. Trước kia
Hành lang MiG (MiG Alley) **Hành lang MiG** (tiếng Anh:**MiG Alley**) hay **Thung lũng MiG** là tên của phi công Không quân Hoa Kỳ đặt cho một vị trí địa lý nằm ở đông bắc
**YE-8** (tiếng Nga: ОКБ Микояна Гуревича Е-8) là một loại máy bay thử nghiệm được phát triển bởi phòng thiết kế máy bay Mikoyan và Gurevich, Liên Xô, là một máy bay thử nghiệm nằm
**YE-50**, tiếng Nga Е-50. Được phát triển bởi phòng thiết kế máy bay OKB Mikoyan và Gurevich (nơi thiết kế các MiG, tiếng Nga: ОКБ Микояна, Гуревича). **YE-50**, YE-1, YE-2 là những máy bay mang
**Mikoyan MiG-27** (tiếng Nga: Микоян и Гуревич МиГ-27) (Tên ký hiệu của NATO "**Flogger-D/J**") là một loại máy bay cường kích (tấn công mặt đất), đầu tiên nó được thiết kế chế tạo bởi Phòng
YE-5 (tiếng Nga: Е-5, hay Х-5, И-500, МиГ-21), các cách gọi khác: Kh-5, I-500, MiG-21, là một loại máy bay thử nghiệm trong chương trình phát triển MiG-21. Nó là mấu thử đạt yêu cầu
**YE-4** (tiếng Nga: Е-4) là một loại máy bay được phát triển bởi phòng thiết kế máy bay Mikoyan (ОКБ Микояна) và Gurevich (Гуревича). YE-4 bay lần đầu năm 1955 và có thân gần giống
MiG-110 **Mikoyan-Gurevich MiG-110** (tiếng Nga: МиГ-110) là một máy bay chở khách/hàng hóa, nó bắt đầu được phát triển vào năm 1995 nhưng chưa bao giờ bay. Nó có 2 động cơ tua bin phản
**Artem Ivanovich Mikoyan** (tiếng Armenia: Արտյոմ Հովհաննեսի Միկոյան hoặc Անուշավան Հովհաննեսի Միկոյան; tiếng Nga: Артё́м Ива́нович Микоя́н) (5 tháng 8-1905 - 9 tháng 12-1970), ông là một nhà thiết kế máy bay của Liên bang
SDK Máy bay MiG-15 và MiG-17 không người lái. SDK Tiếng Nga "Самолет-дублер Кометы СДК". Máy bay nghiên cứu thử nghiệm trong quá trình thiết kế tên lửa Kometa. (Kometa là phiên âm tiếng nga
nhỏ|Ảnh Mikhail Iosifovich Gurevich :_Về kỳ thủ Mikhail Gurevich, xin xem Mikhail Naumovich Gurevich_ **Mikhail Iosifovich Gurevich** (tiếng Nga: **Михаил Иосифович Гуревич**) (sinh 12 tháng 1 năm 1893 (lịch cũ: 31 tháng 12 năm 1892)
Chiếc Douglas **A-1** (trước đây là **AD**) **Skyraider** (Kẻ cướp trời) là một máy bay ném bom cường kích một chỗ ngồi của Hoa Kỳ trong những năm 1950, 1960 và đầu những năm 1970.
**Yakovlev Yak-1** là một máy bay chiến đấu của Liên Xô trong Chiến tranh thế giới II và là chiếc đầu tiên trong loạt mẫu máy bay chiến đấu rất thành công của phòng thiết
__NOTOC__ Danh sách máy bay :A B C-D E-H I-M N-S T-Z ## I ### IAI * IAI Arava * IAI Astra * IAI C-38 Courier * IAI F-21 Kfir * IAI Galaxy * IAI
## Máy bay cường kích * Ilyushin ** Ilyushin Il-2 "Sturmovik" ** Ilyushin Il-10 * MiG ** Mikoyan MiG-27 * Sukhoi ** Sukhoi Su-2 ** Sukhoi Su-7 ** Sukhoi Su-24 ** Sukhoi Su-25 * Yakovlev
thế=Một phi công của Không quân Hoa Kỳ điều khiển một máy bay F-35A Lightning II được giao cho Phi đội Tiêm kích 58, Phi đoàn Tiêm kích 33 vào vị trí để tiếp nhiên
nhỏ|phải|Biểu tượng trên các máy bay của Liên Xô trong Thế chiến thứ hai Khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Không quân Liên Xô chưa có các đơn vị được trang bị
Tên ký hiệu của NATO/ASCC cho máy bay chiến đấu, với tên gọi của Liên Xô, Nga, Trung Quốc, thứ tự theo bản báo cáo của NATO: * "Faceplate" MiG Ye-2A * "Fagot" Mikoyan-Gurevich MiG-15