✨Lớp kề
nhỏ| là nhóm , tức là [[Số học mô đun|tập các số nguyên mô đun 8 dưới phép cộng.Nhóm con chỉ chứa 0 và 4. Có bốn lớp kề của : chính , , , và (viết dùng ký hiệu phép cộng vì đây là nhóm cộng). Chúng cùng nhau phân hoạch tập thành các tập có kích thước như nhau và không giao nhau. Chỉ số bằng 4.]]
Trong toán học, đặc biệt là trong lý thuyết nhóm, nhóm con của nhóm có thể dùng để tách tập của nhóm thành các tập hợp con không giao nhau và có kích thước bằng nhau được gọi là lớp kề (hay còn gọi là lớp ghép). Có hai loại lớp là lớp kề trái và lớp kề phải. Các lớp kề (cả trái và phải) đều có cùng số phần tử (lực lượng) với . Hơn nữa, còn vừa là lớp kề trái vừa là lớp kề phải của chính nó. Số các lớp kề trái của trong bằng với số các lớp kề phải của trong .Giá trị này được gọi là chỉ số của trong và thường được ký hiệu là .
Lớp kề là một trong những công cụ cơ bản để nghiên cứu lý thuyết nhóm; ví dụ chẳng hạn, nó đóng vai trò quan trọng định lý Lagrange phát biểu rằng cho bất kỳ nhóm hữu hạn và bất kỳ nhóm con của , số phần tử của chia hết cho số phần tử của . Lớp kề của một loại nhóm đặc biệt (nhóm con chuẩn tắc) có thể dùng làm phần tử của một nhóm khác được gọi là nhóm thương (hay còn gọi là nhóm nhân tử). Lớp kề còn xuất hiện trong các nhánh khác của toán học như không gian vectơ và mã sửa lỗi.
Định nghĩa
Gọi là nhóm con của nhóm có phép toán được viết theo phép nhân (đứng kề nhau). Cho phần tử thuộc , các lớp kề trái của trong là các tập thu được bằng cách nhân từng phần tử thuộc bằng một phần tử cố định thuộc (ở đây là nhân tử trái). VIết bằng ký hiệu như sau:,
Các lớp kề phải được định nghĩa tương tựa, chỉ thay ở chỗ bây giờ là nhân tử phải, có nghĩa là,
Bởi là giá trị tùy ý trong nhóm, nên sẽ dễ bị lầm tưởng rằng sẽ có nhiều lớp kề (trái hoặc phải) được sinh ra. Song, qua chứng minh, ta nhận ra bất kỳ hai lớp kề trái (hoặc tương ứng hai lớp kề phải) hoặc không giao nhau hoặc bằng nhau.
Nếu phép toán nhóm viết bằng phép cộng thì có thể đổi ký hiệu ở trên thành hoặc , tương ứng.
Ví dụ đầu
Gọi là nhóm nhị diện cấp 6. Các phần tử của nó được biểu diễn bởi tập . Trong nhóm này, và . Bằng này đủ thông tin để điền toàn bộ bảng Cayley:
Gọi là nhóm con . Các lớp kề trái (phân biệt) của là:
- ,
- , và
- .
Bởi tất cả phần tử của đều đã có xuất hiện trong một trong các lớp kề này. Nên dù có sinh thêm cũng sẽ không tạo ra thêm lớp kề mới, bởi lớp kề mới sẽ có một phần tử chung với một trong các lớp kề này và do đó bằng với lớp kề đó. Ví dụ chẳng hạn, .
Các lớp kề phải của là:
- ,
- , và
- .
Trong ví dụ này, ngoại trừ ra, không có lớp kề trái nào đồng thời là lớp kề phải cả.
Gọi là nhóm con . Các lớp kề trái của là và . Các lớp kề phải của là và . Trong trường hợp này, mọi lớp kề trái của cũng là lớp kề phải của .
Gọi là nhóm con của và ta giả sử rằng , . Khi đó, các mệnh đề sau tương đương với nhau:
Các tính chất
Tính chất không giao nhau của các lớp kề được chứng minh từ ý tưởng rằng nếu thuộc thì . Thật vậy, nếu thì phải tồn tại sao cho . Do đó . Song, vì là một nhóm nên phép nhân trái bởi là song ánh và .
Do vậy mỗi phần tử thuộc chỉ nằm trong duy nhất một lớp kề trái của nhóm con , Giống như mọi tập các lớp tương đương, các lớp tương đương này phân hoạch tập của nhóm G. Đại diện lớp kề là phần tử đại diện theo nghĩa lớp tương đương. Tập các phần tử đại diện của tất cả các lớp kề được gọi là đường ngang (transversal). Có một số loại quan hệ tương đương khác trong nhóm, ví dụ như liên hợp chẳng hạn, song những phần như vậy sẽ không được đề cập dưới đây vì chúng tạo các lớp tương đương hoàn toàn khác biệt với lớp kề.
Các nội dung ở trên áp dụng tương tự với lớp kề phải.
Nếu là nhóm giao hoán, thì với bất kỳ nhóm con của và mọi phần tử thuộc . Ngoài ra, cho phần tử và nhóm con của , lớp kề phải của tương ứng với đồng thời là lớp kè trái của nhóm con liên hợp tương ứng với , tức là, .
Nhóm con chuẩn tắc
Nhóm con của được gọi là nhóm con chuẩn tắc của khi và chỉ khi với tất cả các phần tử thuộc , các lớp kề trái và lớp kề phải tương ứng bằng nhau, nghĩa là . Đây là trường hợp của nhóm con ở ví dụ trên. Hơn nữa, các lớp kề của trong lập thành một nhóm được gọi là nhóm thương hay nhóm nhân tử .
Nếu không chuẩn tắc trong , thì các tập các lớp kề trái của nó khác với tập các lớp kề phải. Nghĩa là, tồn tại phần tử thuộc sao cho không có phần tử thỏa mãn . Điều này có nghĩa phân hoạch của thành các lớp kề trái của khác hoàn toàn với phân hoạch của thành các lớp kề phải của . Nhóm con ở ví dụ trên minh họa cho điều này. (Một số lớp kề có thể trùng nhau. Ví dụ chẳng hạn, khi nằm trong tâm của , thì .)
Mặt khác, nếu nhóm con là nhóm con chuẩn tắc, thì tập các lớp kề tạo thành một nhóm được gọi là nhóm thương cùng với phép toán được định nghĩa . Khi này mọi lớp kề trái cũng là lớp kề phải nên không cần phải phân biệt giữa "lớp kề trái" và "lớp kề phải".
Chỉ số của nhóm con
Mọi lớp kề (trái hoặc phải) của đều có cùng số phần tử (hoặc có cùng lực lượng trong trường hợp vô hạn) với . Hơn nữa, số lớp kề trái còn bằng số lớp kề phải, và số lượng này được gọi là chỉ số của trong G, ký hiệu là . Định lý Lagrange cho phép ta tính giá trị chỉ số khi cả G và H đều hữu hạn:
Phương trình này vẫn đúng khi có nhóm vô hạn, song ý nghĩa của nó có thể chưa rõ (chẳng hạn như,nhóm G và H có thể vô hạn nhưng chỉ số của nhóm H có thể hữu hạn, như ở ví dụ số nguyên dưới đây)Các ví dụ khác
Số nguyên
Gọi là nhóm cộng của các số nguyên, và là nhóm con . Khi đó các lớp kề của trong là ba tập hợp , , và , và . Ba tập hợp này phân hoạch tập , nên không có lớp kề phải nào khác của . Do tính giao hoán của phép cộng nên và . Nghĩa là mọi lớp kề trái của cũng là lớp kề phải, do vậy là nhóm con chuẩn tắc. (ta có thể dùng cách luận này để chứng minh mọi nhóm con của nhóm giao hoán đều chuẩn tắc)
Ví dụ này có thể tổng quát hóa thành như sau. Cho vẫn là nhóm cộng các số nguyên, , và giờ gọi là nhóm con , trong đó là số nguyên dương. Khi đó các lớp kề của trong là tập hợp , , ..., , trong đó . Không có nhiều hơn lớp kề, bởi vì . Lớp kề là lớp đồng dư của modulo . Nhóm con chuẩn tắc trong , do vật có thể lập thành nhóm thương , nhóm các số nguyên modulo m.
Vectơ
Một ví dụ khác đến từ lý thuyết của các không gian vectơ. Các phần tử (vectơ) của không gian vectơ tạo thành nhóm giao hoán dưới phép cộng vectơ. Các không gian con của không gian vectơ là các tập con của nhóm này. Cho không gian vectơ , không gian con , và một vectơ cố định trong , các tập hợp
được gọi là không gian affin, và là lớp kề (cả trái và phải, bởi nhóm có giao hoán). Khi nói theo các vectơ 3 chiều trong hinh học, các không gian affin này được gọi được gọi là các "đường" hoặc "mặt phẳng" song song với không gian con là đường hoặc mặt phẳng tương ứng đi qua gốc tọa độ. Lấy ví dụ, xét mặt phẳng . Nếu là đường thẳng đi qua gốc tọa độ , thì là nhóm con của nhóm abel . Nếu nằm trong , thì lớp kề là đường song song với và chạy qua .Ma trận
Gọi là nhóm nhân các ma trận vuông sau,
và nhóm con của ,
Cho một phần tử cố định thuộc , xét lớp kề trái
Nghĩa là, các lớp kề trái chứa tất cả các ma trận trong có cùng phần tử góc trên bên trái. Nhóm con chuẩn tắc trong , nhưng nhóm con sau
thì không chuẩn tắc trong .
Quỹ đạo của tác động nhóm
Nhóm con của nhóm có thể dùng để định nghĩa tác động của trên theo hai cách tự nhiên sau. Tác động phải, cho bởi hoặc tác động trái, cho bởi . Quỹ đạo của dưới tác động phải là lớp kề trái , trong khi quỹ đạo dưới tác động trái là lớp kề phải .
Lịch sử
Khái niệm của lớp kề đã có từ các bài của Galois năm 1830–31. Ông giới thiệu ký hiệu mới nhưng chưa đưa ra cái tên cho khái niệm. Thuật ngữ "co-set" (coset, tức lớp kề) xuất hiện ban đầu vào năm 1910 trong bài viết của G. A. Miller trong tạp chí Quarterly Journal of Mathematics (vol. 41, tr. 382). Có nhiều tên gọi được dùng khác bao gồm cả tiếng Đức Nebengruppen (Weber) và nhóm liên hợp (Burnside).
Galois lúc đó đang giải bài toán quyết định xem liệu một phương trình đa thức có thể giải bằng căn được không. Một trong những công cụ ông phát triển thành công là nhờ để ý nhóm con của các nhóm phép thế cảm sinh ra hai phân tích của (nay ta gọi đó là lớp kề trái và lớp kề phải). Nếu hai phép phân tích tương đồng nhau, tức là nếu các lớp kề trái giống các lớp kề phải, thì có cách để rút gọn bài toán về với thay vì . Camille Jordan trong lúc dẫn giải các công trình của Galois năm 1865 và 1869, đã dựng lên ý tưởng lớp kề và định nghĩa các nhóm con chuẩn tắc như ta có ngày nay, mặc dù ông không dùng thuật ngữ đó. The vector is called the syndrome of , and by linearity, every vector in the same coset will have the same syndrome. To decode, the search is now reduced to finding the coset leader that has the same syndrome as the received word. -->
Lớp kề đôi
Cho hai nhóm con, và (không nhất thiết phải phân biệt) của nhóm , lớp kề đôi của và trong là các tập hợp dưới dạng . Đây là lớp kề trái của và là lớp kề phải của khi và tương ứng. Lớp kề đôi còn được gọi là lớp ghép đôi.
Lớp kề đôi và hoặc không giao nhau hoặc bằng nhaul. Tập các lớp kề đôi cho và cho trước lập thành phân hoạch của .
Lớp kề đôi chứa đầy đủ lớp kề phải của (trong ) dưới dạng , với thuộc và đầy đủ lớp kề trái của (trong ) dưới , với thuộc .
- denotes the set of left cosets of in .
- denotes the set of right cosets of in .
- denotes the set of double cosets of and in , sometimes referred to as double coset space.
- denotes the double coset space of the subgroup in .
-->
Các ứng dụng khác
- Các lớp kề của trong được dùng để xây các tập hợp Vitali, một loại tập không đo được.
- Lớp kề được dùng để định nghĩa khái niệm chuyển trong lý thuyết nhóm.
- Lớp kề rất quan trọng trong lý thuyết nhóm tính toán. Ví dụ chẳng hạn, Thuật toán Thistlethwaite cho giải khối Rubik dựa chủ yếu vào các lớp kề.
- Trong hình học, dạng Clifford–Klein là không gian lớp kề đôi , trong đó là nhóm Lie khả quy, là nhóm con đóng, và là nhóm con rời rạc (của ) tác động chân chính và không liên tục trên không gian thuần nhất .