✨County (lớp tàu tuần dương)

County (lớp tàu tuần dương)

Lớp tàu tuần dương _County_ là một lớp tàu tuần dương hạng nặng được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc trong những năm giữa hai cuộc Chiến tranh Thế giới thứ nhất và thứ hai. Chúng là những tàu tuần dương đầu tiên của Hải quân Hoàng gia được chế tạo sau chiến tranh, và được thiết kế trong những giới hạn được quy định bởi Hiệp ước Hải quân Washington năm 1922. Những con tàu này, với giới hạn trọng lượng rẽ nước ở mức 10.000 tấn và dàn pháo chính ở cỡ nòng 203 mm (8 inch) thường được gọi là "tàu tuần dương hiệp ước" (thuật ngữ "tàu tuần dương hạng nặng" chưa được định nghĩa cho đến Hiệp ước Hải quân London năm 1930 Trong trường hợp này, hoàn cảnh kinh tế và chính trị trong thời bình đã ngăn trở nên chỉ có hai chiếc tàu tuần dương kiểu "B" được chế tạo, một thiết kế lớp County cải tiến với 6 khẩu pháo, trở thành lớp York.

Thiết kế và phát triển

Tàu tuần dương hiệp ước với tải trọng 10.000 tấn là kiểu tàu chiến đầu tiên được chế tạo theo những giới hạn được sự đồng ý của quốc tế. so với yêu cầu ban đầu khi đặt ra khả năng làm hỏa lực phòng không, và do đó có một góc nâng tối đa lên đến 70°, cho dù nó không có khả năng xoay và nâng đủ nhanh để dò theo các mục tiêu trên không, và hoàn toàn thiếu sót một hệ thống điều khiển hỏa lực phù hợp.

Dàn pháo hạng hai bao gồm bốn khẩu đội QF 102 mm (4 inch)/45 caliber Mark V trên các tháp pháo HA Mark III nòng đơn được nạp đạn từ hầm đạn giữa tàu; và hai ống phóng ngư lôi bốn nòng đạt giữa tàu, một bộ mỗi bên mạn. Các khẩu pháo 102 mm (4 inch) Mark V nòng đơn sau đó được thay thế bằng kiểu Mark XVI trên các bệ nòng đôi. Trong một nỗ lực vô vọng nhằm giữ cho con tàu bên trong những giới hạn tải trọng, kiểu Mark XVI được tháo dỡ để tiết kiệm trọng lượng, và được thay thế bằng kiểu Mark XVII, một việc được mô tả là "vụn vặt một cách lố lăng". Chúng sau đó được cải biến ngược trở lại thành kiểu Mark XVI.

Thiết kế ban đầu dự định trang bị bốn khẩu đội phòng không QF 2 pounder Mk.VIII pom-pom tám nòng, nhưng do các biện pháp giảm trọng lượng được áp dụng, chúng không được trang bị, và các khẩu đội QF 2 pounder Mark II được bố trí thay thế trên bốn bệ pháo nòng đơn. Thiết kế cũng dành chỗ cho một máy phóng xoay được và một cần cẩu dành cho hoạt động của máy bay, cho dù một lần nữa chúng không được cung cấp.

Sự bảo vệ

Thiết kế ban đầu chỉ dành ra ít trọng lượng phân phối cho sự bảo vệ, đặc biệt là dưới sự khó tính của các nhà thiết kế muốn tuân thủ từng câu chữ của hiệp ước. Vì vậy, đai giáp hông theo truyền thống bị loại bỏ, và lớp bọc bên hông lườn tàu dày 1 inch (25 mm) chỉ đủ để bảo vệ chống lại mảnh đạn pháo. Một sàn tàu bảo vệ dày 32 mm (1,25 inch) được đặt bên trên các khoang động cơ, và các "hộp thành trì" bảo vệ các hầm đạn; bệ pháp pháo dày 64 mm (2,5 inch) và các mặt hông dày 102 mm (4 inch), được đóng lại bởi các vách ngăn dày 64 mm (2,5 inch). Hộp thành trì phía sau được giảm bớt độ dày ở hai đầu, và ở giữa tàu được làm mỏng đi khi chúng được bố trí trong phạm vi sàn tàu bọc thép và lớp bọc bên hông. Một vòng cung dày 38 mm (1,5 inch) bố trí bên trên bánh lái được đóng lại bằng một vách ngăn dày 25 mm (1 inch). Các tháp pháo và ụ tháp súng chỉ được bảo vệ bằng lớp mỏng chống mảnh đạn pháo, cũng như là các bệ hoa tiêu dẫn đường. Một bầu bên ngoài được sử dụng để bảo vệ chống lại ngư lôi.

Sự khác biệt và các cải biến

Lớp phụ Kent

nhỏ|trái|Sơ đồ mô tả chiếc HMS Cumberland thuộc lớp Kent vào giai đoạn sau năm 1943, khi hầm chứa máy bay được tháo dỡ, thay bằng một cấu trúc thượng tầng dạng thanh giằng mang các bộ radar và điều khiển hỏa lực. Giống như Suffolk, nó được cắt bỏ phía đuôi so với thiết kế ban đầu để tiết giảm trọng lượng. Bảy chiếc đầu tiên trong lớp: Berwick, Cornwall, Cumberland, KentSuffolk của Hải quân Hoàng gia cùng AustraliaCanberra của Hải quân Hoàng gia Australia hình thành nên lớp _Kent_. Tất cả đều được đặt hàng vào năm 1924 và đưa ra hoạt động vào năm 1928. Người ta nhanh chóng nhận ra cần phải nâng thêm chiều cao con tàu khoảng 4,5 m (15 ft) để khói thải không che khuất cấu trúc thượng tầng phía sau. Ống khói của các con tàu AustraliaCanberra của Australia còn được nâng thêm 0,9 m (3 ft). Từ năm 1930 đến năm 1933 máy bay và máy phóng được bổ sung, cũng như các bộ điều khiển hỏa lực góc cao HACS cho các khẩu pháo 102 mm (4 inch). Kent được bổ sung thêm một cặp pháo 102 mm (4 inch) vào năm 1934, và nó cùng với BerwickCornwall đều được bổ sung một cặp súng máy Vickers 12,7 mm (0,50) bố trí phía trước ống khói trước.

Vào giữa những năm 1930, đến lúc lớp Kent cần được hiện đại hóa. Tuy nhiên, chỉ còn lại một ít trọng lượng dành cho các nhà thiết kế; chúng ở trong khoảng từ 150 đến 250 tấn bên dưới giới hạn của hiệp ước, và người ta ước lượng có thêm khoảng 200 tấn được tiết kiệm từ nhiều biện pháp giảm trọng lượng khác nhau. Một đai giáp rộng 1,8 m (6 ft), dày 114 mm (4,5 inch), được bổ sung phía giữa tàu, kéo dài từ sàn tàu bọc thép đến 0,3 m (1 ft) bên dưới mực nước. CumberlandSuffolk có cấu trúc thượng tầng phía sau được san bằng thay thế bằng một sàn chứa lớn dành cho hai máy bay và một máy phóng cố định chéo qua con tàu. Một cần cẩu được bố trí bên mạn tàu cạnh ống khói phía sau, trong khi các vị trí dẫn đường và kiểm soát được tái bố trí bên trên nóc sàn chứa. Những khẩu 2 pounder nòng đơn được tháo dỡ thay bằng tháp pháo Mark VII bốn nòng bổ sung hai bên cầu tàu. Các khẩu đội 102 mm (4 inch) được bố trí lại, và cặp bệ pháo Mark XVI sau cùng được thay thế bằng bệ Mark XIX nòng đôi. Để giữ cho trọng lượng bên trong giới hạn cho phép, lườn tàu được cắt bớt một sàn phía sau tháp pháo Y. BerwickCornwall cũng được nâng cấp tương tự, nhưng do có sẵn nhiều trọng lượng dư thừa, lườn tàu đã không bị cắt; tất cả bốn tháp pháo 102 mm (4 inch) đều là kiểu nòng đôi, và các khẩu đội 2 pounder là kiểu tám nòng. Đến năm 1939, các ống phóng ngư lôi được tháo bỏ trên cả bốn con tàu.

Kent chỉ có ít trọng lượng để nâng cấp, và do đó nó không được hiện đại hóa triệt để. Nó giữ lại máy phóng kiểu xoay và cấu trúc thượng tầng phía sau, được bổ sung các vị trí kiểm soát hỏa lực bố trí trên một cấu trúc thanh giằng đặc trưng. Dàn hỏa lực phòng không cũng được cải tiến giống như những tàu chị em, nhưng các khẩu đội 2 pounder và bộ điều khiển của chúng được bố trí phía sau trên một cấu trúc thanh giằng.

Nhà sử học hải quân H. Trevor Lenton ước lượng rằng cho dù đã có những nỗ lực hết mức, không có chiếc nào thực sự nằm trong giới hạn tải trọng của hiệp ước; trọng lượng rẽ nước của lớp Kent khi đầy tải là 14.197 tấn, cho thấy nó có trọng lượng rẽ nước tiêu chuẩn khoảng 10.600 tấn. Lenton nêu lên sự nghi ngờ rằng liệu Bộ Hải quân có từng thông báo cho Chính phủ về tình trạng vượt mức này không, vì với việc chiến tranh đang đến gần, "họ đang chịu đựng những áp lực đòi hỏi về thời gian".

Lớp phụ London

nhỏ|trái|Sơ đồ mô tả chiếc HMS London tiêu biểu cho lớp London vào giai đoạn sau năm 1943, với các thiết bị dành cho máy bay được tháo dỡ, và được bổ sung vũ khí phòng không hạng nhẹ cùng thiết bị điện tử. Kiểu dáng của lớp London khác biệt nhiều so với kiểu dáng nguyên thủy của lớp County. Nhóm thứ hai thuộc lớp London với bốn chiếc Devonshire, London, ShropshireSussex tiếp nối gần gũi với thiết kế của lớp Kent. Bầu chống ngư lôi bên ngoài được loại bỏ, làm giảm bề rộng mạn thuyền 0,6 m (2 ft), và chiều dài của lườn tàu được kéo dài thêm 0,84 m (2 ft 9 in), giúp gia tăng tốc độ thêm được 1,4 km/h (¾ knot). Để đền bù lại cho sự bảo vệ của bầu chống ngư lôi, một lớp vỏ thứ hai bên trong được trang bị để mang lại hiệu quả tương tự. Cầu tàu được bố trí lui về phía sau để giảm thiểu hiệu ứng của tiếng nổ từ tháp pháo B khi bắn qua mạn tàu. Ống khói được nâng cao ngay từ khi chế tạo. Máy bay và máy phóng được trang bị từ năm 1932.

Trên mọi con tàu ngoại trừ chiếc Sussex, bốn khẩu pháo 102 mm (4 inch) được bổ sung trên các bệ nòng đơn đặt ngang với các ống khói. Các khẩu đội 2 pounder nòng đơn được tháo dỡ, và được bổ sung hai khẩu đội súng máy 12,7 mm (0,5 inch) Vickers bốn nòng. Shropshire có được một bộ kiểm soát hỏa lực phòng không. Vào đầu chiến tranh, các khẩu pháo 102 mm (4 inch) bổ sung được tháo dỡ, trong khi các khẩu pháo nguyên thủy được nâng cấp lên bệ Mark XVI nòng đôi. Các khẩu pháo 2 pounder tám nòng dự định khi thiết kế cuối cùng cũng được trang bị.

Từ năm 1938 đến năm 1941, London được trang bị nâng cấp trọn gói. Toàn bộ thiết kế thượng tầng được tháo dỡ, thay bằng những cấu trúc hoàn toàn mới phía trước và phía sau, cùng hai ống khói thẳng đứng hiện đại tương tự như của lớp Crown Colony đương thời. Khối cấu trúc thượng tầng phía trước bao gồm một hầm chứa máy bay lớn mở ra một máy phóng đặt chéo qua lườn tàu giữa các khối cấu trúc thượng tầng. Có một máy phóng ở mỗi bên mạn tàu phía sau ống khói. Các khẩu pháo phòng không 102 mm (4 inch) được thay thế bởi các bệ nòng đôi và được tái bố trí ở cấu trúc thượng tầng phía sau, cùng với các thiết bị ngư lôi một tầng bên dưới. Các khẩu pháo 2 pounder được đặt trên nóc hầm chứa máy bay, và các bệ súng máy Vickers nhiều nòng được bố trí một khẩu đội trên mỗi nóc tháp pháo B và X. Một đai giáp dày 89 mm (3,5 inch), rộng 2,4 m (8 ft), được bổ sung bên cạnh các khoang động cơ, mở rộng lên trên cho đến sàn tàu bọc thép. Tuy nhiên, lườn tàu nguyên thủy được thiết kế cẩn thận để giúp làm giảm trọng lượng nhờ sự sắp xếp ban đầu; nên việc cải biến của London với những trọng lượng nặng được đặt bên trên phía trước và phía sau tàu, đưa đến một lườn tàu chịu áp lực quá tải đáng kể; các vết nứt và các đinh tán bị long ra bắt đầu xuất hiện trên các sàn tàu phía trên. Sàn tàu trên được gia cố, nhưng lại đẩy áp lực tải xuống lườn tàu bên dưới, và các vết nứt lại xuất hiện bên dưới mực nước. Cần đến các biện pháp gia cố bên dưới mực nước, và công việc tái trang bị kéo dài cho đến năm 1943 để sửa chữa tình trạng này.

Vào những năm 1930, ba chiếc cuối cùng của lớp London trải qua các cải biến tương tự như với lớp Kent, tháo dỡ tám ống phóng ngư lôi 533 mm (21 inch) và một tháp pháo 203 mm (8 inch) nòng đôi, cho dù London giữ lại nó. Riêng Shropshire giữ lại tháp pháo "X" cũng như các ống phóng ngư lôi và được chuyển cho Hải quân Hoàng gia Australia vào đầu năm 1943 để thay thế chiếc Canberra.

Lớp phụ Norfolk

Hai chiếc thuộc lớp County sau cùng NorfolkDorsetshire hình thành nên lớp Norfolk. Việc đặt hàng thêm hai chiếc nữa NorthumberlandSurrey cho những chương trình chế tạo của các tài khóa 1927-1928 và 1928-1929 bị hoãn lại, và không bao giờ được đặt lườn. Đó là do việc Tổng tuyển cử năm 1929 đưa đến một Chính phủ thuộc phe thiểu số của Đảng Lao động dưới quyền Thủ tướng Ramsay Macdonald, đã hủy bỏ kế hoạch chế tạo các con tàu như là một biện pháp kinh tế, cũng như là một hành động thiện chí cho Hội nghị Hải quân London sắp diễn ra. Chúng là sự lặp lại những thiết kế của lớp London với những thay đổi nhỏ.

Cầu tàu và cấu trúc thượng tầng phía sau được hạ thấp. Các tháp pháo 203 mm (8 inch) được trang bị kiểu Mark II với dự định làm giảm trọng lượng, nhưng cuối cùng lại nặng hơn so với kiểu Mark I! Các khẩu đội 102 mm (4 inch) được tái bố trí ra phía trước để không che khuất máy phóng và máy bay, vốn được gắn thấp hơn so với những chiếc dẫn trước. Trong năm 1937, các khẩu pháo 4 inch được thay thế bằng kiểu nòng đôi, các khẩu đội 2 pounder tám nòng được bổ sung phía sau cấu trúc thượng tầng và các khẩu nòng đơn phía trước được tháo dỡ. Các cải tiến này đã đẩy trọng lượng rẽ nước tiêu chuẩn vượt quá 10.400 tấn.

Trong chiến tranh, các dàn phóng rocket ban đầu được bổ sung, nhưng sau đó được tháo dỡ cùng với các khẩu súng máy Vickers. Chúng được thay thế bằng kiểu pháo phòng không Oerlikon 20 mm hữu ích hơn. Một bộ điều khiển hỏa lực dành cho các khẩu pháo 102 mm (4 inch) được bổ sung, và các cột ăn-ten được thay thế bằng kiểu ba chân để chịu đựng trọng lượng nặng thêm của các hệ thống điện tử bổ sung. Một đợt tái trang bị năm 1944 dành cho Norfolk, lúc đó là chiếc duy nhất còn lại của lớp phụ này, tháo dỡ máy bay, máy phóng và tháp pháo X. Chỗ trống có được dành để trang bị bốn khẩu đội 2 pounder bốn nòng cùng các bộ kiểm soát hỏa lực của chúng, và bốn khẩu pháo phòng không Bofors 40 mm. Một cụm cấu trúc thượng tầng bổ sung phía sau để mang bộ điều khiển hỏa lực phòng không, được trang bị radar Kiểu 283, để cuối cùng cho phép dàn pháo chính có thể phục vụ trong vai trò phòng không được dự định từ đầu.

So sánh các lớp phụ

:*: Sau khi tái trang bị 1935, không bao gồm AustraliaCanberra :**: Sau khi tái trang bị 1938, riêng cho London

Những chiếc trong Lớp

Lịch sử hoạt động

Lớp County đã được sử dụng rộng rãi trong Chiến tranh thế giới thứ hai. HMS NorfolkSuffolk được trang bị radar, giúp cho chúng có được ưu thế khi dõi theo Bismarck sau khi chiếc tàu chiến-tuần dương HMS Hood bị đánh chìm.

Lớp tàu tuần dương này đã phục vụ trên tất cả các mặt trận của cuộc chiến này. Chúng cũng chịu đựng một số thiệt hại, khi Canberra, CornwallDorsetshire bị tiêu diệt.

Những chiếc còn sống sót đều được cho ngừng hoạt động trong những năm 1950, ngoại trừ Cumberland được sử dụng như một tàu thử nghiệm vũ khí, được trang bị các cỡ pháo tự động 152 mm (6 inch) và 76 mm (3 inch) sẽ được trang bị cho lớp tàu tuần dương Tiger. Nó bị tháo dỡ vào năm 1959.

Lớp Canarias

Hai chiếc tàu tuần dương đã được chế tạo dựa trên lớp County: các tàu tuần dương Tây Ban Nha CanariasBaleares thuộc lớp Canarias, được thiết kế tại Anh và được chế tạo tại Tây Ban Nha bởi chi nhánh Sociedad Española de Construcción Naval của hãng Vickers-Armstrongs. Được hoàn tất vào cuối 1930 cho Hải quân Tây Ban Nha, chúng đã tham gia hoạt động trong cuộc Nội chiến Tây Ban Nha. Cho dù chúng chia sẻ cùng một lườn tàu, hệ thống động lực và dàn pháo chính, những chiếc tàu chiến Tây Ban Nha có kiểu dáng bên ngoài khác biệt đáng kể, mang một ống khói lớn duy nhất và một cấu trúc thượng tầng cao tương đương phía trước.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lớp tàu tuần dương _County**_ là một lớp tàu tuần dương hạng nặng được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc trong những năm giữa hai cuộc Chiến tranh Thế giới thứ nhất
**Lớp tàu tuần dương _York**_ là lớp thứ hai và cũng là lớp tàu tuần dương hạng nặng cuối cùng trang bị pháo 203 mm (8 inch) của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, được chế
**Lớp tàu tuần dương _Admiral Hipper**_ là một loạt năm tàu tuần dương hạng nặng, trong đó ba chiếc đã phục vụ cùng Hải quân của Đức Quốc xã trong Chiến tranh thế giới thứ
**Lớp tàu tuần dương _Emerald**_ hoặc **lớp E** là một lớp bao gồm hai tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo sau khi Chiến tranh Thế giới thứ
Tàu tuần dương hạng nặng [[HMS Frobisher (D81)|HMS _Frobisher_ thuộc lớp _Hawkins_, vào khoảng thời gian mà Hiệp ước Hải quân Washington đặt ra những giới hạn cho tàu tuần dương hạng nặng.]] **Tàu tuần
**HMS _Liverpool_ (C11)**, tên được đặt theo thành phố cảng Liverpool phía Tây Bắc nước Anh, là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp Town của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc đã phục
**HMS _Cumberland_ (57)** là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc thuộc lớp _County_ thuộc lớp phụ _Kent_. _Cumberland_ đã tham gia hoạt động trong suốt Chiến tranh Thế
**HMS _York_ (90)** là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, là chiếc dẫn đầu của lớp _York_. Nó đã phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai
**HMS _Sussex_ (96)** là một tàu tuần dương hạng nặng thuộc lớp phụ _London_ của lớp tàu tuần dương _County_ được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc sau Chiến tranh Thế giới
**USS _Canberra_ (CA-70/CAG-2)** là một tàu tuần dương hạng nặng thuộc lớp _Baltimore_ của Hải quân Hoa Kỳ được chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nguyên được đặt tên là **USS _Pittsburgh**_,
**HMS _Enterprise_ (D52)** là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Emerald_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Nó đã phục vụ trước và trong Chiến tranh Thế giới thứ hai trước khi
**HMS _London_ (69)** là một tàu tuần dương hạng nặng thuộc lớp _County_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, và là chiếc dẫn đầu cho lớp phụ _London_. Nó đã tham gia hoạt động
**HMS _Shropshire_ (73)** là một tàu tuần dương hạng nặng thuộc lớp _County_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, thuộc lớp phụ _London_. Hoàn tất vào năm 1929, _Shropshire_ đã phục vụ cùng với
**HMS _Kent_ (54)** là một tàu tuần dương hạng nặng thuộc lớp _County_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc và là chiếc dẫn đầu cho lớp phụ _Kent_. Nó đã tham gia hoạt động
**HMAS _Canberra_ (I33/D33)**, tên được đặt theo thủ đô Canberra của Australia, là một tàu tuần dương hạng nặng thuộc lớp _County_, được chế tạo tại Anh Quốc thuộc lớp phụ _Kent_, để hoạt động
**HMS _Cornwall_ (56)** là một tàu tuần dương hạng nặng thuộc lớp _County_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc và thuộc lớp phụ _Kent_. _Cornwall_ đã tham gia hoạt động trong giai đoạn đầu
**HMS _Dorsetshire_ (40)** là một tàu tuần dương hạng nặng thuộc lớp _County_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, thuộc lớp phụ _Norfork_. Nó được đặt tên theo hạt Dorsetshire (ngày nay gọi là
**HMS _Berwick_ (65)** là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, là chiếc dẫn đầu cho lớp _County_ thuộc lớp phụ _Kent_. _Berwick_ đã tham gia hoạt động trong
**HMS _Devonshire_ (39)** là một tàu tuần dương hạng nặng thuộc lớp _County_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc và thuộc lớp phụ _London_. _Devonshire_ đã tham gia hoạt động trong suốt Chiến tranh
**HMAS _Australia_ (D84)** là một tàu tuần dương hạng nặng thuộc lớp _County_, được chế tạo tại Anh Quốc thuộc lớp phụ _Kent_, để hoạt động cùng Hải quân Hoàng gia Australia. _Australia_ đã tham
**HMS _Norfolk_ (78)** là một tàu tuần dương hạng nặng thuộc lớp _County_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, và là chiếc dẫn đầu cho lớp phụ _Norfork_, cùng chung với chiếc HMS Dorsetshire
**HMS _Suffolk_ (55)** là một tàu tuần dương hạng nặng thuộc lớp _County_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc và thuộc lớp phụ _Kent_. _Suffolk_ đã tham gia hoạt động trong suốt Chiến tranh
nhỏ|300x300px| nhỏ|upright|Tàu khu trục , một chiếc thuộc của [[Hải quân Hoa Kỳ.]] **Tàu khu trục**, hay còn gọi là **khu trục hạm**, (tiếng Anh: _destroyer_) là một tàu chiến chạy nhanh và cơ động,
**HMS _Exeter_ (68)** là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc thuộc lớp _York_. Nó đã phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai khi đối đầu với
**USS _Albany_ (CA-123)** là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _Oregon City_ được đưa ra hoạt động sau Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó được cải biến
**USS _The Sullivans_ (DD-537)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân
**HMS _Hurworth_ (L28)** là một tàu khu trục hộ tống lớp Hunt Kiểu II của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc được hạ thủy và đưa ra phục vụ vào năm 1941. Nó đã hoạt
Trung tá Không quân Jimmy Doolittle (thứ hai từ bên trái) và đội bay của ông chụp ảnh trước một chiếc B-25 trên sàn đáp tàu sân bay USS _Hornet_ Cuộc **Không kích Doolittle** vào
**_U-35_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIA được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1936, nó đã thực
Một tàu chiến của Hải quân Hoàng gia Anh và hai tàu chiến của Hải quân Hoàng gia Australia từng được mang cái tên **_Australia_**. Một chiếc thứ tư cũng được dự định để mang
**USS _Indiana_ (BB-58)** là một thiết giáp hạm thuộc lớp _South Dakota_ được Hải quân Hoa Kỳ đưa vào hoạt động trong Chiến tranh Thế giới lần thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ
**Hải âu cổ rụt Đại Tây Dương** (danh pháp khoa học: **_Fratercula arctica_**) là một loài chim biển trong họ Alcidae. Đây là loài hải âu cổ rụt bản địa duy nhất của Đại Tây
**Seacat** là một loại tên lửa phòng không hạm tàu do Anh phát triển để thay thế cho pháo phòng không Bofors cỡ nòng 40 mm trên tàu chiến Hải quân nước này. Đây là
**Phùng Tuấn Vũ** (1958), là một nhạc sĩ ghi-ta xuất sắc của Việt Nam. Ông nổi danh trong thập niên 1980 nhờ tài độc tấu ghi-ta thùng cho các loại nhạc cổ điển, dân ca
trái|nhỏ|Eo Mackinac nhìn từ bờ Nam với [[cầu Mackinac bắc qua eo này.]] **Eo Mackinac** là một eo nước ngọt kết nối hai hồ trong số Ngũ Đại Hồ: Hồ Michigan và Hồ Huron và
**Xung đột giành quyền kiểm soát tại Quần đảo Trường Sa 1988**, hay còn gọi là **Hải chiến Trường Sa** hoặc **Xung đột Trường Sa** là sự kiện xung đột tại khu vực quần đảo
phải|nhỏ|Du thuyền tới California vào lúc bắt đầu cơn sốt vàng California **Cơn sốt vàng California** (tiếng Anh: **California Gold Rush**) 1848–1855 bắt đầu tháng 1 năm 1848, khi James W. Marshall phát hiện vàng
**Virginia** (phát âm tiếng Việt: Vơ-gin-ni-a; phát âm tiếng Anh: ), tên chính thức là **Thịnh vượng chung Virginia** (), là một bang nằm tại khu vực Nam Đại Tây Dương của Hợp chúng quốc
nhỏ|phải|[[Nhà máy điện hạt nhân Ikata, lò phản ứng nước áp lực làm lạnh bằng chất lỏng trao đổi nhiệt thứ cấp với đại dương.]] nhỏ|phải|Ba loại tàu năng lượng hạt nhân, từ trên xuống
**_Harry Potter và Hoàng tử lai_** (tựa gốc tiếng Anh: **_Harry Potter and the Half-Blood Prince_**) là một bộ phim giả tưởng năm 2009 của đạo diễn David Yates và được phát hành bởi Warner
**Lê Bá Hùng** (sinh năm 1970) tại Huế, Việt Nam là một quân nhân người Mỹ gốc Việt trong Hải quân Hoa Kỳ. Ông là người gốc Việt đầu tiên giữ chức vụ Hạm trưởng
**_Ingenuity_** là một máy bay trực thăng năng lượng mặt trời robot nhỏ hoạt động trên Sao Hỏa trong nhiệm vụ Mars 2020 của NASA. Vào ngày 19 tháng 4 năm 2021, trực thăng đã
**Dame Angela Brigid Lansbury** DBE (16 tháng 10 năm 1925 – 11 tháng 10 năm 2022) là một nữ diễn viên kiêm ca sĩ người Ai len - Anh - Mỹ. Bà xuất hiện rất
**Wales** hay **Xứ Wales** (phát âm tiếng Anh: ; hay ) là một quốc gia thuộc Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland và nằm trên đảo Anh. Wales có biên giới với Anh
**_Avengers: Cuộc chiến vô cực_** (tựa gốc tiếng Anh: **_Avengers: Infinity War_**) là một bộ phim điện ảnh đề tài siêu anh hùng của Mỹ năm 2018 dựa trên các nhân vật của Marvel Comics.
**Theodore Robert Bundy** (; 24 tháng 11 năm 1946 – 24 tháng 1 năm 1989) là một kẻ giết người hàng loạt người Mỹ đã bắt cóc, hãm hiếp và sát hại nhiều phụ nữ cũng
**George V** (3 tháng 6 năm 1865– 20 tháng 1 năm 1936) là Quốc vương Vương quốc Anh và các quốc gia tự trị của Anh, và Hoàng đế Ấn Độ, từ 6 tháng 5
**Sông Stanislaus** là một nhánh của sông San Joaquin nằm ở trung tâm bắc California, Hoa Kỳ. Các dòng hạ lưu chính của sông dài , thượng nguồn cách xa sông được ước tính khoảng
nhỏ|phải|Một kỵ mã [[Mông Cổ với kỹ thuật truyền thống]] **Môn cưỡi ngựa** (_Equestrianism_) hoặc đơn giản là **cưỡi ngựa** (_Horse riding_) hay còn gọi là **mã thuật** hay "thừa mã" là một môn thể
**Edward VIII của Anh** (Edward Albert Christian George Andrew Patrick David; 23 tháng 6 năm 1894 – 28 tháng 5 năm 1972) là Quốc vương Vương quốc Anh và các quốc gia tự trị của