✨Ted Bundy
Theodore Robert Bundy (; 24 tháng 11 năm 1946 – 24 tháng 1 năm 1989) là một kẻ giết người hàng loạt người Mỹ đã bắt cóc, hãm hiếp và sát hại nhiều phụ nữ cũng như trẻ em gái trong giai đoạn những năm 1970. Sau hơn một thập kỷ chối tội, trước khi bị hành quyết vào năm 1989, anh đã thú nhận mình là thủ phạm của 30 vụ giết người tại 7 bang từ năm 1974 đến năm 1978. Tổng số nạn nhân thực sự của Bundy vẫn là điều bí ẩn và có khả năng còn cao hơn con số 30.
Bundy được đánh giá là một người đẹp trai và lôi cuốn. Đây cũng là những điểm mà anh tận dụng nhằm chiếm lòng tin của các nạn nhân và cả xã hội. Bundy thường tiếp cận mục tiêu ở những nơi công cộng, giả vờ bị thương hoặc tàn tật hay đóng giả một nhân vật có thẩm quyền trước khi đánh họ bất tỉnh rồi đưa đến địa điểm vắng vẻ để cưỡng hiếp và bóp cổ. Đôi khi anh quay lại hiện trường thứ cấp của các vụ án, chải chuốt và thực hiện hành vi tình dục với những xác chết đang trong quá trình phân hủy cho đến khi chúng thối rữa hoặc bị động vật hoang dã hủy hoại đến mức không thể thực hiện thêm bất kỳ tương tác nào nữa. Bundy chặt đầu ít nhất 12 nạn nhân và giữ một vài thủ cấp làm đồ lưu niệm trong căn hộ của mình. Có đôi lúc, anh đột nhập vào nhà dân vào ban đêm rồi đánh chết nạn nhân khi họ đang say giấc.
Năm 1975, Bundy lần đầu sa lưới khi bị bắt giam ở Utah vì tội bắt cóc và hành hung. Sau đó, anh trở thành nghi phạm của một danh sách dài các vụ án mạng chưa được giải quyết ở một số bang. Đối mặt với cáo buộc giết người tại Colorado, Bundy thực hiện liền hai vụ vượt ngục kịch tính và tiếp tục tấn công thêm các nạn nhân ở Florida trong đó có ba vụ là giết người trước khi bị bắt lại lần cuối vào năm 1978. Với ba vụ giết người ở Florida, Bundy nhận ba án tử trong hai phiên tòa. Cuối cùng, anh bị hành quyết trên ghế điện tại nhà tù bang Florida ở Raiford vào ngày 24 tháng 1 năm 1989.
Nhà viết tiểu sử Ann Rule, người từng tiếp xúc với Ted Bundy, đã mô tả anh là "một kẻ bạo dâm mắc bệnh nhân cách, lấy làm vui sướng với nỗi đau của người khác cũng như sự kiểm soát nạn nhân cho đến khi họ chết và thậm chí cả sau đó nữa." Bundy tự nhận mình là "tên khốn máu lạnh nhất mà bạn từng gặp." Luật sư Polly Nelson, một thành viên trong đoàn luật sư bào chữa cuối cùng của Bundy, đã gọi anh là "định nghĩa chính xác của một con quỷ không có trái tim."
Đầu đời
Thời thơ ấu
Ted Bundy, tên đầy đủ là Theodore Robert Cowell, được bà Eleanor Louise Cowell (1924–2012; thường gọi là Louise) hạ sinh tại Nhà hộ sinh Elizabeth Lund dành cho bà mẹ đơn thân ở Burlington, Vermont vào ngày 24 tháng 11 năm 1946. Danh tính thực sự của cha anh chưa bao giờ được xác nhận. Giấy khai sinh của Ted Bundy được cho là thừa nhận mối quan hệ cha con với một nhân viên bán hàng từng là lính không quân có tên Lloyd Marshall. Dù vậy, nhiều báo cáo lại khẳng định phần họ tên cha ruột của Bundy đã được ghi là "Không rõ". Louise kể rằng bà từng bị quyến rũ bởi Jack Worthington, một cựu chiến binh giàu có, và Văn phòng cảnh sát trưởng quận King đã công nhận người này là cha của Bundy trong hồ sơ của họ. Một số thành viên gia đình bày tỏ mối nghi ngờ về việc chính người cha dữ tợn, ưa bạo hành của Louise, ông Samuel Cowell, là cha của Ted Bundy nhưng không có bằng chứng hữu hình nào được đưa ra để chứng minh giả thuyết.
Suốt ba năm đầu đời, Bundy sống trong ngôi nhà ở Philadelphia cùng ông bà ngoại, Samuel (1898–1983) và Eleanor Cowell (1895–1971), những người đã nuôi nấng anh như con trai ruột để tránh sự kỳ thị của xã hội vì Bundy là đứa trẻ ngoài giá thú. Gia đình, bạn bè và thậm chí cả cậu bé Ted đều được cho biết ông bà ngoại chính là bố mẹ Ted còn Louise là chị gái cậu. Cuối cùng Bundy cũng biết được sự thật, dù mỗi hoàn cảnh lại có một hồi tưởng về sự kiện khác nhau. Anh từng kể với bạn gái rằng một người anh em họ đã cho Bundy xem bản sao giấy khai sinh của anh sau khi gọi anh là "con hoang", nhưng lại nói với hai ký giả Stephen Michaud và Hugh Aynesworth là tự mình đã tìm được giấy khai sinh. Người viết tiểu sử kiêm cây viết tội phạm Ann Rule biết rất rõ Bundy, tin là Bundy hoàn toàn không biết về thân phận của mình cho tới năm 1969, khi đọc được hồ sơ khai sinh gốc ở Vermont. Bundy oán hận mẹ mình suốt đời vì đã không bao giờ nói cho anh biết về người cha thật, khiến anh phải tự tìm tòi về gốc gác của chính mình.
Trong một số cuộc phỏng vấn, Bundy tỏ ra hào hứng khi kể về ông bà mình, từng nói với Rule rằng anh dành sự "đồng cảm", "tôn trọng" và "tin tưởng tuyệt đối" cho ông ngoại. Thế nhưng, vào năm 1987, Bundy và các thành viên khác trong gia đình lại miêu tả với các luật sư rằng Samuel Cowell là một tên độc tài hách dịch, bảo thủ, kỳ thị người da màu, người Ý, người Công giáo và cả người Do Thái, đánh vợ và cả con chó trong nhà thậm chí treo lủng lẳng đám mèo nhà hàng xóm bằng đuôi của chúng. Ông từng ném Julia, em gái của Louise, xuống cầu thang vì cô ngủ quá giấc. Đôi khi Samuel còn to tiếng với những thứ vô hình, và ít nhất một lần nổi cơn thịnh nộ khi được hỏi về quan hệ cha con với Bundy.
Bundy mô tả bà của mình là một người phụ nữ rụt rè và nghe lời, thường xuyên trải qua liệu pháp điều trị chứng trầm cảm bằng điện và sợ phải rời khỏi nhà vào những năm tháng cuối đời. Ngay từ khi còn nhỏ, Bundy thỉnh thoảng bộc lộ những hành vi đáng lo ngại. Julia nhớ lại mình từng nằm giữa những con dao làm bếp khi vừa thức dậy sau một giấc ngủ ngắn còn đứa cháu Bundy thì đang đứng cạnh giường và mỉm cười. thế=|nhỏ|257x257px|Bundy khi đang là học sinh trung học cuối cấp, năm 1965
Năm 1950, Louise đổi họ của mình từ Cowell thành Nelson, và trước sự thúc giục của nhiều thành viên trong gia đình, bà cùng con trai rời Philadelphia để chuyển đến sống với hai người anh em họ là Alan và Jane Scott ở Tacoma, Washington. Năm 1951, trong một đêm hội độc thân tại Nhà thờ giám lý đầu tiên của Tacoma, Louise làm quen với Johnny Culpepper Bundy (1921–2007), một đầu bếp bệnh viện. Năm đó, hai người thành hôn và Johnny Bundy chính thức nhận nuôi Ted. Johnny và Louise có với nhau bốn đứa con. Mặc dù luôn đưa cậu con nuôi tham gia cắm trại và nhiều hoạt động gia đình khác nhưng Johnny vẫn không thể gần gũi Ted. Một thời gian sau, Ted Bundy than vãn với bạn gái rằng Johnny không phải cha ruột của anh, "không quá sáng dạ" và "chẳng kiếm được nhiều tiền."
Khi nói chuyện với các ký giả viết tiểu sử, Bundy vẽ nên những hồi ức khác nhau về Tacoma. Trước Michaud và Aynesworth, Bundy mô tả cách anh ta đi lang thang trong khu phố của mình, moi móc thùng rác để tìm kiếm ảnh phụ nữ khỏa thân. Với Polly Nelson, anh lại giải thích cách mình chăm chú đọc các tạp chí trinh thám, tiểu thuyết tội phạm và phim tài liệu tội phạm có thật về những câu chuyện liên quan đến bạo lực tình dục, đặc biệt là khi chúng được minh họa bằng hình ảnh của những xác chết hoặc những cơ thể thương tật. Viết trong một bức thư gửi cho Rule, anh khẳng định "chưa bao giờ đọc tạp chí trinh thám có thật mà cảm thấy rùng mình trong suy nghĩ", rằng ai mà muốn đọc. Khi đối thoại với Michaud, Bundy mô tả cách anh uống thật nhiều rượu rồi "thăm dò cộng đồng" vào đêm khuya khi tìm kiếm những cửa sổ không có mành che, nơi anh có thể quan sát phụ nữ cởi đồ hoặc "bất cứ thứ gì [khác] có thể nhìn thấy được."
Bundy cũng luôn đa dạng hóa lời tường thuật của mình về các mối quan hệ xã hội. Anh ta nói với Michaud và Aynesworth rằng anh "chọn ở một mình" khi còn ở tuổi vị thành niên vì không tài nào hiểu nổi mối quan hệ giữa các cá nhân. Bundy khẳng định mình không có ý thức tự nhiên về cách để phát triển tình bạn. "Tôi không biết điều gì khiến mọi người muốn trở thành bạn bè," anh nói. "Không biết nền tảng cho các tương tác xã hội là gì." Tuy nhiên, các bạn cùng lớp của Bundy ở trường Trung học Woodrow Wilson kể với Rule rằng Bundy "nổi tiếng và được nhiều người yêu thích", "là kẻ bình thường trong một môi trường lớn."
Môn thể thao mà Ted Bundy đam mê nhất là trượt tuyết xuống dốc, anh nhiệt tình theo đuổi hoạt động này bằng cách ăn trộm dụng cụ và làm giả vé ghế nâng.
Trong thời gian học trung học, anh từng bị bắt ít nhất hai lần vì tình nghi ăn cắp tài sản và trộm ô tô. Theo thông lệ của bang Washington, khi Bundy đủ 18 tuổi, chi tiết về các tiền án này được xóa khỏi hồ sơ của anh.
Những năm tháng đại học
Sau khi tốt nghiệp trung học năm 1965, Bundy theo học tại Đại học Puget Sound (UPS) một năm trước khi chuyển sang Đại học Washington (UW) để học ngành ngôn ngữ Trung. Năm 1967, anh có quan hệ tình cảm với một nữ sinh cùng lớp tại UW, người được gán cho một số tên giả trong các tiểu sử về Bundy, thường là "Stephanie Brooks." Đầu năm 1968, anh bỏ học đại học và chuyển sang làm một loạt công việc với mức lương tối thiểu. Anh cũng tham gia tình nguyện tại văn phòng Seattle trong chiến dịch tranh cử tổng thống của Nelson Rockefeller, và trở thành tài xế kiêm vệ sĩ cho Arthur Fletcher trong cuộc tranh cử chức Phó thống đốc bang Washington của ông này.
Vào tháng 8 năm 1968, Bundy tham dự Đại hội đảng cộng hòa toàn quốc ở Miami với tư cách là đại biểu của Rockefeller. Ngay sau sự kiện đó, Brooks chia tay Ted Bundy và trở về nhà gia đình cô ở California, thất vọng vì cho rằng Bundy non nớt và thiếu tham vọng. Bác sĩ tâm thần Dorothy Lewis xác định cuộc khủng hoảng này "có lẽ là thời điểm then chốt trong quá trình phát triển của anh ta". Đau khổ vì bị Brooks khước từ, Bundy đến Colorado và sau đó xa hơn về phía đông, thăm họ hàng ở Arkansas và Philadelphia rồi đăng ký một học kỳ tại Đại học Temple. Vào thời điểm này, khoảng đầu năm 1969, Rule tin rằng Bundy đã đến thăm văn phòng hồ sơ khai sinh ở Burlington và biết được chân tướng về nhân thân của mình.
Bundy trở lại Washington vào mùa thu năm 1969 và gặp Elizabeth Kloepfer (trong các tác phẩm về Bundy thường được gọi với những cái tên: Meg Anders, Beth Archer, Liz Kendall), một phụ nữ đã ly hôn đến từ Ogden, Utah, hiện đang làm thư ký tại Viện dược trường đại học Washington. Mối quan hệ đầy sóng gió của hai người vẫn tiếp tục tốt đẹp, ngay cả sau khi Bundy bị bắt giam lần đầu ở Utah vào năm 1976.
Giữa năm 1970, Bundy tập trung vào việc định hướng mục tiêu, và đăng ký học lại tại UW, lần này là chuyên ngành tâm lý học. Anh trở thành một sinh viên danh giá và được các giáo sư đánh giá cao. Năm 1971, Bundy vào làm việc tại Trung tâm đường dây nóng tự tử Seattle, ở đây anh gặp và trở thành đồng nghiệp của Ann Rule, cựu cảnh sát Seattle. Là một nhà văn tội phạm đầy tham vọng, Ann Rule sau này viết một trong những cuốn tiểu sử đáng chú ý nhất về Bundy, cuốn The Stranger Beside Me. Vào thời điểm đó, Rule không thấy có gì đáng lo ngại trong tính cách của Bundy và mô tả anh ta là một người "tốt bụng, ân cần và dễ đồng cảm". Tốt nghiệp UW năm 1972, Bundy tiếp tục tham gia chiến dịch tái tranh cử của Thống đốc Daniel J. Evans. Trong vai một sinh viên, Bundy đã đi theo cựu thống đốc Albert Rosellini, đối thủ của Evans, và ghi lại các bài phát biểu của ông để nhóm của Evans phân tích. Evans bổ nhiệm Bundy vào Ủy ban cố vấn phòng chống tội phạm Seattle. Sau khi Evans tái đắc cử, Bundy được thuê làm trợ lý cho Ross Davis, Chủ tịch đảng cộng hòa bang Washington. Davis nghĩ tốt về Bundy và mô tả anh ta là người "thông minh, năng nổ... và luôn đặt niềm tin vào chế độ". Đầu năm 1973, mặc dù có điểm thi đầu vào trường luật (LSAT) thấp, Bundy vẫn được nhận vào các viện luật của UPS và Đại học Utah nhờ thư giới thiệu của Evans, Davis và cả một số giáo sư tâm lý học tại UW.
Trong chuyến công du tới California cho Đảng cộng hòa vào mùa hè năm 1973, Bundy nối lại mối quan hệ của mình với Brooks. Cô đã rất ngạc nhiên vì những biến chuyển rõ rệt của anh, Bundy giờ đã là một người có chuyên môn, và dường như đang ở nốt thăng trong sự nghiệp pháp lý cũng như chính trị. Đồng thời, Bundy cũng đang hẹn hò với Kloepfer, và cả hai người phụ nữ đều không hề biết nhau. Mùa thu năm 1973, anh trúng tuyển Viện luật UPS, và tiếp tục theo đuổi Brooks, cô này cũng bay đến Seattle nhiều lần để được ở bên cạnh Bundy. Có thời điểm, hai người đã bàn tới chuyện hôn nhân, Bundy từng giới thiệu Brooks cho Davis với tư cách là hôn thê của mình.
Thế rồi tới tháng 1 năm 1974, Bundy đột ngột cắt đứt mọi liên lạc. Các cuộc gọi, thư từ của Brooks đều không có hồi âm. Cuối cùng cô cũng gọi điện được cho Bundy một tháng sau đó, yêu cầu anh giải thích lý do tại sao lại đơn phương chấm dứt mối quan hệ mà không một lời giải thích. Bằng một giọng đều đều, bình tĩnh, anh ta trả lời, "Stephanie, tôi không hiểu ý cô là gì" rồi cúp máy. Từ đó, Brooks không bao giờ nghe về Bundy nữa. Sau này, Bundy giải thích, "Tôi chỉ muốn chứng minh với bản thân mình là tôi có khả năng kết hôn với cô ấy". Khi nhìn lại những chuyện đã qua, Brooks kết luận rằng Bundy đã cố tình lên một kế hoạch cho toàn bộ quá trình tán tỉnh cô để rồi sau đó bất ngờ từ chối, hòng trả thù cho lần chia tay năm 1968.
Thời gian này, Bundy bắt đầu trốn học ở trường. Đến tháng 4 năm 1974, anh ta bỏ ngang hoàn toàn, đây cũng chính là thời điểm những phụ nữ trẻ bắt đầu biến mất ở Tây Bắc Thái Bình Dương.
Hai chuỗi án mạng đầu tiên
Washington, Oregon
Không có sự thống nhất trong việc xác định xem đâu là thời điểm cũng như địa điểm Ted Bundy bắt đầu giết phụ nữ. Anh kể những câu chuyện khác nhau cho những đối tượng khác nhau và từ chối tiết lộ chi tiết những tội ác đầu tiên của mình ngay cả khi đã thừa nhận về hàng chục vụ giết người qua các bức ảnh chi tiết, trước ngày bị hành hình. Với Nelson, anh nói rằng mình cố gắng thực hiện vụ bắt cóc đầu tiên vào năm 1969 ở Ocean City, New Jersey nhưng không giết bất kỳ ai cho tới khoảng năm 1971 ở Seattle. Nhưng lại kể với nhà tâm lý học Art Norman là đã giết hai phụ nữ tại thành phố Atlantic vào năm 1969, giữa chuyến thăm gia đình ở Philadelphia.
Bundy ám chỉ nhưng lại không chịu mô tả chi tiết với thanh tra Robert D. Keppel về một vụ hạ sát mà anh đã thực hiện vào năm 1972 ở Seattle, và một vụ khác vào năm 1973, liên quan tới một người xin đi nhờ xe gần vùng Tumwater. Cả Rule và Keppel đều tin Bundy có thể đã gây án khi mới chỉ là một thiếu niên. Dù liên tục phủ nhận, người ta có bằng chứng xác đáng cho thấy Bundy đã bắt cóc và giết chết cô bé 8 tuổi Ann Marie Burr ở Tacoma vào năm 1961 khi anh 14 tuổi. Các nạn nhân của Bundy được ghi nhận rõ ràng sớm nhất vào năm 1974 khi anh ta 27 tuổi. Lúc này, trong thời đại mà kỹ thuật lập hồ sơ DNA chưa tồn tại, bằng cách tự tìm tòi, Ted Bundy thành thục các kỹ năng cần thiết để chỉ bỏ lại hiện trường lượng bằng chứng pháp y ít nhất có thể.
Nửa đêm ngày 4 tháng 1 năm 1974 (khoảng thời gian Bundy chấm dứt mối quan hệ với Brooks), anh bước vào căn phòng dưới tầng hầm của cô gái 18 tuổi Karen Sparks (có tên Joni Lenz, Mary Adams, hoặc Terri Caldwell theo nhiều nguồn khác nhau), một sinh viên kiêm vũ công tại UW. Sau khi đánh Sparks bất tỉnh bằng một cái que kim loại lấy từ khung giường, anh dùng chính cái que này hoặc có thể là một chiếc mỏ vịt âm đạo bằng kim loại để tấn công tình dục Sparks, gây thương tích nội trầm trọng cho cô. Sparks may mắn sống sót và bất tỉnh 10 ngày nhưng đi kèm với đó là những vết thương theo cô suốt đời về cả thể chất lẫn tinh thần. Rạng sáng ngày 1 tháng 2 cùng năm, Bundy đột nhập vào phòng Lynda Ann Healy, cũng là một sinh viên UW, làm nhiệm vụ phát các bản tin thời tiết của đài phát thanh cho dân trượt tuyết. Anh đánh bất tỉnh Healy, mặc cho cô một chiếc quần jean xanh đi kèm áo blouse trắng và đôi giày ống rồi mang cô đi.
Nửa đầu năm 1974, cứ mỗi tháng lại có khoảng một nữ sinh đại học mất tích. Ngày 12 tháng 3 năm 1974, Donna Gail Manson, một sinh viên 19 tuổi của trường Cao đẳng bang Evergreen tại Olympia, khoảng 60 dặm (95 km) về phía tây nam Seattle, rời ký túc xá để tham dự một buổi hòa nhạc jazz trong khuôn viên trường nhưng rồi không bao giờ xuất hiện nữa. Buổi tối ngày 17 tháng 3 năm 1974, Susan Elaine Rancourt mất tích khi đang trên đường về phòng ký túc xá sau buổi gặp mặt cố vấn tại trường Cao đẳng tiểu bang Central Washington ở Ellensburg, khoảng 110 dặm (175 km) về phía đông-đông nam Seattle. Tiếp đó, hai nữ sinh ở Central Washington đã tới trình báo về hai cuộc gặp gỡ, một vào đêm Rancourts biến mất và một vào ba đêm trước đó, đều là với một người đàn ông phải đeo đai cố định ở cánh tay, nhờ họ giúp đem một đống sách lên chiếc xe Volkswagen Beetle màu nâu hoặc nâu vàng của anh ta. Ngày 6 tháng 5 năm 1974, Roberta Kathleen Parks rời ký túc xá trường Đại học tiểu bang Oregon ở Corvallis, 85 dặm (135 km) về phía nam Portland, để uống cà phê với bạn bè tại Memorial Union, và không bao giờ tới nơi. nhỏ|Georgann Hawkins Những vụ việc kể trên bắt đầu dấy lên mối lo ngại cho các thanh tra cảnh sát ở quận King và Seattle. Họ không thể tìm được bất kỳ bằng chứng hữu ích nào và những phụ nữ mất tích thì có rất ít điểm chung, ngoại trừ việc đều là những nữ sinh đại học da trắng, trẻ trung, trông hấp dẫn với mái tóc rẽ ngôi. Ngày 1 tháng 6 năm 1974, Brenda Carol Ball (22 tuổi) mất tích sau khi rời Flame Tavern ở Burien, gần Sân bay quốc tế Seattle-Tacoma. Cô được nhìn thấy lần cuối trong bãi đậu xe khi đang nói chuyện với một người đàn ông tóc nâu với cánh tay đeo đai cố định. Rạng sáng ngày 11 tháng 6, Georgann Hawkins của UW đã biến mất khi đang đi xuống một con hẻm sáng đèn giữa ký túc xá của bạn trai cô và nhà nữ sinh. Sáng hôm sau, ba thanh tra điều tra án mạng cùng lực lượng pháp y mò mẫm, lùng sục khắp con hẻm mà không tìm được gì. Sau khi giới chức công bố rộng rãi vụ mất tích của Hawkins, các nhân chứng đến trình báo về sự xuất hiện của một người đàn ông ngay đêm Hawkins mất tích, lảng vảng ở một con hẻm phía sau ký túc gần đó. Người này vật lộn mang chiếc cặp tài liệu khi phải chống nạng với một chân bó bột. Một phụ nữ cũng kể lại rằng gã đàn ông này đã nhờ cô đưa chiếc cặp vào xe cho anh, và đó là một chiếc Volkswagen Beetle màu nâu sáng. Sau này, Bundy thú nhận với Keppel rằng anh đã dụ Hawkins đến xe của mình trước khi đánh cô bất tỉnh bằng một chiếc xà beng mà anh giấu cạnh chiếc xe. Tiếp đó, anh còng tay Hawkins và chở cô tới Issaquah, giết chết cô gái bằng cách bóp cổ rồi dành cả đêm bên cái xác. Trước khi mất mạng, Hawkins tỉnh dậy và bắt đầu trò chuyện với Ted Bundy. Trong dòng hồi tưởng, Bundy kể rằng Hawkins đã nói với anh về bài kiểm tra tiếng Tây Ban Nha ngày mai của mình và Hawkins "nghĩ là tôi bắt cô ta để dạy kèm tiếng Tây Ban Nha cho bài kiểm tra chắc", anh còn nói thêm "không có gì vui lắm, nhưng những điều mà con người ta nói trong những trường hợp như vậy thật kỳ quặc". Bundy thừa nhận đã quay lại thăm xác Hawkins tới ba lần và cũng quay lại con hẻm gần UW ngay vào buổi sáng sau vụ giết người. Ở đó, giữa cuộc khám nghiệm hiện trường, Bundy thu nhặt bông tai và một chiếc giày của Hawkins, vứt chúng ở bãi đậu xe liền kề rồi tháo chạy mà không bị ai chứng kiến.
Trong khoảng thời gian này, Bundy đang làm việc tại Olympia với tư cách là trợ lý giám đốc của Ủy ban tư vấn phòng chống tội phạm Seattle (nơi anh đã viết một cuốn sách nhỏ dành cho phụ nữ về phòng chống hiếp dâm). Sau đó, Bundy chuyển tới Bộ dịch vụ khẩn cấp (DES), một cơ quan nhà nước cấp tiểu bang liên quan đến việc tìm kiếm những người phụ nữ mất tích. Tại DES, anh gặp và hẹn hò với Carole Ann Boone, một bà mẹ hai con đã ly hôn hai lần, người mà sáu năm sau đóng vai trò quan trọng trong những năm tháng cuối đời của Bundy. thế=A light tan rusty Volkswagen is positioned for display behind a chain made of handcuffs|nhỏ|Chiếc Volkswagen Beetle 1968 của Ted Bundy, là nơi anh thực hiện nhiều tội ác. Phương tiện được trưng bày tại Bảo tàng quốc gia về tội phạm và trừng phạt hiện đã không còn|276x276px
Thông tin về sáu vụ mất tích cũng như vụ hành hung dã man Karen Sparks xuất hiện nổi bật trên báo đài khắp hai bang Washington và Oregon. Nỗi sợ hãi lan ra toàn cộng đồng, phụ nữ trở nên ngần ngại khi xin đi nhờ xe người lạ hơn. Áp lực đè nặng lên các cơ quan thực thi pháp luật nhưng họ thì đang gặp trở ngại do thu thập được quá ít bằng chứng vật chất. Cảnh sát cũng không thể cung cấp lượng thông tin ít ỏi mà mình có cho báo giới vì sợ rằng sẽ ảnh hưởng tới quá trình điều tra. Có thêm những điểm tương đồng giữa các nạn nhân được ghi nhận, bao gồm: họ thường mất tích vào ban đêm ở gần các công trình đang xây dựng, trong vòng một tuần sau kỳ thi giữa hoặc cuối kỳ, tất cả đều mặc quần slack hoặc quần jean xanh, và ở hầu hết hiện trường, đều có sự xuất hiện của một người đàn ông với cánh tay bó bột hoặc phải đeo đai cố định, lái một chiếc Volkswagen Beetle màu nâu, có thể là nâu vàng.
Tại Tây Bắc Thái Bình Dương, đỉnh điểm của các vụ án mạng là vào ngày 14 tháng 7 năm 1974, khi hai cô gái bị bắt cóc giữa ban ngày tại một bãi biển đông đúc ở Công viên tiểu bang hồ Sammamish, Issaquah, vùng ngoại ô cách 20 dặm (30 km) về phía đông Seattle. Năm người phụ nữ đã mô tả về một gã đàn ông trẻ tuổi, khá hấp dẫn, mặc một bộ quần áo tennis màu trắng với cánh tay trái đeo đai cố định, có chất giọng nhỏ nhẹ, khả năng là người Canada hoặc Anh. Anh tự giới thiệu mình là "Ted", và nhờ những cô gái dỡ một chiếc thuyền buồm từ chiếc xe Volkswagen Beetle màu nâu vàng (hoặc màu đồng) của mình. Trong năm người, chỉ có một người đi cùng Bundy, khi không thấy chiếc thuyền buồm nào cả, cô lập tức bỏ chạy. Ba nhân chứng còn bổ sung, đã nhìn thấy Bundy tiếp cận Janice Anna Ott (23 tuổi) hiện đang là nhân viên phụ trách án tập sự tại Tòa án vị thành niên quận King, cũng bằng câu chuyện về chiếc thuyền buồm, và thấy cô rời bãi biển cùng với Bundy. Khoảng bốn giờ sau, Denise Marie Naslund, một cô gái 19 tuổi, đang theo học lập trình, rời buổi dã ngoại để đi vệ sinh và không bao giờ trở lại. Bundy nói với cả Stephen Michaud và William Hagmaier rằng Ott vẫn còn sống khi anh trở về cùng Naslund và anh đã bắt một người chứng kiến mình hạ sát người còn lại, nhưng sau đó lại phủ nhận điều kể trên trong một cuộc phỏng vấn với Lewis trước ngày hành quyết.
Cảnh sát quận King, khi xác định được nhân dạng của kẻ thủ ác cũng như chiếc xe của anh ta, đã cho dán cáo thị khắp khu vực Seattle. Một bản phác thảo tổng hợp cũng được xuất bản trên các tờ báo trong khu vực và phát trên các đài truyền hình địa phương. Elizabeth Kloepfer, Ann Rule, một nhân viên của DES và một giáo sư tâm lý học ở UW đều nhận ra hồ sơ nhân dạng, bản phác thảo và cả chiếc xe. Họ lập tức báo ngay cho nhà chức trách rằng Ted Bundy có thể là một nghi phạm. Thế nhưng những cảnh sát phải xử lý tới hơn 200 đơn chỉ điểm mỗi ngày thì lại không tin một sinh viên luật sạch sẽ, không có tiền án lại có thể là hung thủ.
Ngày 6 tháng 9 năm 1974, hai thợ săn gà rừng tình cờ vấp phải những mảnh hài cốt của Ott và Naslund cạnh một con đường phụ ở Issaquah, khoảng 2 dặm (3 km) về phía đông Công viên tiểu bang hồ Sammamish.
Vào ngày 18 tháng 10 năm 1974, Melissa Anne Smith, cô con gái 17 tuổi của cảnh sát trưởng vùng Midvale (ngoại ô thành phố Salt Lake), biến mất sau khi bước chân khỏi một tiệm bánh pizza. Chín ngày sau, thi thể khỏa thân của cô được phát hiện tại vùng núi lân cận. Kết quả khám nghiệm tử thi cho thấy có thể Smith vẫn còn sống thêm 7 ngày kể từ khi mất tích. Xuôi xuống phía nam 25 dặm (40 km), Laura Ann Aime bằng tuổi với Smith, mất tích ở Lehi sau khi rời khỏi một quán cà phê lúc nửa đêm ngày 31 tháng 10 năm 1974. Thi thể khỏa thân của cô nằm cách đó 9 dặm về phía đông bắc, tại hẻm núi American Fork, và được những người đi bộ đường dài tìm thấy trong ngày Lễ Tạ ơn. Cả hai nạn nhân đều bị đánh đập, hãm hiếp, kê gian và xiết cổ bằng tất nylon. Nhiều năm sau, Bundy miêu tả về các nghi lễ cho người chết của mình với Smith và Aime, bao gồm cả những việc như gội đầu và trang điểm cho xác chết.
Cuối giờ chiều ngày 8 tháng 11 năm 1974, tại Trung tâm mua sắm Fashion Place ở Murray, cách tiệm bánh ở Midvale nơi Melissa Smith được nhìn thấy lần cuối chưa đầy 1,6 km, Bundy tiếp cận Carol DaRonch (18 tuổi) hiện đang là một nhân viên trực tổng đài điện thoại. Anh tự giới thiệu mình là "sĩ quan Roseland" của Sở cảnh sát Murray rồi báo với DaRonch rằng có ai đó đã cố gắng đột nhập xe của cô, đồng thời yêu cầu cô đi theo mình về đồn cảnh sát để làm đơn khiếu nại. Khi DaRonch nhắc Bundy rằng dường như anh đang đi nhầm đường, Bundy ngay lập tức dừng xe lại ở lề đường và định còng tay cô. Trong khi cả hai đang vật lộn, Bundy sơ ý khóa nhầm chiếc còng vào chỉ đúng một cổ tay của DaRonch khiến DaRonch kịp mở cửa xe và chạy thoát. Tối muộn cùng ngày, Debra Jean Kent, học sinh 17 tuổi của trường Trung học Viewmont ở Bountiful, cách 20 dặm (30 km) về phía bắc Murray, biến mất sau khi rời khỏi một buổi nhạc kịch ở trường để đi đón em trai. Giáo viên kịch và một học sinh đã khai với cảnh sát rằng có một "người lạ" yêu cầu từng người ra bãi đậu xe để nhận dạng một chiếc xe hơi. Một học sinh khác cũng thấy gã người lạ này đi lại ở phía sau khán phòng, và ngay trước khi vở kịch kết thúc, giáo viên dạy kịch lại một lần nữa bắt gặp anh ta. Bên ngoài khán phòng, các điều tra viên tìm thấy một chiếc chìa khóa mở được còng tay trên cổ tay của Carol DaRonch.
Ngay trong tháng 11 năm 1974, Elizabeth Kloepfer gọi điện cho cảnh sát quận King lần thứ hai sau khi đọc được tin về những phụ nữ trẻ mất tích ở các thị trấn ngoại ô thành phố Salt Lake. Thanh tra Randy Hergesheimer của tổ trọng án đã tới lấy lời khai chi tiết từ cô. Thời điểm này, Ted Bundy thăng hạng đáng kể trong bảng xếp hạng nghi phạm của cảnh sát quận King, thế nhưng những nhân chứng đáng tin cậy nhất mà họ có ở hồ Sammamish lại không thể nhận dạng anh ta qua danh sách hình ảnh. Một tháng sau, Kloepfer gọi tiếp cho Văn phòng cảnh sát trưởng hạt Salt Lake và lặp lại những nghi ngờ của cô. Ted Bundy trở thành nghi phạm của các vụ án tại Salt Lake, nhưng vào thời điểm đó không có bằng chứng pháp y đáng tin cậy nào liên kết Bundy với các tội ác ở Utah. Tháng 1 năm 1975, Bundy trở lại Seattle sau kỳ thi cuối kỳ và dành một tuần với Kloepfer. Kloepfer không nói với Bundy về việc đã tố giác anh tới ba lần. Cô còn lên kế hoạch đến thăm anh ở Salt Lake vào tháng 8. trái|nhỏ|263x263px|Caryn Campbell: Nạn nhân thứ 14 của Bundy và là đối tượng trong bản cáo trạng giết người đầu tiên của anh ta Năm 1975, Bundy chuyển phần lớn địa bàn giết người về phía đông, từ Utah sang Colorado. Ngày 12 tháng 1 năm 1975, y tá chính quy 23 tuổi, Caryn Eileen Campbell, biến mất khi đang rảo bước trên một hành lang sáng đèn nằm giữa thang máy và phòng của mình tại quán trọ Wildwood (nay là nhà nghỉ Wildwood) ở thị trấn Snowmass, khoảng 400 dặm (640 km) về phía đông nam thành phố Salt Lake. Một tháng sau, thi thể khỏa thân của cô được tìm thấy bên rìa một con đường đất nằm ngoài một khu nghỉ mát. Campbell mất mạng vì bị đánh vào đầu bằng một hung khí cùn, để lại những vết lỏm đặc thù, tuyến tính trên hộp sọ, thân thể Campbell cũng có những vết cắt sâu do vũ khí sắc bén gây ra. Ngày 15 tháng 3 năm 1975, cách 100 dặm (160 km) về phía đông bắc Snowmass, Julie Cunningham (26 tuổi) đang là huấn luyện viên trượt tuyết tại Vail, mất tích khi đi bộ từ căn hộ của mình đến buổi hẹn ăn tối với một người bạn. Trong lời khai với các điều tra viên Colorado sau này, Bundy cho biết anh đi nạng tới tiếp cận Cunningham rồi nhờ cô mang giúp đôi giày trượt tuyết vào trong xe, nơi anh đánh gục và còng tay cô, sau đó tấn công và bóp cổ Cunningham tại một địa điểm thứ hai ở gần Rifle, cách Vail 90 dặm (140 km) về phía đông. Nhiều tuần sau, Bundy lái xe sáu tiếng từ Salt Lake quay lại đây để thăm hài cốt của nạn nhân.
Denise Lynn Oliverson (25 tuổi) mất tích ở Grand Junction, gần biên giới Utah – Colorado vào ngày 6 tháng 4 năm 1975 khi đang đạp xe về nhà cha mẹ, xe đạp và dép của cô được tìm thấy dưới một chiếc cầu cạn gần một cây cầu đường sắt. Ngày 6 tháng 5 năm 1975, Bundy dụ dỗ Lynette Dawn Culver (12 tuổi), đang học tại trường Trung học cơ sở Almeda ở Pocatello, Idaho, khoảng 160 dặm (255 km) về phía bắc thành phố Salt Lake. Anh dìm Culver xuống nước rồi tấn công tình dục cô bé trong phòng khách sạn của mình, trước khi phi tang xác Culver dưới một dòng sông ở phía bắc Pocatello (có thể là sông Snake). thế=An outdoor hallway. Hotel rooms are on the left and a balcony is on the right.|nhỏ|246x246px|Caryn Campbell biến mất khi đang đi trên hành lang sáng đèn này để về phòng khách sạn của mình Giữa tháng 5 năm 1975, ba đồng nghiệp của Bundy ở DES, bao gồm cả Carole Ann Boone, đã đến thăm và ở lại một tuần trong căn hộ của anh tại thành phố Salt Lake. Bundy dành nguyên tuần đầu tháng 6 với Kloepfer tại Seattle và cùng nhau bàn về chuyện kết hôn vào giáng sinh năm sau. Một lần nữa, Kloepfer không hề đả động đến những cuộc thảo luận giữa cô với cảnh sát quận King và Văn phòng cảnh sát trưởng Salt Lake. Bundy cũng không tiết lộ mối quan hệ của mình với Boone hay mối tình lãng mạn đang có với một sinh viên luật tại Utah, thường được anh gọi với cái tên Kim Andrews hoặc Sharon Auer trong một vài tường thuật khác nhau.
Ngày 28 tháng 6 năm 1975, Susan Curtis biến mất khỏi khuôn viên của Đại học Brigham Young ở Provo, cách 45 dặm (70 km) về phía nam thành phố Salt Lake. Vụ sát hại Curtis cũng chính là vụ án cuối cùng mà Bundy thú tội trong những cuốn băng ghi âm, trước khi bị hành hình trên ghế điện. Hài cốt của Wilcox, Kent, Cunningham, Oliverson, Culver và Curtis cho tới tận ngày nay vẫn không được tìm thấy.
Tháng 8 hoặc tháng 9 năm 1975, Bundy được rửa tội tại Giáo hội các Thánh hữu Ngày sau của Chúa Jesus Kitô, mặc dù không phải là một người tích cực tham gia những buổi lễ và bỏ qua hầu hết các điều giới hạn. Giáo hội này khai trừ Bundy khi anh bị kết án bắt cóc vào năm 1976. Hayward trông thấy Bundy đang lái xe thăm dò một khu dân cư. Khi phát hiện có cảnh sát tuần tra, Bundy lập tức phóng xe bỏ trốn với tốc độ cao. Viên cảnh sát kiểm tra chiếc Volkswagen ngay sau khi để ý thấy ghế trước của xe đã bị tháo ra và đặt ở hàng ghế sau. Anh ta tìm thấy một mặt nạ trượt tuyết, một mặt nạ làm từ quần tất, một thanh xà beng, một còng tay, vài túi đựng rác, một cuộn dây, một dùi đục đá, và một số món đồ khác được cho là đồ nghề ăn trộm. Bundy giải trình rằng mặt nạ là dành cho môn trượt tuyết, chiếc còng tay thì được anh nhặt trong thùng rác, và những thứ còn lại đều là những vật dụng gia đình thông thường. Tuy nhiên, thanh tra Jerry Thompson chợt nhớ lại một nghi phạm có đặc điểm tương tự và những mô tả về chiếc xe của hung thủ trong vụ bắt cóc DaRonch tháng 11 năm 1974, chúng đều trùng khớp với cái tên đầy đủ của Bundy mà Kloepfer nhắc tới trong cuộc điện thoại tháng 12 năm 1974. Khám căn hộ của Bundy, cảnh sát tìm được một cuốn sách chỉ dẫn du lịch ở các khu nghỉ dưỡng trượt tuyết tại Colorado, với nhà trọ Wildwood được đánh dấu, và một tập tài liệu quảng cáo vở kịch của trường Trung học Viewmont ở Bountiful, nơi mà Debra Kent mất tích. Họ vẫn không có đủ bằng chứng để tống giam ngay Ted Bundy, và anh được phóng thích nhờ bảo lãnh tại ngoại. Bundy kể lại rằng cảnh sát khi lục soát căn hộ, đã bỏ sót một sấp ảnh polaroid chụp thi thể các nạn nhân, và anh phải đem đốt tất cả số ảnh ngay sau khi được thả.
Cảnh sát thành phố Salt Lake đặt Bundy vào trạng thái theo dõi 24 giờ, còn Thompson và hai người đồng sự lập tức bay tới Seattle để thẩm vấn Kloepfer. Cô nói rằng vào khoảng một năm trước khi Bundy chuyển tới Utah, cô đã phát hiện những món đồ kỳ lạ, "không tài nào hiểu được", xuất hiện trong căn hộ của Bundy và cả nhà mình. Chúng gồm có một cái nạng, một túi thạch cao Paris mà Bundy thừa nhận đã ăn trộm được từ một cơ sở cung cấp vật phẩm y tế, và một con dao thái thịt, chưa bao giờ thấy dùng làm bếp. Ngoài ra còn có găng tay phẫu thuật, một con dao phương Đông bỏ trong hộp gỗ được Bundy cất trong ngăn đựng bao tay của mình, và một cái bao tải chứa đầy quần áo phụ nữ. Bundy liên tục lâm vào nợ nần, và Kloepfer nghi ngờ rằng mọi thứ có giá trị mà anh đang sở hữu đều là đồ ăn cắp. Khi Kloepfer chất vấn Bundy về một bộ TV, loa đài mới, anh cảnh báo cô, "Cô mà nói cho ai biết, tôi sẽ bẻ gãy cổ cô." Kloepf còn cho biết thêm, Bundy trở nên "rất khó chịu" mỗi khi cô cân nhắc việc cắt đi mái tóc, vốn để dài và rẽ ngôi. Thi thoảng cô chợt tỉnh dậy giữa đêm, thấy Bundy đang dùng đèn pin soi và mò mẫm cơ thể của mình dưới tấm ga trải giường. Bundy đem theo một thanh dụng cụ thay lốp, dán phần giữa tay cầm vào cốp xe của Kloepfer, một chiếc Volkswagen Beetle mà anh hay mượn, với mục đích để "tự vệ". Các thanh tra xác nhận rằng Bundy đã không ở cùng Kloepfer vào bất kỳ đêm nào mà các nạn nhân ở Tây Bắc Thái Bình Dương mất tích, cũng như vào ngày Ott và Naslund bị bắt cóc. Ngay sau đó, Kloepfer được thẩm vấn bởi thanh tra án mạng Seattle, Kathy McChesney, và được biết về Stephanie Brooks cũng như lời đính hôn ngắn ngủi của cô này với Bundy vào khoảng giáng sinh năm 1973. liên kết=Special:FilePath/Ted-bundy.jpg|trái|nhỏ|Ảnh cảnh sát chụp Bundy ở Utah năm 1975|247x247px Tháng 9 năm 1975, Bundy bán chiếc Volkswagen Beetle của mình cho một thiếu niên ở Midvale. Cảnh sát Utah tạm giữ chiếc xe, rồi để cho các kỹ thuật viên FBI làm nhiệm vụ bóc tách và khám nghiệm. Họ tìm thấy những sợi tóc trùng khớp với mẫu vật lấy từ thi thể của Caryn Campbell. Ngoài ra còn có một vài sợi tóc "giống hệt dưới kính hiển vi" với tóc của Melissa Smith và Carol DaRonch. Chuyên gia phòng thí nghiệm FBI Robert Neill kết luận rằng sự hiện diện của những sợi tóc trong một chiếc ô tô khớp với ba nạn nhân khác nhau và chưa từng gặp nhau quả là "một sự trùng hợp dị thường hiếm có".
Ngày 2 tháng 10 năm 1975, Bundy được yêu cầu đi xếp hàng chụp ảnh nghi phạm. DaRonch ngay lập tức xác định Bundy là "sĩ quan Roseland", và các nhân chứng ở Bountiful cũng nhận ra anh chính là gã người lạ ở khán phòng. Không có đủ bằng chứng để liên kết Bundy với Debra Kent (thi thể của cô vẫn chưa được tìm thấy, dù người ta thu nhặt được một mảnh xương, xác định là của Kent thông qua phân tích DNA). Nhưng trong vụ DaRonch lại có quá đủ bằng chứng để Bundy bị buộc tội bắt cóc nghiêm trọng và cố gắng hành hung. Cha mẹ Bundy phải trả 15.000 đô la Mỹ để bảo lãnh anh tại ngoại. Trong quá trình chờ xét xử, Bundy giành phần lớn thời gian sống tại nhà của Kloepfer ở Seatlle. Với những vụ giết người ở Tây Bắc Thái Bình Dương, cảnh sát Seattle không đủ bằng chứng buộc tội Bundy, nhưng vẫn luôn để mắt tới anh. "Cứ mỗi khi tôi và Ted bước khỏi hiên nhà để đi đâu đó," Kloepfer viết, "lại có rất nhiều xe cảnh sát nằm vùng sẵn sàng nổ máy, trông cứ như thể vạch xuất phát của đường đua Indy 500 vậy."
Tháng 11 năm 1975, ba điều tra viên chính, phụ trách các vụ án liên quan tới Ted Bundy, bao gồm Jerry Thompson từ Utah, Robert Keppel từ Washington và Michael Fisher từ Colorado, đã hội nhau tại Aspen, Colorado, để trao đổi thông tin với khoảng 30 thanh tra và công tố viên từ năm tiểu bang khác nhau. Những người tham gia cuộc họp thống nhất với nhau rằng Ted Bundy chính là tên sát nhân mà họ đang tìm kiếm, và đồng ý là sẽ cần thêm nhiều bằng chứng trước khi Bundy tiếp tục bị buộc tội cho bất cứ một vụ án mạng nào khác nữa.
Tháng 2 năm 1976, Bundy đứng trước vành móng ngựa vì vụ bắt cóc DaRonch. Theo lời khuyên của luật sư John O'Connell, Bundy từ bỏ quyền được xét xử theo chế độ bồi thẩm do dư luận đang rất bức xúc chung quanh vụ án. Kết thúc phiên tòa không bồi thẩm đoàn kéo dài bốn ngày, thẩm phán Stewart Hanson Jr. đã tuyên án Ted Bundy hai tội danh là bắt cóc và hành hung. Tới tháng 6 năm 1976, anh bị kết án từ 1 tới 15 năm tù tại nhà tù bang Utah. Tháng 10 cùng năm, người ta phát hiện Bundy đang trốn sau một bụi cây trong sân nhà tù, mang theo một bộ "đồ nghề vượt ngục" gồm có: bản đồ, lịch trình hàng không và thẻ an sinh xã hội. Kết quả, Bundy bị biệt giam vài tuần. Cuối tháng đó, chính quyền Colorado buộc tội Bundy giết Caryn Campbell. Sau một thời gian phản kháng, anh khước từ tố tụng dẫn độ và được chuyển thẳng đến Aspen vào tháng 1 năm 1977.
Đào tẩu
thế=A two-story brick building with a tall tower is partially obscured by trees.|nhỏ|263x263px|Tòa án hạt Pitkin, nơi Bundy nhảy từ tầng hai (cửa sổ thứ hai từ bên trái) để đào tẩu.
Ngày 7 tháng 6 năm 1977, Bundy được áp giải từ nhà tù hạt County ở Glenwood Springs tới toà án hạt Pitkin ở Aspen để chuẩn bị cho một buổi điều trần sơ bộ. Do quyết định làm luật sư bào chữa cho chính mình nên anh được thẩm phán miễn đeo xích và còng tay. Trong giờ giải lao, Bundy xin phép được vào thư viện của tòa để nghiên cứu tài liệu về vụ án. Khi vào điểm mù của người canh phòng sau một tủ sách, Bundy mở cửa sổ và nhảy xuống đất từ tầng hai khiến mắt cá chân bị chấn thương. Trút bỏ hết lớp quần áo bên ngoài, Bundy tháo chạy khỏi Aspen giữa lúc các rào phong tỏa bắt đầu được dựng lên ở vùng ngoại ô. Tới gần đỉnh núi Aspen ở phía nam, anh đột nhập vào một căn chòi săn bắn rồi ăn cắp thức ăn, quần áo và một khẩu súng trường. Ngày hôm sau, anh rời căn chòi và tiếp tục đi theo hướng nam để đến thị trấn Crested Butte, nhưng bị lạc trong rừng. Trong suốt hai ngày, Bundy lang thang vô phương hướng trên núi mà không phát hiện ra hai con đường mòn dẫn xuống địa điểm định đến. Ngày 10 tháng 6 năm 1977, anh đột nhập vào một ngôi nhà di động tại hồ Maroon, cách 10 dặm (16 km) về phía nam Aspen, lấy thức ăn và một áo parka trượt tuyết, nhưng thay vì tiếp tục đi theo hướng cũ, Bundy lại đi ngược lên hướng bắc về phía Aspen, cố gắng tránh rào phong tỏa và các nhóm truy nã dọc đường đi. Ba ngày sau, Bundy đánh cắp được một chiếc xe hơi ở rìa sân gôn Aspen. Lạnh cóng, thiếu ngủ và liên tục bị vết thương mắt cá chân hành hạ, anh đành phải quay trở lại Aspen, nơi hai cảnh sát nhận ra chiếc xe của Bundy đang len lỏi giữa làn đường và tóm được anh. Bundy đã trốn chạy suốt sáu ngày cho tới khi bị bắt lại. Trong chiếc xe hơi, người ta tìm được một tấm bản đồ vùng núi quanh Aspen, đã từng được các công tố viên sử dụng để chứng minh vị trí thi thể của Caryn Campbell (Bundy có quyền tiếp cận vật chứng vì đang là luật sư cho chính bản thân), điều này cho thấy vụ đào tẩu của Bundy không đơn thuần là một hành động bộc phát mà đã được tính toán từ trước.
thế=Black-and-white photo of a man with curly hair|trái|nhỏ|Bức ảnh năm 1977, được chụp ngay khi Bundy bị bắt lại trong lần vượt ngục đầu tiên, được lấy từ danh sách Mười kẻ đào tẩu bị FBI truy nã gắt gao nhất|223x223px
Quay lại nhà tù ở Glenwood Springs, Bundy đã phớt lờ lời khuyên của bạn bè và các cố vấn pháp luật là nên ở yên đó. Vụ kiện chống lại Bundy vốn đã rất yếu, giờ lại càng trở nên yếu hơn khi các kiến nghị tiền xét xử liên tục đem đến kết quả có lợi cho anh, và những bằng chứng quan trọng đều được phán quyết là không được chấp nhận. "Một bị cáo có lý trí hơn sẽ nhận ra rằng mình đang đứng trước cơ hội lớn để được trắng án, và thất bại trong những cáo buộc giết người ở Colorado có thể làm nản lòng các công tố viên khác... chỉ cần theo vụ của DaRonch một năm rưỡi, nếu Ted đủ kiên nhẫn, anh ta có thể đã là người tự do." Thay vào đó, Bundy lại lên một kế hoạch trốn thoát mới. Bundy mua một sơ đồ tầng chi tiết của nhà tù cùng một lưỡi cưa sắt từ các tù nhân, và thủ sẳn 500 đô la Mỹ tiền mặt, mà sau này anh cho biết, chúng được chuyển lậu trong vòng sáu tháng, bởi các vị khách thăm tù, đặc biệt là Carole Ann Boone. Vào buổi tối, trong khi các tù nhân khác đang tắm, Bundy cưa một cái lỗ rộng khoảng một foot vuông (0,093 m²) giữa các thanh cốt thép trên trần phòng giam của mình, và sau khi đã giảm 35 pound (16 kg), Bundy có thể chui lọt qua lỗ để vào không gian trống phía trên. Trong những tuần sau đó, Bundy thực hiện một loạt các cuộc dò thám ngắn để khám phá đường đi. Có nhiều báo cáo từ một đặc vụ tố giác về những chuyển động lạ trên trần nhà vào ban đêm nhưng rốt cuộc không có ai tiến hành điều tra.
Cuối năm 1977, phiên tòa sắp diễn ra của Bundy trở thành một đề tài gây tranh cãi lớn ở thị trấn nhỏ Aspen, và Bundy đã đệ đơn đề nghị thay đổi địa điểm tới Denver. Ngày 23 tháng 12, thẩm phán Aspen đã chấp nhận yêu cầu chuyển địa điểm xét xử nhưng là tới Colorado Springs, nơi các bồi thẩm đoàn có truyền thống thù địch với nghi phạm giết người. Đêm ngày 30 tháng 12 năm 1977, khi hầu hết các nhân viên nhà tù đều đang nghỉ lễ giáng sinh còn các tù nhân phạm tội phi bạo lực thì được cho phép về với gia đình, Bundy dùng chăn trùm đống sách và hồ sơ trên giường để làm hình nộm, giả như mình đang ngủ, và leo lên khoảng không phía trên. Anh đột nhập từ trần nhà vào phòng của quản giáo, người đang đi chơi tối với vợ, và thay thường phục từ tủ quần áo của ông ta rồi đi ra ngoài bằng cửa trước.
Sau khi đánh cắp một chiếc xe hơi, Bundy phóng xe rời khỏi Glenwood Springs theo hướng đông, nhưng chiếc xe nhanh chóng bị hỏng ở vùng núi trên xa lộ liên tiểu bang 70. Một người qua đường đã cho anh đi nhờ tới Vail, 60 dặm (97 km) về phía đông. Từ đây, Bundy bắt xe buýt đến Dever, nơi anh có thể lên chuyến bay buổi sáng tới Chicago. Ở Glenwood Springs, các giám ngục của nhà tù đã không phát hiện Bundy vượt ngục cho đến trưa ngày 31 tháng 12, tức hơn 17 giờ sau khi sự việc xảy ra. Lúc này, Bundy đã ở Chicago.
Florida
thế=Bundy casually leans on the wall while dressed in prison garb.|nhỏ|278x278px|Bundy ở Tallahassee với ba bản cáo trạng giết người, tháng 7 năm 1978 Từ Chicago, Bundy đi tàu hỏa đến Ann Arbor, Michigan và có mặt trong một quán rượu địa phương vào ngày 2 tháng 1 năm 1978. Năm ngày sau, anh lấy trộm một chiếc xe hơi và lái tới Atlanta, rồi bắt một chuyến xe buýt đến Tallahassee, Florida vào sáng ngày 8 tháng 1 năm 1978. Bundy lấy tên giả là Chiris Hagen và thuê một căn phòng tại nhà trọ Holiday, gần khuôn viên trường Đại học bang Florida (FSU). Sau này, Bundy kể rằng anh đã quyết tâm tìm một công việc hợp pháp, ngừng phạm tội vì biết mình vẫn có thể được tự do và không bị phát hiện ở Florida, miễn là đừng thu hút sự chú ý của cảnh sát. Thế nhưng Bundy đành phải hủy bỏ lá đơn xin việc duy nhất tại một công trường khi bị yêu cầu xuất trình giấy tờ tùy thân. Vậy là anh lại ngựa quen đường cũ, sống qua ngày bằng cách ăn cắp vặt và trộm thẻ tín dụng trong ví phụ nữ để trong các xe đẩy siêu thị.
Một tuần sau khi đến Tallahassee, rạng sáng ngày 15 tháng 1 năm 1978, Bundy đột nhập vào nhà nữ sinh Chi Omega của FSU thông qua một cánh cửa sau hỏng khóa. Vào lúc 2 giờ 45 phút sáng, Bundy dùng một mẫu củi sồi, đánh vào đầu Margaret Bowman (21 tuổi) khi cô đang say giấc, rồi thắt cổ Bowman bằng một cái tất nylon. Tiếp đó, anh lần vào phòng ngủ của Lisa Levy (20 tuổi), đánh bất tỉnh, bóp cổ, làm rách một bên núm vú, cắn sâu vào mông trái, và tấn công tình dục Levy bằng một chai xịt tóc. Tới căn phòng bên cạnh, anh ta hành hung cả Kathy Kleiner lẫn Karen Chandler, khiến Kleiner rách vai và gãy xương hàm còn Chandler thì bị sang chấn, gãy hàm, mất răng và dập nát ngón tay. Cả hai người may mắn sống sót, Kleiner cho là họ được cứu sống nhờ một ánh đèn pha xe hơi rọi vào phòng, làm tên sát nhân sợ hãi. Các thanh tra ở Tallahassee sau đó đã xác định bốn cuộc tấn công diễn ra với tổng thời gian chưa đầy 15 phút, trong tầm thính giác của khoảng 30 nhân chứng, nhưng tất cả đều không nghe thấy gì. Rời khỏi căn nhà, Bundy tiếp tục đột nhập vào một căn hộ dưới tầng hầm cách đó 8 dãy nhà và ra tay với Cheryl Thomas, sinh viên FSU, khiến Thomas trật khớp vai, vỡ xương hàm và xương sọ ở năm vị trí. Cheryl Thomas phải từ bỏ sự nghiệp vũ công vì bị điếc vĩnh viễn và mất khả năng thăng bằng. Trên giường của Thomas, cảnh sát tìm thấy một vệt tinh dịch và một mặt nạ làm từ quần tất, trong đó có hai sợi tóc "giống với tóc của Bundy về chủng loại và đặc tính." thế=Black-and-white photo of two smiling young women. Levy, on the left, has light hair parted in the middle and Bowman, on the right, has longer dark hair parted to the side.|trái|nhỏ|259x259px|Lisa Levy và Margaret Bowman, hai nạn nhân của Bundy Ngày 8 tháng 2 năm 1978, Bundy vượt 150 dặm (240 km) đến Jacksonville ở phía đông, trên chiếc xe tải ăn trộm từ FSU. Trong một bãi đậu xe, Bundy tiếp cận Leslie Parmenter (14 tuổi) con gái của Giám đốc sở cảnh sát Jacksonville, và tự nhận mình là "Richard Burton từ sở cứu hỏa", nhưng rồi phải rút lui khi anh trai của Parmenter đến và buông lời thách thức. Chiều hôm ấy, anh lùi 60 dặm (97 km) về phía tây, tới Lake City. Tại trường Trung học cơ sở Lake City vào sáng hôm sau, Kimberly Dianne Leach (12 tuổi) được một giáo viên triệu tập đến phòng hành chính để lấy lại chiếc ví bỏ quên, và rồi không bao giờ quay về. Bảy tuần trôi qua, sau một cuộc tìm kiếm quy mô, người ta tìm thấy phần xác khô của Leach trong một chuồng lợn nái gần Công viên tiểu bang sông Suwannee, 35 dặm (56 km) về phía bắc Lake City. Với bộ đồ lót gần thi thể, cô bé dường như đã bị cưỡng hiếp rồi bị cắt cổ tàn bạo bằng một con dao.
Ngày 12 tháng 2 năm 1978, Bundy không còn đủ tiền thuê nhà và cảm thấy cảnh sát đang ở rất gần mình. Anh lại ăn cắp một chiếc xe hơi và chạy khỏi Tallahassee, băng qua Florida Panhandle ở hướng tây. Ba ngày sau, vào khoảng 1 giờ sáng, viên cảnh sát Pensacola David Lee chặn đường Bundy ở gần ranh giới bang Alabama, sau khi kiểm tra và phát hiện chiếc Volkswagen Beetle của anh là xe ăn cắp. Ngay khi nghe thông báo mình bị bắt, Bundy đá vào chân Lee và vùng chạy thoát. Lee bắn hai phát súng cảnh cáo rồi đuổi theo và xử lý Bundy. Cả hai vật lộn, giành nhau khẩu súng trước khi David Lee khuất phục và khống chế thành công Bundy. Trên chiếc xe bị đánh cắp, cảnh sát tìm thấy bộ ba thẻ ID của các nữ sinh FSU, 21 thẻ tín dụng và một chiếc TV mà Bundy ăn trộm được. Ngoài ra còn có một kính thời trang tối màu và một quần slack kẻ sọc, sau này được xác định là những thứ mà Bundy dùng để cải trang thành "Richard Burton từ sở cứu hỏa" khi còn ở Jacksonville. Áp giải gã nghi phạm của mình vào phòng giam, David Lee không biết rằng anh vừa tóm được một trong mười kẻ đào tẩu bị FBI truy nã gắt gao nhất, Lee nghe Bundy nói với mình, "Thà anh giết tôi đi cho rồi."
Các phiên tòa ở Florida, kết hôn
thế=A smiling Bundy holds a sheaf of papers and enters a vehicle. He is escorted by two police officers.|nhỏ|280x280px|Khởi động phiên điều trần sơ bộ, Miami, 1979 Vào tháng 6 năm 1979, sau khi chuyển địa điểm xét xử tới Miami, Bundy phải hầu tòa vì các vụ giết người và hành hung ở Chi Omega. Phiên tòa có sự tham gia của 250 phóng viên từ khắp năm châu và là phiên tòa đầu tiên được truyền hình toàn quốc tại Hoa Kỳ. Dù được tòa án chỉ định năm luật sư, Bundy vẫn nhiều lần tự mình bào chữa cho bản thân. Ngay từ khi bắt đầu, Bundy đã "phá hoại toàn bộ nỗ lực bào chữa vì sự bất mãn, ngờ vực và ảo tưởng hão huyền", Nelson viết. "Ted phải đối mặt với cáo buộc giết người, có thể bị kết án tử hình, và điều quan trọng nhất với anh ta là được tự mình gánh vác tất cả." Theo Mike Minerva, một luật sư công ở Tallahasee và cũng là thành viên của nhóm bào chữa, một thỏa thuận nhận tội trước phiên xét xử đã được thương lượng, trong đó Bundy sẽ thú tội giết Levy, Bowman và Leach để đổi lấy bản án 75 năm tù. Các công tố viên có thể chấp nhận, bởi vì "viễn cảnh thua phiên tòa là rất dễ xảy ra." Về phần Bundy, anh không chỉ xem giao kèo trên là cách để né án tử hình mà còn là một "nước đi chiến thuật". Trước mắt Bundy sẽ thú tội rồi chờ một vài năm để bằng chứng không còn hoặc thất lạc và để nhân chứng qua đời hoặc thay đổi, rút lại lời khai của họ. Tới khi vụ kiện chống lại Bundy đi vào ngõ cụt, anh có thể nộp đơn đề nghị sau kết án để gác lại lời biện hộ và đảm bảo được tha bổng. Tuy nhiên, Bundy từ chối thỏa thuận vào phút cuối. "Nó khiến anh ta nhận ra rằng mình sẽ phải đứng trước thiên hạ và thú nhận có tội", Minerva nói. "Anh ta không thể làm được điều đó." thế=Souviron is seen in the courtroom. Several enlargements of dental x-rays have been pinned up, and he is holding one in his hand.|trái|nhỏ|226x226px|Bác sĩ nha khoa Richard Souviron giải thích bằng chứng vết cắn tại phiên tòa xét xử các vụ án ở Chi Omega Tại phiên tòa, các nhân chứng có lời khai quan trọng đều đến từ hội nữ sinh Chi Omega, đó là Connie Hastings, người đã thấy Bundy ở gần căn nhà tối hôm xảy ra vụ án và Nita Nearry, người chứng kiến Bundy bước ra với hung khí là một cây gỗ sồi. Trong số bằng chứng buộc tội có cả dấu răng của hung thủ trên mông trái của Lisa Levy đã được các bác sĩ nha khoa pháp y Richard Souviron và Lowell Levine so sánh với hàm răng của Bundy. Vào ngày 24 tháng 7 năm 1979, bồi thẩm đoàn đưa ra phán quyết sau bảy giờ cân nhắc. Bundy lãnh hai tội danh giết người (trong vụ Bowman và Levy), ba tội danh cố ý giết người cấp độ một (trong vụ Kleiner, Chandler và Thomas) cùng với hai tội danh trộm cắp tài sản. Thẩm phán Edward Cowart tuyên Ted Bundy án tử hình vì tội giết người.
Sáu tháng sau, phiên tòa thứ hai diễn ra ở Orlando, xét xử vụ bắt cóc và giết hại Kimberly Leach. Bundy một lần nữa bị kết tội sau chưa đầy tám giờ thảo luận, chủ yếu do lời khai của một nhân chứng đã nhìn thấy anh dẫn Leach từ sân trường đến chiếc xe tải ăn trộm. Một trong những vật chứng quan trọng là sợi vải quần áo bị lỗi gia công được tìm thấy trên xe tải và trên người Leach, trùng khớp với sợi vải trên chiếc áo khoác mà Bundy mặc khi vừa bị bắt.
Giữa giai đoạn tuyên án, Bundy lợi dụng một điều luật ít người biết của bang Floria, quy định rằng nếu tuyên bố kết hôn trước tòa với sự có mặt của thẩm phán thì sẽ được công nhận là hôn nhân hợp pháp. Khi đang thẩm vấn cựu đồng nghiệp ở DES, Carole Ann Boone, người đã chuyển đến Florida để được gần Bundy, đã làm nhân chứng cho phía bị can trong hai phiên tòa trước, và lần này lại tiếp tục làm nhân chứng hạnh kiểm cho Bundy, anh hỏi cưới Boone. Cô này chấp nhận, và Bundy tuyên bố trước tòa rằng họ là vợ chồng hợp pháp.
Ngày 10 tháng 2 năm 1980, Bundy bị tuyên án tử hình bằng ghế điện lần thứ ba. Khi toà phán quyết, anh ta đã đứng dậy và hét lên, "Hãy nói với bồi thẩm đoàn rằng họ đã sai!" Đây cũng chính là bản án được thực thi 9 năm sau.
Tháng 10 năm 1981, Boone sinh một đứa con gái tên là Rose mà Bundy được cho là cha. Dù rằng hệ thống nhà tù ở Florida không có chế độ "thăm viếng vợ chồng", các tù nhân đã từng phải gom tiền hối lộ cai ngục để có thời gian thân mật riêng tư với người phụ nữ của mình.
Tử tù, thú tội và cái chết
Ngay khi bắt đầu kháng cáo sau phiên tòa xét xử vụ Kimberly Leach, Bundy có một loạt cuộc phỏng vấn với Stephen Michaud và Hugh Aynesworth. Chủ yếu anh nói ở ngôi thứ ba để tránh "dấu hiệu nhận tội", lần đầu tiên Bundy tiết lộ chi tiết về tội ác và những thứ thực sự diễn ra trong đầu anh.
Bundy bắt đầu kể về sự nghiệp đạo chích của mình, xác nhận mối nghi ngờ của Kloepfer rằng hầu hết mọi thứ anh sở hữu đều là đồ ăn cắp. "Đó là những phần thưởng lớn cho tôi," Bundy nói, "tôi sở hữu bất cứ cái gì tôi đánh cắp. Tôi thích một thứ gì đó... mà tôi chỉ cần muốn là có thể ra ngoài và cứ việc lấy đi." Quyền chiếm hữu cũng là một động cơ quan trọng cho hành vi hiếp dâm và giết người của Bundy. Tấn công tình dục như Bundy nói, thỏa mãn nhu cầu "chiếm hữu hoàn toàn" nạn nhân của anh. Ban đầu, anh giết con tin của mình chỉ bởi "đó là một việc tất yếu... để loại bỏ nguy cơ bị bắt", nhưng sau đó, giết người trở thành một phần của "cuộc phiêu lưu". "Giới hạn của chiếm hữu, trên thực tế, là lấy đi mạng sống", anh nói. "Và sau nữa... là chiếm hữu thi hài."
Bundy cũng tâm sự với đặc vụ William Hagmaier thuộc Đơn vị phân tích hành vi FBI. Hagmaier bị ấn tượng vì "sự say đắm, gần như thỏa mãn thần bí" mà Bundy có được khi giết người. "Anh ta nói rằng sau một thời gian thì giết người không còn đơn thuần là tội ác dâm dục hay bạo lực", Hagmaier thuật lại. "Nó trở thành quyền chiếm hữu. Họ là một phần của bạn... n