✨HMAS Canberra (D33)
HMAS Canberra (I33/D33), tên được đặt theo thủ đô Canberra của Australia, là một tàu tuần dương hạng nặng thuộc lớp County, được chế tạo tại Anh Quốc thuộc lớp phụ Kent, để hoạt động cùng Hải quân Hoàng gia Australia. Được chế tạo tại Scotland vào giữa những năm 1920, con tàu được đưa vào hoạt động năm 1928, và trải qua giai đoạn đầu của quãng đời phục vụ chủ yếu tại vùng biển Australia, thỉnh thoảng được bố trí hoạt động tại China Station.
Vào lúc bắt đầu Chiến tranh Thế giới thứ hai, Canberra thoạt tiên đảm trách các vai trò tuần tra và hộ tống các đoàn tàu vận tải. Vào tháng 7 năm 1940, nó được giao nhiệm vụ hộ tống các đoàn tàu vận tải di chuyển giữa Western Australia, Sri Lanka và Nam Phi; và trong giai đoạn này, vốn kết thúc vào giữa năm 1941, Canberra tham gia nhiều cuộc săn đuổi các tàu chiến cướp tàu buôn Đức. Chiếc tàu tuần dương tiếp nối các hoạt động tại vùng biển Australia, nhưng khi Đế quốc Nhật Bản tham gia chiến tranh, nó nhanh chóng được tái bố trí vào các nhiệm vụ hộ tống vận tải chung quanh khu vực New Guinea, xen kẻ với các hoạt động tại vùng biển Malay và Nhật Bản. Sau đó Canberra gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm 44, và đã tham gia chiến dịch Guadalcanal và cuộc đổ bộ lên Tulagi.
Ngày 9 tháng 8 năm 1942, Canberra đối đầu với lực lượng Nhật Bản trong trận chiến đảo Savo, bị bắn trúng ngay vào lúc mở đầu trận đánh và bị hư hại nặng. Không thể di chuyển, chiếc tàu tuần dương bị bỏ lại và bị đánh đắm trong eo biển Đáy sắt bởi hai tàu khu trục Mỹ. Một chiếc tàu tuần dương của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp Baltimore sau đó đã được đặt cái tên Canberra để vinh danh chiếc tàu tuần dương Australia anh dũng, và đó là chiếc tàu chiến Mỹ duy nhất trong lịch sử được đặt tên theo tên một thủ đô của nước ngoài.
Thiết kế và chế tạo
Chế tạo
Vào năm 1924, Chính phủ Australia đặt mua hai tàu tuần dương thuộc lớp Kent để thay thế cho các tàu tuần dương hạng nhẹ đã cũ HMAS Sydney và HMAS Melbourne. Những chiếc này được đặt tên HMAS Australia và HMAS Canberra, cả hai đều được chế tạo bởi hãng John Brown & Company tại xưởng đóng tàu của họ ở Clydebank, Scotland. Với ký hiệu của ụ tàu là 513, Canberra được hạ thủy vào ngày 31 tháng 5 năm 1927 bởi Công chúa Mary. Nó hoàn tất vào ngày 10 tháng 7 năm 1928, một ngày sau khi được đưa vào hoạt động cùng Hải quân Hoàng gia Australia. Nó có trọng lượng rẽ nước 9.850 tấn lúc rỗng, và 10.000 tấn tiêu chuẩn. Những con tàu này được cho chuyển hướng đi đến mũi Hảo Vọng sau khi có những lo ngại rằng Italy sẽ tham chiến, và đi đến Scotland vào ngày 14 tháng 5. Vào đầu tháng 3, Canberra đụng độ với hai tàu buôn; một tàu chở dầu đang tiếp tế cho một chiếc có thể là tàu cướp tàu buôn, cả hai đã tách ra và tháo chạy sau khi nhận được lệnh phải dừng lại. Canberra đuổi theo chiếc tàu cướp tàu buôn, khai hỏa ở tầm bắn tối đa nhằm tránh bị bắn trả, trong khi chiếc thủy phi cơ Walrus tìm cách ngăn chặn chiếc tàu chở dầu bằng cách thả nhiều quả bom. Cả hai con tàu đối phương, tàu tiếp liệu cho tàu cướp tàu buôn Coburg và chiếc tàu chở dầu Na Uy bị chiếm giữ Ketty Brovig, đã tự đánh đắm sau khi chịu đựng đợt tấn công đầu tiên từ những kẻ săn đuổi, nhưng họ vẫn tiếp tục nổ súng: chiếc Walrus sử dụng hết những quả bom mang theo, trong khi Canberra bắn hết 215 quả đạn pháo, hầu hết đều bị trượt.
Canberra được bố trí trở về Australia vào tháng 7, hoạt động trong khu vực chung quanh bờ biển phía Tây và phía Nam. Đây có thể là một trong nhiều vụ báo động nhầm diễn ra trong suốt đêm đó; tuy nhiên, một trong những chiếc tàu ngầm bỏ túi đã tìm cách phóng ngư lôi vào mục tiêu, nhưng chúng đã không phóng ra được do những hư hại phải chịu vào lúc xâm nhập vào bên trong cảng.
Tổn thất
Xế chiều ngày 8 tháng 8, một lực lượng đặc nhiệm Nhật Bản do Phó Đô đốc Gunichi Mikawa chỉ huy, bao gồm năm tàu tuần dương và một tàu khu trục, bắt đầu tiếp cận phía Nam đảo Savo, với ý định tấn công lực lượng hải quân hỗ trợ cho cuộc đổ bộ lên Guadalcanal và tại Tulagi. Đề phòng một cuộc tấn công của lực lượng tàu nổi đối phương sẽ tiếp nối nhiều cuộc không kích của các máy bay Nhật Bản đặt căn cứ từ đất liền, Chuẩn Đô đốc Anh Victor Crutchley, tư lệnh lực lượng hải quân của Đồng Minh, đã cho tách lực lượng của mình ra làm hai vòng quanh đảo Savo: Crutchley bên trên chiếc HMAS Australia dẫn trước Canberra, USS Chicago và hai tàu khu trục tuần tra vùng biển phía Nam. Canberra đã né tránh được loạt ngư lôi Nhật Bản đầu tiên vào đầu trận đánh, nhưng nó bị trúng hỏa lực hải pháo từ các tàu tuần dương Nhật Bản. Ít nhất một quả ngư lôi được ghi nhận đã đánh trúng trong cuộc tấn công của Nhật Bản, cho dù không có quả nào trong số 19 ngư lôi nhắm vào Canberra từ các tàu tuần dương Nhật được ghi nhận trúng mục tiêu. nhỏ|phải|Các tàu khu trục Mỹ đang cứu vớt những thành viên của HMAS Canberra còn sống sót sau [[Trận chiến đảo Savo. Trong làn khói bốc cuồn cuộn, USS Patterson đang tiếp cận Canberra từ phía đuôi.]] Lúc 03 giờ 30 phút, USS Patterson tiến đến gần để truyền đạt mệnh lệnh của Chuẩn Đô đốc Turner: Nếu Canberra không thể di chuyển vào lúc 06 giờ 30 phút, nó sẽ phải bị bỏ lại và bị đánh chìm.
Động cơ của Canberra đã không thể sửa chữa, và đến 08 giờ 00 phút, chiếc tàu tuần dương bị đánh ngư lôi từ tàu khu trục Mỹ USS Ellet và chìm ở tọa độ .
Diễn biến tiếp theo
Đại tá Hải quân Howard Bode, thuyền trưởng trên chiếc USS Chicago, bị chính thức khiển trách do hành động trong trận đánh, đặc biệt là đã không dẫn đầu đội hình sau khi HMAS Australia được tách ra, và đã không cảnh báo cho lực lượng phía Bắc về việc lực lượng Nhật Bản đang đến gần. Con tàu được hạ thủy vào ngày 19 tháng 4 năm 1943 bởi Lady Alice C. Dixon, phu nhân của Đại sứ Australia tại Hoa Kỳ Sir Owen Dixon; và là chiếc tàu chiến Hoa Kỳ duy nhất được đặt tên theo thủ đô của một nước ngoài. Cho dù Vua George VI đã thông báo rằng con tàu sẽ được đổi tên thành Canberra, việc trùng lặp tên với một tàu chiến của Hải quân Mỹ mâu thuẫn với chính sách của Hải quân Australia. Nhiều thủy thủ Australia được bố trí trên chiếc HMAS Shropshire vào đầu năm 1943 là những người còn sống sót của chiếc Canberra.
Tái khám phá
Xác tàu đắm của Canberra được khám phá và khảo sát vào tháng 7 và tháng 8 năm 1992, hầu như đúng năm mươi năm kể từ khi nó bị đánh đắm. Nó nằm ở tư thế thẳng đứng dưới đáy biển, ở độ sâu khoảng 760 m (2.500 ft), với những dấu hiệu rõ ràng của đạn pháo bắn trúng và hư hại do hỏa hoạn ở giữa tàu. ngay cạnh National Carillon. Nó bao gồm một mỏ neo và một đoạn dây xích, cùng loại với cái được sử dụng trên Canberra, và có hai tấm biển nêu mục đích của đài tưởng niệm và chi tiết về con tàu. Đài tưởng niệm được xây dựng bởi chi nhánh Lãnh thổ Thủ đô Úc của Hiệp hội Lịch sử Hải quân, có sự đóng góp của các thành viên Hiệp hội Cựu quân nhân HMAS Canberra và Canberra-Shropshire, và được khánh thành vào ngày 9 tháng 8 năm 1981 bởi Đô đốc Sir Anthony Synnot. Diễn văn được đọc trong buổi lễ khánh thành đài tưởng niệm là của Đô đốc Sir Victor Smith, người từng phục vụ trên HMAS Canberra vào lúc nó bị mất.
Mỗi năm vào ngày thứ bảy gần nhất so với ngày 9 tháng 8, một hoạt động tưởng nhớ được tổ chức tại đài tưởng niệm, có sự tham dự của Tư lệnh Hải quân Australia, các tùy viên quân sự Hoa Kỳ và Anh Quốc, và các thành viên của căn cứ hải quân HMAS Harman. Một bữa tiệc được phục vụ bởi nhân sự của tàu hộ tống HMAS Canberra (FFG 02) cho đến khi con tàu này ngừng hoạt động; và sau đó được phục vụ bởi học viên sĩ quan hải quân thuộc đơn vị TS Canberra.