✨Liên minh các Vương hầu

Liên minh các Vương hầu

phải|[[Phúng dụ Friedrich Đại đế với tư cách người sáng lập "Liên minh các Vương hầu". Tranh sơn dầu trên vải bạt của Bernhard Rode (1725 – 1797).]] Liên minh các Vương hầu (), hay chính xác hơn là Liên minh các Vương hầu người Đức, là một liên minh các tiểu quốc Đức được thành lập ở Đức vào năm 1785. Được thành lập ngày 21 tháng 7 năm 1785, khi ba nước Phổ, Sachsen và Hanover ký kết hiệp ước Liên minh Ba Tuyển hầu (Drei-Kurfürstenbund) ở Berlin, kinh đô của Phổ, xác nhận vai trò bảo hộ quyền tự do của Phổ đối với các vương hầu người Đức trong Đế quốc La Mã Thần thánh, Liên minh nhanh chóng được mở rộng thông qua sự gia nhập của 14 vương hầu khác nhỏ hơn, hình thành Liên minh các Vương hầu. Liên minh không chỉ bao gồm các thanh viên là các vương hầu theo Tin Lành, mà còn có sự ủng hộ của Tổng giám mục xứ Mainz, Thân vương giáo hội quan trọng nhất trong Đế chế La Mã Thần thánh.

Mặc dù chỉ tồn tại 5 năm ngắn ngủi, Liên minh các Vương hầu là bước tiến đầu tiên và quan trọng trong công cuộc thống nhất Đế chế Đức dưới sự lãnh đạo của Phổ trong tương lai sau đó.. Đây là một trong những thành tựu mang tầm quốc tế, thành tựu vĩ đại cuối cùng của vị vua kiệt xuất Friedrich II Đại Đế - được xem là "nhân vật số một của thế kỷ", ông đã toàn thắng trong việc thiết lập liên minh này với sự thất bại của liên minh Áo - Nga.) một lần nữa giữ vững hiện trạng của Đế quốc La Mã Thần thánh qua việc làm phá sản các tham vọng của Triều đình Áo, và đạt được mục tiêu mà ông nhắm vào trong suốt đời: nước Phổ là một kình địch của Đế quốc Áo, và giành thắng lợi.

Nước Phổ - minh chủ của "Liên minh các Vương hầu" - vốn đã là một cường quốc trên thế giới sau chiến thắng trong cuộc Chiến tranh Kế vị Áo (1740 - 1748), chiến thắng trong cuộc Chiến tranh Bảy năm (1756 - 1763) và cuộc chia cắt Ba Lan (1772), và tiếp tục thể hiện vai trò này với thắng lợi của "Liên minh các Vương hầu". Cùng năm với thắng lợi của ông và "Liên minh các Vương hầu", minh chủ của Liên minh là vua Phổ Friedrich II Đại Đế - vị anh hùng dân tộc nước Phổ - đã già và dần yếu đi (73 tuổi), nhưng ông vẫn còn sống qua năm 1785, rồi qua đời vào năm sau (1786).

Ngòi nổ: Chiến tranh Kế vị Bayern

phải|Hoàng đế Áo Joseph II liên tục thất bại vào các năm 1778 và 1785 do phải đối mặt với Quốc vương Friedrich II Đại Đế và lực lượng Quân đội Phổ hùng mạnh hơn hẳn. Sau đó, ông chuyển tầm nhìn sang [[Đế quốc Ottoman và gây chiến với họ.]] Dưới triều đại huy hoàng của Quốc Vương Friedrich II Đại Đế, Vương quốc Phổ từ một nước chư hầu của các nước phong kiến phía Đông, trở thành một cường quốc phát triển lớn mạnh, chiếm được tỉnh Silesia của Áo. Nước Phổ liên minh với Nga vào năm 1764 - một liên minh lâu dài và lâu bền nhất trong lịch sử nền quân chủ Phổ, giúp Triều đình Phổ có thể chi phối những chính sách của Triều đình Nga về vấn đề xâm chiếm Ba Lan. Vào năm 1772, ba nước Phổ, Áo và Nga tiến hành cuộc chia cắt Ba Lan lần thứ nhất, đem lại lợi thế lớn lao cho nước Phổ. Nước Phổ trở nên một liệt cường đáng sợ, tranh giành quyền Bá chủ Đế chế Đức với nước Áo. Tuy nước Áo thất bại nặng nề, Hoàng Đế nước Áo là Joseph II lại có đầy tham vọng. Tuy rất ngưỡng mộ vua Friedrich II Đại Đế, khi tưởng rằng ông qua đời vì ông lâm vào một căn bệnh gút vào năm 1775, Hoàng Đế Joseph II dự định phái quân Áo đến biên giới nước Phổ để buộc vị tân vương Phổ phải trả lại tỉnh Silesia - một tỉnh giàu có từng bị Quốc Vương Friedrich II Đại Đế. Không may cho Hoàng Đế nước Áo, Quốc Vương nước Phổ khỏe lại, và dĩ nhiên là dự định chiếm lại tỉnh Silesia của quân Áo lập tức thất bại. Vương quốc Phổ trở thành một cường quốc hùng mạnh nhất vùng Trung Âu, là cường quốc quân sự đóng vai trò Bá chủ ở châu Âu: ông cùng Quân đội Phổ hùng mạnh đã đánh bại được tất cả các cường quốc trên lục địa châu Âu. Thanh thế của nước Phổ vươn lên trên toàn cõi châu Âu, và họ củng cố hoàn toàn vai trò liệt cường, với một trong những đội quân hùng mạnh nhất trên toàn cõi châu Âu. Sau đó, Quốc vương Friedrich II Đai Đế tái thiết quốc gia hùng cường.

Nghe lời cầu cứu của Quận công xứ Deux-Ponts và Tuyển hầu tước xứ Sachsen, ông thân chinh mang đại binh tinh nhuệ đi đánh Đế quốc Áo của nhà Habsburg do Nữ hoàng Maria Theresia (1714 - 1780) và con trai là vua Joseph II trị vì. Ông chỉ đánh Áo nhằm bảo vệ sự cân bằng qưyền lực, không phải vì những tham vọng lớn lao nào hết. Nước Áo một lần nữa là kẻ thất bại, Quốc vương nước Phổ phá vỡ ý tưởng sáp nhập xứ Bayern vào nước Áo, tiêu diệt Thỏa thuận Viên với Hiệp định Teschen vào ngày 13 tháng 5 năm 1779, sau cuộc Chiến tranh Kế vị Bayern ngắn ngủi. Đế quốc Nga và Vương quốc Pháp đóng vai trò trung gian trong Hiệp định Teschen. Bước vào thập niên 1780, Quốc vương Friedrich II Đại Đế nước Phổ và Nữ hoàng Ekaterina II Đại Đế nước Nga trở thành hai nhân vật duy nhất có tầm vóc anh hùng trên chính trường châu Âu.

Diễn biến và ý nghĩa của Liên minh

Nhưng vài năm sau, để cung cố uy quyền của nền quân chủ chuyên chế Áo, vị Hoàng đế đầy tham vọng Joseph II (1741 - 1790) - kẻ thất bại trong cuộc Chiến tranh Kế vị Bayern - lại nghĩ đến chuyện thôn tính xứ Bayern. Vốn sau thắng lợi cuộc Chiến tranh Bảy năm, vua Friedrich II Đại Đế đã hứa rằng ông sẽ tôn Joseph II làm Hoàng đế. Với tham vọng hung dữ của mình, ông ta mong muốn đưa nước Áo trở lại thành Bá chủ của đất Đức như trước Hòa ước Westfalen (1648). Thông qua các hoạt động ngoại giao rộn rịp, ông đã thiết lập liên minh với Pháp và Nga, cô lập nhà vua nước Phổ. Về phía Phổ, họ vốn đã mất nhiều đồng minh trong suốt những cuộc chiến tranh Silesia, và sau khi Ngoại trưởng Nga là Nikita Ivanovich Panin bị mất chức thì liên minh Nga - Phổ cũng sụp đổ (1780). Bị các cường quốc cô lập, ông hết sức lo buồn, thường than rằng việc thống trị nước Phổ đã trở thành một nỗi lo đối với tấm thân 70 tuổi của mình. Ông kịch liệt phản đối dự định của triều đình Nga hoàng, thể hiện qua lá thư mà Bá tước xứ Zweibrücken gửi cho Nữ hoàng Nga Ekaterina II Đại Đế. Nữ hoàng Nga bèn thông báo rằng, bà ta chỉ nghĩ cả hai bên đều có quyền chao đổi lãnh thổ, nếu hai bên đã đồng ý. Vua nước Pháp là Louis XVI - ông vua đã đứng ra trung gian trong Hiệp định Teschen và sẽ không tán thành với dự án chiếm đóng xứ Bayern - đã làm cho vua Friedrich II Đại Đế trở nên cam đoan rằng Hoàng đế Joseph II đã xóa bỏ dự định của mình do Bá tước xứ Zweibrücken có phản đối, triều đình Áo vẫn không chịu tiến hành hòa giải. Thế là nhà vua nước Phổ liền ra tay, ông trở nên năng nổ và thể hiện sự vĩ đại của ông trong tình hình khó khăn. Ông gửi thư cho Thủ tướng Chính phủ Phổ khi đó là Bá tước Karl-Wilhelm Finck von Finckenstein, nói về việc thiết lập một liên minh:

phải|Quốc vương Phổ Friedrich II Đại Đế năm ông 68 tuổi. Ông đánh chiếm tỉnh [[Silesia và đánh thắng một liên quân chống Phổ đông đảo (Áo, Nga, Pháp, v.v...) trong cuộc Chiến tranh Bảy năm, giữ vững tỉnh Silesia và đưa nước Phổ lên hàng liệt cường. Các thành viên cùng chịu trách nhiệm chung với nhau để đối đầu với đế quốc Áo, tuân thủ theo Hòa ước Westfalen năm xưa. Chỉ trong vài tháng, đã nhiều nước tham gia liên minh (trong số đó có Bá tước xứ Zweibrücken), thế là Quốc vương nước Phổ đã toàn thắng. "Liên minh các Vương hầu" không phải là một quốc gia Liên bang, mà là một Liên minh giữa các quốc gia nhằm chống lại tham vọng dữ dằn của Hoàng đế Joseph II. Theo Norwood Young trong cuốn tiểu sử vua Friedrich II Đại Đế vốn mang nội dung bỉ bác ông, Liên minh này không mang lại ý nghĩa gì trong thời gian đó, nhưng được đời sau ghi nhớ tới.

Nhà vua nước Phổ viết như vậy. Với "Liên minh các Vương hầu" này, ông đã thực hiện được những gì ông mơ ước từ thời bé, mà thành công này còn huy hoàng hơn cả việc thực hiện ước mơ của một vị vua khai quốc. Ông không còn là vị vua trị vì dưới cái bóng của Hoàng đế La Mã Thần thánh như trong hai cuộc chiến tranh Silesia (1740 - 1745) nữa (hồi đó ông liên minh với Hoàng đế Karl VII); mà giờ đây, với tư cách là vị quan thầy của dân tộc Đức, ông vinh hiển xưng hùng xưng bá với cả thế giới. Một lần nữa, Hoàng đế Joseph II lại không thực hiện được tham vọng bá chủ của mình. Cả Áo lẫn Nga đều phải hoàn toàn từ bỏ ý định của họ.

Ngay từ khi Liên minh mới được thành lập, nhiều lãnh chúa ở Đức đã tin rằng sự thống nhất sẽ đến với họ. Việc nước Áo phải phá sản âm mưu chiếm đóng xứ Bayern đã làm cho các cường quốc láng giềng - vốn luôn lợi dụng sự yếu kém của dân tộc Đức để nhảy vô xâm lược - đều hết sức lo sợ.

Các thành viên gia nhập liền sau đó bao gồm Hessen-Kassel và Zweibrücken, Braunschweig-Wolfenbüttel, Sachsen-Gotha và Sachsen-Weimar, Mecklenburg, Baden và Brandenburg-Ansbach. "Liên minh các Vương hầu" không những đánh một đòn đau vào danh tiếng của vị Hoàng đế tài năng Joseph II,, cống hiến cuối cùng của nhà vua nước Phổ đối với nền chính trị châu Âu và cả thế giới, đỉnh cao của những chiến thắng mà ông đạt được trong suốt cuộc đời ông, là một chiến thắng lừng lẫy đưa Vương quốc Phổ thoát khỏi sự đe dọa nguy hiểm nhất trong lúc đó. Là minh chủ của "Liên minh các Vương hầu", đây là lần đầu tiên nước Phổ hòng thống nhất các vua chư hầu người Đức thành một Đế chế Đức do Quốc vương nước Phổ thống trị. Qua việc thành lập liên minh này, vị minh chủ "Liên minh các Vương hầu" đã công khai cố gắng thống trị nước Đức, "Liên minh các Vương hầu" còn ảnh hưởng lớn đến việc sáng tác "Huyền thoại Friedrich" của phong trào dân tộc chủ nghĩa Đức - một huyền thoại có nội dung khác hẳn với sự thật về những chính sách của ông.

Phá bỏ tham vọng của nước Áo, "Liên minh các Vương hầu" đã mở đường cho Đế chế Đức thống nhất 85 năm sau đó, và cũng mở đường cho sự thành lập một nhà nước Cộng hòa Đại Đức sau này. để lại một nước Phổ hùng mạnh, sánh vai với Áo trong việc thống trị vùng Trung Âu. Trong suốt đời, ông luôn thể hiện là "một thiên tài đích thực xuất sắc nhất đã lên kế vị ngai vàng vào thời kỳ cận đại" - theo nhận định của nhà sử học người Anh là John Dalberg-Acton, Nam tước Acton thứ nhất (Huân tước Acton). Nước Phổ giờ đây đứng ngang hàng với mọi liệt cường Âu châu, chứ không còn là liệt cường yếu nhất châu lục này như hồi ông mới lên chính vị hiệu. Thành công của "Liên minh các Vương hầu", tức Furstenbund chống lại dự định của Áo và Nga, là thắng lợi cuối cùng của ông (1785). Do xứ Hanover do vua Anh thống trị vào lúc ấy, việc xứ này tham gia "Liên minh các Vương hầu" cho thấy một sự kiện quan trọng: trước khi nước Phổ thắng trận trong bảy năm chinh chiến, Giờ đây, nước Phổ đã hòa giải với Anh Quốc, điều này làm tổn hại nghiêm trọng đến quyền lợi của Pháp, dù nước này không tham gia dự định chiếm đóng xứ Bayern: cụ thể hơn, trước khi Liên minh ra đời, sự quan tâm của vua Pháp vào vấn đề Bayern chỉ phục thuộc vào vua Phổ. Việc ông thiết lập "Liên minh các Vương hầu", cũng với một loạt sự kiện khác ở Trung Âu và Đông Âu vào các thập niên 1770 - 1780, đã cho thấy nước Pháp ngày càng trở nên bất lực. Phong trào Cách mạng Pháp nổ ra vào năm 1789, và vua Louis XVI bị xử tử, chấm dứt chế độ quân chủ của Vương triều Bourbon.

Nhà sử học quân sự người Anh là Christopher Duffy (thế kỷ XX), trong tác phẩm "Frederick the Great: A Military Life" được đánh giá rất cao, cho rằng "Liên minh các Vương hầu" của ông không phải là tiền thân của một nước Đức thống nhất, ông làm liên minh trở nên có hiệu lực thông qua việc Pháp không tham gia dự định chiếm đóng xứ Bayern và hoàn toàn mang lại quyền lợi cho Vương quốc Phổ; nhưng "Liên minh các Vương hầu" khẳng định rằng, trong những ngày cuối đời của ông, ông trầm mình trong ánh hoàng hôn rực rỡ của cuộc đời của một vị anh hùng dân tộc Đại Đức.

Đương thời với việc thiết lập Liên minh, tuy các cường quốc láng giềng như Nga, Pháp đều lo lắng và sợ sệt, thì triều đình Torino - vốn ngưỡng mộ vị vua Phổ vĩ đại - coi Liên minh này là vị "Thần hộ mệnh của các quốc gia Ý" (lúc bấy giờ nước Ý hãy còn chưa hợp nhất thành một quốc gia)., nếu liên minh này được thiết lập vài năm trước đó, Triều đại vua Phổ sẽ chiếm ngôi Hoàng đế Đức của Áo trong đúng thế kỷ XVIII. Còn tác giả Friedrich Kohlrausch trong tác phẩm A history of Germany: from the earliest period to the present time, thì cho hay, thất bại này đã dạy cho Hoàng gia Áo về trách nhiệm của họ đối với các quốc gia châu Âu lúc ấy, họ phải lo mà bảo vệ nguyên trạng của họ, chống lại tinh thần chinh phạt, v.v... nếu không họ nhất định sẽ suy yếu. Nhưng do vị vua anh hùng này mất vào năm sau (1786) nên Liên minh cũng không làm gì được thêm.

"Liên minh các Vương hầu" trong thi ca

trái|Nhà thơ C. F. D. Schubart Việc thiết lập "Liên minh các Vương hầu" đã ảnh hưởng không nhỏ tới đại thi hào Johann Wolfgang von Goethe (1749 - 1832) khi ông ở xứ Saxe-Weimar, và chính ông cũng từng gọi vua Friedrich II Đại Đế là "một ngôi sao Bắc Đẩu... mà cả dân tộc Đức, cả châu Âu, thậm chí cả thế giới đang hướng về".

(Lưu ý: Trong các bài thơ ca tụng Quốc vương Friedrich II Đại Đế, nhà thơ Christian Friedrich Daniel Schubart thường ví von ông với những người anh hùng của dân tộc Teuton như Hermann hay Wotan. Bài thơ trên được tạm dịch từ bản tiếng Anh trong sách The Culture of Power and the Power of Culture: Old Regime Europe 1660-1789, trang 231.)

Từ lâu vùng Bắc Đức không được bảo vệ, mà nay Quốc vương Friedrich II Đại Đế đã bảo vệ thành công vang dội qua một loạt công trạng hiển hách của ông. Với một sự nghiệp lẫy lừng, ông đã trở thành một vị anh hùng của toàn dân Đức, thu hút các nhà văn, họa sĩ. Vào năm 1857, một họa sĩ người Đức nổi tiếng là Adolf Menzel có vẽ tranh về cuộc gặp gỡ giữa ông và vua Joseph II (hai vị vua này từng gặp gỡ nhau trước cuộc Chiến tranh Kế vị Bayern và Liên minh các Vương hầu).

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
phải|[[Phúng dụ Friedrich Đại đế với tư cách người sáng lập "Liên minh các Vương hầu". Tranh sơn dầu trên vải bạt của Bernhard Rode (1725 – 1797).]] **Liên minh các Vương hầu** (), hay
**Elisabeth của Áo** (; 5 tháng 7 năm 1554 – 22 tháng 1 năm 1592) là Vương hậu nước Pháp từ năm 1570 đến năm 1574 thông qua cuộc hôn nhân với Charles IX của
**Vương hậu** (chữ Hán: 王后; Hangul: 왕후Wanghu; tiếng Anh: Queen Consort) là một Vương tước thời phong kiến của một số quốc gia phương Đông như Trung Quốc, Việt Nam, Triều Tiên và các quốc
**Liên minh cá nhân** (tiếng Anh: _personal union_; tiếng Pháp: _union personnelle_) là sự liên hiệp giữa hai hoặc nhiều nước độc lập có chung một người (cá nhân) làm quốc trưởng trong khi biên
**Wilhelmine của Phổ** (tiếng Đức: _Wilhelmine von Preußen_; tiếng Anh: _Wihelmine of Prussia_; tên đầy đủ: _Friederike Luise Wilhelmine_; 18 tháng 11 năm 1774 – 12 tháng 10 năm 1837) là Vương hậu đầu tiên
**Liên hiệp Viễn thông Quốc tế** hoặc **Liên minh Viễn thông Quốc tế**, viết tắt là **ITU** (tiếng Anh: International Telecommunication Union) là một cơ quan chuyên môn của Liên hợp quốc chịu trách nhiệm
**Marguerite xứ Anjou** (tiếng Pháp: _Marguerite d'Anjou_; 23 tháng 3, 1430 - 25 tháng 8, 1482), hay **Margaret** trong tiếng Anh, là Vương hậu nước Anh với tư cách là vợ của Henry VI của
**Karl Theodor** (11 tháng 12 năm 1724 – 16 tháng 2 năm 1799) là Bá tước Pfalz-Sulzbach từ năm 1733, sau cái chết của cha mình; từ năm 1742, sau cái chết của người họ
**Liên minh châu Âu** hay **Liên hiệp châu Âu** (tiếng Anh: _European Union_; viết tắt **EU**), còn được gọi là **Liên Âu** (tiền thân là Cộng đồng Kinh tế châu Âu), là một thực thể
**Vương hậu Camilla** (tên khai sinh là **Camilla Rosemary Shand**, sinh ngày 17 tháng 7 năm 1947) là Vương hậu của Vương quốc Liên hiệp Anh và 14 vương quốc khác thuộc Khối Thịnh vượng
**Maria Anna của Áo** (tiếng Đức: _Maria Anna von Österreich_; tiếng Tây Ban Nha: _Mariana de Austria_; tiếng Anh: _Mariana of Austria_; 24 tháng 12 năm 163416 tháng 5 năm 1696) là vương hậu của
**Liên minh thứ tư** được hình thành chỉ vài tháng sau khi Liên minh thứ ba tan rã. Liên minh thứ tư gồm có các Vương quốc Anh, Nga, Phổ, Thụy Điển, Sicilia nhằm chống
**Thần Trinh Vương hậu** (chữ Hán: 神貞王后; Hangul: 신정왕후; 6 tháng 2, năm 1808 – 17 tháng 4, năm 1890), hay còn gọi là **Thần Trinh Dực hoàng hậu** (神貞翼皇后; 신정익황후) là một Vương hậu
phải|nhỏ| Huy hiệu của chính phủ lâm thời Kentucky, cho thấy một cánh tay đang nắm giữ ngôi sao thứ 13 của Liên minh miền Nam. Khẩu _Voce Populari_ là "bởi tiếng nói của nhân
**Mary Tudor** (/ˈtjuːdər/; tiếng Pháp: _Marie Tudor_; tiếng Tây Ban Nha: _María Tudor_; sinh ngày 18 tháng 3 năm 1496 – mất ngày 25 tháng 6 năm 1533) là một vương nữ người Anh, từng
**Liên minh Kalmar** (tiếng Đan Mạch, tiếng Na Uy, tiếng Thụy Điển: _Kalmarunionen_) là liên minh giữa 3 vương quốc Đan Mạch, Na Uy và Thụy Điển dưới quyền cai trị của một quốc vương
**Liên minh châu Âu** là một địa chính trị thực thể bao gồm một phần lớn của lục địa châu Âu. Nó được thành lập dựa trên nhiều hiệp ước và đã trải qua những
**Chiêu Huệ Vương hậu** (chữ Hán: 昭惠王后; Hangul: 소혜왕후; 8 tháng 9, 1437 - 27 tháng 4, 1504), còn được biết đến nhiều hơn với tên gọi **Nhân Túy Đại phi** (仁粹大妃; 인수대비), là vợ
**Liên minh thứ nhất** là một liên minh quân sự từ năm 1793 tới năm 1797, gồm có các vương quốc Anh, Phổ, Áo, Napoli, Sardinia, Bồ Đào Nha và Hà Lan thuộc Áo, Đế
**Vương hậu Vu thị** (; mất năm 234), là một vương hậu của triều đại Cao Câu Ly. Bà giữ ngôi vương hậu tổng cộng hai lần, là phối ngẫu qua hai đời vua Cao
nhỏ| [[Quân chủ Công giáo và Cristoforo Colombo, 1493]] **Liên hiệp vương triều** (**', **') là một hình thức liên bang chỉ có hai nhà nước khác nhau được quản lý dưới cùng một triều
**Liên minh thứ sáu** bước đầu gồm Vương quốc Anh và Đế quốc Nga, sau đó là Phổ, Áo, Thụy Điển, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và các vương quốc Bayern, Württemberg, Sachsen (từ
**Liên minh thứ năm** chỉ gồm có Vương quốc Anh và Áo, chống lại Đế quốc Pháp cùng các đồng minh là Vương quốc Ý, Bayern, Sachsen, Hà Lan, Napoli, Liên bang sông Rhine, Công
**Fabiola, Vương hậu Bỉ** (**Fabiola de Mora y Aragón**; 11 tháng 6 năm 1928 – 5 tháng 12 năm 2014) là vợ của Vua Baudouin của Bỉ. Bà là Hoàng hậu Bỉ từ năm 1960
**_In varietate concordia_** (dịch: **Thống nhất trong đa dạng**) là **khẩu hiệu** chính thức của **Liên minh châu Âu** (EU), được thông qua vào năm 2000. Bản dịch của nó trong 24 ngôn ngữ chính
nhỏ|upright=1.2|Der Deutsche Zollverein 1834–1919
Xanh dương = lúc mới thành lập
Xanh lục = Mở rộng cho tới 1866
Vàng = Mở rộng sau 1866
Đỏ = Biên giới Deutscher Bund 1828
Hồng = Thay
**Blanca xứ Évreux** (; sinh khoảng năm 1331 – 5 tháng mười năm 1398), là vương tằng tôn nữ nước Pháp và Infanta của Navarra với tư cách là thành viên của Gia tộc Évreux
[[Wilhelm II của Đức|Wilhelm II của Đế quốc Đức, Mehmed V của Đế quốc Ottoman và Franz Joseph I của Đế quốc Áo-Hung: Ba vị toàn quyền của phe Liên minh Trung tâm trong Chiến
nhỏ|Con dấu scarab của vương hậu Tati, được vẽ lại bởi Percy Newberry. ([[Bảo tàng Anh - số hiệu BM20824)|190x190px]] **Tati** là một vương hậu của Ai Cập cổ đại, sống vào khoảng thế kỷ
**Liên minh Hispaniola** ở đảo Hispaniola kéo dài hai mươi hai năm (từ ngày 9 tháng 2 năm 1822 đến ngày 27 tháng 2 1844). Liên minh này đã kết thúc giai đoạn ngắn đầu
**_Liên Minh Huyền Thoại: Tốc Chiến_** (, viết tắt: _LoL:WR, Wild Rift, WR, LMHT: Tốc Chiến_) hay rút gọn lại là **_Tốc Chiến_** là một trò chơi điện tử đấu trường trận chiến trực tuyến
**Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland**, còn được biết đến với tên gọi **Vương quốc Liên hiệp Đại Anh và Bắc Ireland** hoặc **Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ireland** (), hay
**Vương quốc Hannover** (tiếng Đức: _Königreich Hannover_; tiếng Anh: _Kingdom of Hanover_) được thành lập vào tháng 10/1814 bởi Đại hội Viên trên cơ sở lãnh thổ cũ của Tuyển hầu quốc Hannover (Braunschweig-Lüneburg) trong
**Chương Hiến Minh Túc Lưu Hoàng hậu** (chữ Hán: 章献明肃劉皇后, 968 - 1033), hay còn gọi là **Chương Hiến Lưu Hoàng hậu** (章獻劉皇后), **Chương Hiến Thái hậu** (章獻太后) hoặc **Chương Hiến hậu** (章獻后), thỉnh thoảng
**Bá quốc Waldeck** (sau này được nâng lên thành **Thân vương quốc Waldeck** và **Thân vương quốc Waldeck và Pyrmont**) là một nhà nước của Đế chế La Mã Thần thánh và những người kế
**Liên đoàn Ả Rập** ( **'), tên chính thức là **Liên đoàn các Quốc gia Ả Rập** ( **'), là một tổ chức khu vực của các quốc gia Ả Rập nằm tại và xung
**Trưng cầu dân ý về tư cách thành viên Liên minh châu Âu của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland**, còn được gọi là **trưng cầu dân ý EU** ở Vương quốc Liên
**Elizabeth Stuart** (19 tháng 8 năm 159613 tháng 2 năm 1662) là Tuyển hầu phu nhân của Công quốc Pfalz (hay _Palatinate_ trong tiếng Anh) và là Vương hậu của Bohemia trong một thời gian
**Vương quốc Phổ** () là một vương quốc tồn tại trong lịch sử Đức từ năm 1701 đến 1918. Nó là động lực thúc đẩy sự thống nhất của Đức vào năm 1871 và vua
**Quân vương hậu** (chữ Hán: 君王后; ? - 249 TCN), họ Hậu (后姓), là Vương hậu của Tề Tương vương Điền Pháp Chương, mẹ của Tề vương Kiến, lần lượt là các quân chủ thứ
**Liên minh phương Bắc Afghanistan**, chính thức được gọi là **Mặt trận Đoàn kết Hồi giáo Cứu quốc Afghanistan** ( _Jabha-yi Muttahid-i Islāmi-yi Millī barā-yi Nijāt-i Afghānistān_), là một mặt trận quân sự được hình
**Phe** **Đồng Minh** trong Chiến tranh thế giới thứ nhất - tên gọi của liên minh các quốc gia dẫn đầu bởi Cộng hòa Pháp, Vương quốc Anh và Ireland, Đế quốc Nga, Vương quốc
thumb|Bản đồ Vương quốc Anh (xanh đậm), Ireland và Hanover (xanh nhạt) 1789 thumb|Đồng 16 [[Gute Groschen từ năm 1825 Vua George IV của Vương quốc Anh và Hanover]] **Liên minh cá nhân giữa Anh
**Thân vương quốc Reuss-Gera** (tiếng Đức: _Fürstentum Reuß-Gera_) còn được gọi là Thân vương quốc Reuss Junior Line (tiếng Đức: _Fürstentum Reuß jüngerer Linie_) sau năm 1848, là một nhà nước có chủ quyền trong
**Victoria Adelaide của Liên hiệp Anh và Ireland, Vương nữ Vương thất, Hoàng hậu Đức và Vương hậu Phổ** (; , 21 tháng 11 năm 1840 – 5 tháng 8 năm 1901) là Vương nữ
**Tuyển hầu quốc Hannover** ( hoặc đơn giản là _Kurhannover_; ) là một Tuyển hầu quốc của Đế quốc La Mã Thần thánh, toạ lạc ở Tây Bắc nước Đức hiện nay. Tên của nó
thumb|Bản đồ đế quốc La Mã Thần Thánh dưới triều Hoàng đế [[Karl IV của Thánh chế La Mã|Karl IV]] **Đế quốc La Mã Thần Thánh** (tiếng Latinh: _Sacrum Romanum Imperium_; tiếng Đức: _Heiliges Römisches
**Friedrich II** (24 tháng 1 năm 171217 tháng 8 năm 1786) là vua nước Phổ trị vì từ ngày 31 tháng 5 năm 1740 cho đến khi qua đời vào ngày 17 tháng 8 năm
**Vương Dung** (, 877?-921), là một quân phiệt vào cuối thời nhà Đường và sau trở thành người cai trị duy nhất của nước Triệu thời Ngũ Đại Thập Quốc. Thời Đường, Vương Dung thoạt
thumb|[[Vương quốc Macedonia (màu cam đậm) vào năm 336 TCN dưới triều đại của Philippos II của Macedonia; những vùng lãnh thổ khác bao gồm các quốc gia lệ thuộc của Macedonia (cam nhạt), người