✨Kinh tế Cộng hòa Dân chủ Đức
Nền kinh tế Cộng hòa Dân chủ Đức (1945–1990; tính cả thời kỳ quân đội Liên Xô tiếp quản 1945–1949) là một nền kinh tế kế hoạch tương tự như hệ thống kinh tế ở Liên Xô và các quốc gia thành viên Comecon khác. Nhà nước thiết lập các chỉ tiêu sản xuất, giá cả và cũng như phân bổ nguồn lực, phổ biến kế hoạch phát triển kinh tế. Các hoạt động công nghiệp trong thuộc sở hữu nhà nước.
CHDC Đức có mức sống cao hơn các quốc gia khối Đông Âu khác và cả Liên Xô, và được hưởng các điều khoản thuế quan và thuế quan thuận lợi với thị trường CHLB Đức (hay còn gọi là Tây Đức cho đến khi cả hai miền nước Đức tái thống nhất). Nền kinh tế CHDC Đức là một trong những nền kinh tế lớn nhất và là một trong những nền kinh tế ổn định nhất trong khối xã hội chủ nghĩa cho đến thời điểm cuộc tái thống nhất nước Đức vào năm 1990.
Tổng quan
nhỏ|Địa lý kinh tế của CHDC Đức (tính đến tháng 8 năm 1990)
Nền kinh tế CHDC Đức là nền kinh tế có GDP cao nhất khối Đông Âu. Dù vậy, nền kinh tế Đông Đức lại bắt đầu không mấy khả quan do sự tàn phá mà Chiến tranh thế giới thứ hai đã gây ra và do các điều khoản bồi thường vô lý của Liên Xô. Cho đến giữa thập niên 1950, Đông Đức phải bồi thường bằng sản lượng đầu ra trong cả công nghiệp lẫn nông nghiệp. Hạ Silesia, với nhiều mỏ than đen và Stettin, một cảng biển quan trọng, đã được trao cho Ba Lan theo quyết định của Stalin nói riêng và Hiệp định Potsdam nói chung.
Các doanh nghiệp nhà nước kiếm được 97% thu nhập quốc dân ròng theo ước tính năm 1985. Để đảm bảo giá cả ổn định cho hàng hóa và dịch vụ, nhà nước đã trợ giá lên đến 80% chi phí cung ứng nguyên vật liệu. Thu nhập bình quân đầu người vào năm 1984 xấp xỉ 9.800 đô la (22.600 đô la theo tỷ giá năm 2015). Tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm trung bình vào khoảng 5%. Điều này khiến nền kinh tế CHDC Đức trở thành nền kinh tế giàu có nhất trong toàn bộ khối XHCN cho đến khi thống nhất vào năm 1990. Trong thương mại bán lẻ, hai tổ chức ' (tổ chức dưới hình thức hợp tác xã) và ' (thuộc quản lý nhà nước) chiếm lĩnh thị trường. Các loại hàng hóa và các dịch vụ cơ bản đều được trợ giá. Ở mức độ sản xuất, việc trợ giá tạo nên một hệ thống bán trao đổi và tích trữ tài nguyên. Còn đối với người tiêu dùng, do đồng Mark trong nước có sức mua thấp nên họ phải thay thế nó bằng các ngoại tệ mạnh và việc trao đổi hàng hóa với phương Tây.
Dưới thời Erich Honecker, nền kinh tế CHDC Đức bị đình trệ và ngày càng phải phụ thuộc nhiều hơn vào các khoản vay ngoại tệ mạnh từ CHLB Đức.
Các giai đoạn phát triển
Giai đoạn 1945–1949
Vào tháng 6 năm 1945, mỗi quốc gia Đồng Minh đã chiếm đóng một phần của Đức và quản lý từng khu vực đó.
Năm 1946, khu vực Liên Xô có chỉ số năng suất rất nhỏ; công nghiệp hóa thời chiến đã đóng góp nhiều hơn cho nền kinh tế phía đông, và sự tàn phá do chiến tranh gây ra nhẹ hơn ở phía Tây.
Trong toàn lãnh thổ khu vực chiếm đóng, Liên Xô đã phá dỡ và lấy đi () nhiều nhà máy (bao gồm các ngành công nghiệp sắt, hóa chất, quang học, cơ khí, nhiên liệu và gần như toàn bộ nền công nghiệp quân sự), đường sắt, phương tiện vận tải và lấy đi nhiều nguyên liệu và sản phẩm cả công nghiệp lẫn nông nghiệp trên danh nghĩa “bồi thường chiến tranh” (). Đến đầu những năm 1950, tổng giá trị các sản phẩm Liên Xô lấy đi đã đạt đến 10 tỷ đô la. ( – SAG) đã được thành lập. Các tài sản công nghiệp bị tịch thu còn lại đã bị quốc hữu hóa, để lại 40% tổng sản lượng công nghiệp cho doanh nghiệp tư nhân.
Việc bồi thường như vậy đã cản trở nghiêm trọng khả năng cạnh tranh của CHDC Đức với CHLB Đức về mặt kinh tế. Chỉ sau cái chết của Joseph Stalin và cuộc nổi dậy tháng 6 năm 1953, Liên Xô mới bắt đầu trả lại các nhà máy ở CHDC Đức mà họ đã lấy làm tiền bồi thường.
Đại hội Đảng lần thứ 3 của Đảng Xã hội chủ nghĩa Thống nhất Đức ( – SED) được triệu tập vào tháng 7 năm 1950 và nhấn mạnh tiến bộ công nghiệp. Khu vực công nghiệp, sử dụng 40% dân số làm việc, đã bị quốc hữu hóa, dẫn đến sự hình thành của các VEB (; tạm dịch: Doanh nghiệp nhân dân). Những doanh nghiệp này chiếm đến 75% tổng sản lượng công nghiệp. Kế hoạch 5 năm đầu tiên (1951–55) đã đưa ra kế hoạch hóa nhà nước tập trung, nhấn mạnh việc tập trung vào ngành công nghiệp nặng và tăng năng suất lao động. Áp lực của kế hoạch đã khiến nhiều công dân CHDC Đức di cư sang CHLB Đức.
Khi ngân sách năm 1953 được trình bày trong Volkskammer vào ngày 4 tháng 2, khai thác kinh tế vì lợi ích của Liên Xô vẫn là xu hướng chủ đạo. Ngân sách dự kiến chi 34.688 tỷ mác CHDC Đức, tăng khoảng 10% so với 31.730 tỷ mác của ngân sách năm 1952. Tại hội nghị, chế độ đã tuyên bố ý định phát triển năng lượng hạt nhân và lò phản ứng hạt nhân đầu tiên trong GDR được kích hoạt vào năm 1957. Chính phủ tăng hạn ngạch sản xuất công nghiệp lên 55% và đổi mới nhấn mạnh vào công nghiệp nặng.
Hệ thống kinh tế mới đã tạo ra một tầng lớp tinh hoa mới trong chính trị cũng như trong quản lý kinh tế, và vào năm 1963, Ulbricht đã công bố một chính sách mới liên quan đến việc tuyển dụng vào các cấp lãnh đạo của SED. Ulbricht đã mở Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương cho các thành viên trẻ hơn, những người có trình độ học vấn cao hơn những người tiền nhiệm và đã có được các kỹ năng quản lý và kỹ thuật. Do chính sách mới, tầng lớp tinh hoa của SED đã bị chia thành các phe phái chính trị và kinh tế, phe sau bao gồm các thành viên của tầng lớp tinh hoa kỹ trị mới. Do nhấn mạnh vào tính chuyên nghiệp trong chính sách cán bộ của SED sau năm 1963, nên thành phần của các thành viên quần chúng đã thay đổi: vào năm 1967, khoảng 250.000 thành viên (14%) trong tổng số 1,8 triệu thành viên của SED đã hoàn thành khóa học tại một trường đại học, cao đẳng kỹ thuật hoặc trường dạy nghề.
Sự nhấn mạnh của SED vào năng lực quản lý và trình độ kỹ thuật cũng giúp các thành viên của giới tinh hoa kỹ trị gia gia nhập vào các cấp bậc cao nhất của bộ máy nhà nước, trước đây chỉ dành cho những người theo chủ nghĩa giáo điều chính trị. Các nhà quản lý của VVB được lựa chọn dựa trên cơ sở đào tạo chuyên môn hơn là sự tuân thủ về mặt ý thức hệ. Trong từng doanh nghiệp, số lượng các vị trí chuyên môn và công việc dành cho những người có kỹ năng kỹ thuật tăng lên. SED nhấn mạnh giáo dục về quản lý và khoa học kỹ thuật là con đường dẫn đến sự thăng tiến xã hội và phần thưởng vật chất. Ngoài ra, nó hứa sẽ nâng cao mức sống cho tất cả công dân. Từ năm 1964 đến năm 1967, tiền lương thực tế tăng lên và nguồn cung hàng tiêu dùng, bao gồm cả các mặt hàng xa xỉ, được cải thiện đáng kể. Khi Erich Honecker nhậm chức vào năm 1971, kết thúc những thử nghiệm kinh tế dưới thời Ulbricht. Với chương trình “Thống nhất chính sách kinh tế và xã hội” (), ông đã đưa ra các chính sách theo hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa do các Đảng viên đề xuất thời Cộng hòa Weimar, trong đó thông qua nhiều chính sách phúc lợi xã hội, đặt việc cạnh tranh về kinh tế sang một bên.
Để nâng cao đời sống vật chất, Honecker đã đưa ra chính sách (tạm dịch: chủ nghĩa xã hội trọng tiêu dùng) – một nỗ lực nhằm nâng cao vị trí của Đảng bằng cách điều hướng sự quan tâm đặc biệt đến nhu cầu của người dân. Chính quyền CHDC Đức đã sửa đổi rộng rãi chính sách giá cả và chú ý nhiều hơn đến việc tăng cường sản xuất hàng tiêu dùng.
SED đã đẩy nhanh việc xây dựng những ngôi nhà mới và cải tạo những ngôi nhà có sẵn và 60% số nhà ấy được giao cho các gia đình thuộc tầng lớp lao động. Giá thuê thì được chính phủ trợ cấp. Vì phụ nữ chiếm 50% lực lượng lao động nên các nhà trẻ mới đã được mở và các bà mẹ có thể được nghỉ thai sản từ sáu tháng đến một năm. Hơn nữa, lương hưu đã được gia tăng.
Và để cứu chữa mức thâm hụt ngân sách ngày càng tăng do các chính sách trên, Honecker đã giảm tỷ trọng đầu tư trong ngân sách nhà nước. Tỷ lệ tích lũy trong ngân sách phục vụ cho đầu tư sản xuất giảm từ 16,1% năm 1970 xuống còn 9,9% năm 1988. Việc chỉ tập trung đầu tư vào số ít lĩnh vực (như vi mạch điện tử, cơ khí, nội thất, thủy tinh, gốm sứ,...) đã dẫn đến tụt hậu ở các lĩnh vực khác, bao gồm cả ngành quản lý cung ứng. Việc quản lý cung ứng vẫn không đạt mức đã đề ra. Trước khi bị quốc hữu hóa, các doanh nghiệp tư nhân ấy đã đóng góp phần lớn cho nền kinh tế và có mức độ chủ động và phản ứng nhất định với thị trường, thậm chí kiếm được ngoại tệ mạnh cần thiết cho sự phát triển kinh tế. Việc quốc hữu hóa dẫn đến tình trạng thiếu hụt nguồn cung một số hàng hóa, làm cho nền kinh tế càng thêm đình trệ.nhỏ|Kaffee-Mix, chỉ chứa 51% hạt cà phê, được tạo ra do thiếu dự trữ ngoại tệ để mua hạt cà phê trên thị trường thế giới. Sự gia tăng giá tiêu dùng toàn cầu trong những năm 1970 do giá dầu mỏ leo thang cũng ảnh hưởng đến CHDC Đức, nhưng nhờ các sự trợ giá của cả Comecon lẫn SED nên đã bị ảnh hưởng muộn hơn các nước khối tư bản chủ nghĩa. Do lượng tiêu thụ cà phê tăng mạnh, giá cà phê cũng tăng theo trong giai đoạn hai năm 1976–1977, dẫn đến lượng ngoại tệ cần thiết để nhập khẩu tăng gấp khoảng bốn lần so với trước.
Nợ ngoại tệ ngày càng tăng của CHDC Đức là nguyên nhân gây ra bất ổn trong nước. Phần lớn khoản nợ bắt nguồn từ những nỗ lực của CHDC Đức nhằm thoát khỏi chính vấn đề ấy bằng cách xuất khẩu, đòi hỏi phải nhập khẩu các thành phần, công nghệ và nguyên liệu thô, cũng như các nỗ lực duy trì mức sống thông qua việc nhập khẩu hàng tiêu dùng và các chương trình phúc lợi xã hội. CHDC Đức có khả năng cạnh tranh quốc tế trong một số lĩnh vực như kỹ thuật cơ khí và công nghệ in ấn. Tuy nhiên, nỗ lực đạt được lợi thế cạnh tranh trong lĩnh vực vi mạch không chỉ thất bại mà còn tốn ngoại tệ mạnh (như đã kể trên) và tư liệu sản xuất.
Bằng cách tăng xuất khẩu sang các nước tư bản từ năm 1982 đến năm 1985, giảm nhập khẩu từ phương Tây và nhờ chính phủ liên bang cấp hai khoản vay trị giá hàng tỷ đô la vào năm 1983 và 1984 cũng như các khoản thanh toán chuyển nhượng tiếp theo của phương Tây, CHDC Đức cũng đã được một số ngoại tệ trả các khoản nợ. Nhưng vì thiếu khả năng xuất khẩu đủ hàng hóa sang phương Tây nên về dài, họ cũng không thể thanh khoản hết. Sự sụp đổ của Bức tường Berlin vào tháng 11 năm 1989 đã làm tình hình kinh tế trở nên tồi tệ hơn khi việc đó làm cạn kiệt lực lượng lao động và khiến các doanh nghiệp nhà nước gặp nhiều khó khăn. Sự sụp đổ của Ủy ban Kế hoạch Nhà nước đã gây ra sự sụt giảm trong sản xuất, dẫn đến tình trạng thiếu hụt nguồn cung ứng, từ đó lại dẫn đến việc di cư ngày càng tăng.
Vào ngày 1 tháng 7 năm 1990, CHDC Đức đã thống nhất hệ thống tiền tệ với CHLB Đức, tiếp theo là sự giải thể về mặt chính trị của CHDC Đức vào ngày 3 tháng 10 năm 1990.
Cơ cấu kinh tế
Nông nghiệp
nhỏ|Bích chương tuyên truyền về sự gia tăng sản lượng ngũ cốc giữa các năm 1981, 1983 và 1986 Ngành nông nghiệp của nền kinh tế có một vị trí hơi khác trong hệ thống, mặc dù nó cũng được tích hợp hoàn toàn. Nó gần như hoàn toàn được tập thể hóa ngoại trừ một số nhỏ đất tư nhân. Do sản xuất hàng hóa không phát triển theo hướng tương tự nên sức mua dư thừa rất lớn. Vì vậy người dân lại có xu hướng tiết kiệm tiền nhiều hơn vì họ không thấy đủ giá trị của hàng hóa sẵn có. Việc phân phối tài sản tài chính ở CHDC Đức mâu thuẫn với các nguyên tắc xã hội chủ nghĩa: khoảng 10% chủ tài khoản sở hữu 60% tài sản tài chính.
Ngoại thương
Là một quốc gia công nghiệp hóa cao, CHDC Đức phụ thuộc vào việc nhập khẩu nhiều loại hàng hóa, thực phẩm và nguyên liệu thô. Do đồng mác trong nước không chấp nhận cho dùng để thanh toán các đơn hàng nước ngoài, Đông Đức chỉ có thể nhập khẩu từ bên ngoài khối XHCN bằng ngoại tệ. Một giải pháp thay thế là việc trao đổi hàng hóa ngầm.
Một trong những bất cập lớn nhất đối với việc xuất khẩu sang các nước phi XHCN là giá cả nguyên liệu. Từ năm 1980 đến năm 1988, chi phí xuất khẩu tăng gấp đôi do giá nguyên liệu thô ở thị trường nước ngoài tăng cao và nền kinh tế trong nước thiếu đầu tư trầm trọng.
15% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của CHDC Đức được trợ giá và trao đổi miễn thuế trong cái gọi là thương mại liên khu vực () với CHLB Đức (Tây Đức). Do đó, Đông Đức cho phép chuyển giao công nghệ từ phương Tây sang Liên Xô và cũng có thể gián tiếp tiếp cận thị trường Tây Đức nói riêng và Tây Âu nói chung. Cục Điều phối Thương mại () và cảnh sát mật Stasi có liên quan đến hoạt động nhập khẩu một phần bất hợp pháp này, bao gồm cả hàng hóa liên quan đến vũ khí và lách các quy định cấm vận của phương Tây, cũng như xuất khẩu sang nước ngoài. Thương mại với Tây Đức cũng nhiều đáng kể, mặc dù thỏa thuận thương mại với Đông Đức đã đưa ra những ràng buộc về việc xuất nhập khẩu.
Kế hoạch kinh tế
nhỏ|Khánh thành (tạm dịch: Khu liên hợp luyện kim phía Đông) – khởi đầu kế hoạch 5 năm 1951–1955
Kế hoạch hàng năm
Về mặt hoạt động, các kế hoạch ngắn hạn khai triển trong thời gian một năm lại rất quan trọng đối với sản xuất và phân bổ nguồn lực. Kế hoạch hàng năm bao gồm cả nền kinh tế, và các mục tiêu chính được đặt ra thường liên quan đến việc phát triển kinh tế, khối lượng và cơ cấu của sản phẩm trong nước và cách sử dụng của nó, việc sử dụng nguyên liệu và lao động, phân bổ lao động, khối lượng và cơ cấu xuất nhập khẩu. Bắt đầu từ kế hoạch của năm 1981, chính phủ CHDC Đức đã bổ sung thêm các tiêu chí về về tỷ lệ sử dụng nguyên liệu thô so với giá trị và số lượng đầu ra để thúc đẩy việc sử dụng hiệu quả hơn các tài nguyên hiếm có trong nước.
Dịch vụ
Một số người ở CHDC Đức cũ thuê người khi cần những dịch vụ như sửa đồng hồ, chỉnh sửa ô tô hoặc sửa chữa bồn cầu mà không có giấy phép. Những công việc như vậy rất phổ biến ở Đông Đức so với những nước khác vì những thiếu sót trong ngành dịch vụ. Việc làm dịch vụ mà không cấp phép được chính phủ cho qua vì được coi là vô hại.