✨Tư tưởng Chủ thể

Tư tưởng Chủ thể

Tư tưởng Juche (Hangul: 주체); (phát âm trong tiếng Triều Tiên) (主體: âm Hán Việt: Chủ thể) hay Tư tưởng Kim Nhật Thành là một hệ tư tưởng chính thức của Nhà nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên. Thuyết này cho rằng "con người là chủ thể của mọi sự và quyết định mọi việc," và người dân Triều Tiên là chủ thể của cuộc cách mạng Triều Tiên. Chủ thể là một tư tưởng tối yếu của Chủ nghĩa Kim Nhật Thành, hệ thống chính trị Triều Tiên. Nghĩa đen của từ này là "bộ phận chủ yếu trong sự vật"; và nó cũng được các nguồn tin Triều Tiên dịch là "quan điểm độc lập" và "tinh thần tự lực".

Nguồn gốc

Kim Nhật Thành đưa ra khẩu hiệu "Chủ thể" vào ngày 28 tháng 12 năm 1955, trong bài diễn văn với tựa "Để hạn chế chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa hình thức và thành lập Chủ thể một công trình ý thức hệ" để phản bác chính sách phi Stalin hoá tại Liên bang Xô viết. Tư tưởng Chủ thể dần xuất hiện như một học thuyết tư tưởng có hệ thống xuất hiện dưới sức ép chính trị của cuộc chia rẽ Xô-Trung trong thập niên 1960. Từ "Juche" cũng bắt đầu xuất hiện ở hình thức nguyên bản trong tiếng Anh trong các tác phẩm của Triều Tiên từ khoảng năm 1965. Kim Nhật Thành đã đặt ra ba nguyên tắc nền tảng của Chủ thể vào ngày 14 tháng 4 năm 1965, trong bài phát biểu "Về việc xây dựng Chủ nghĩa xã hội tại Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên và cuộc cách mạng tại Nam Triều Tiên". Các nguyên tắc đó là:

Độc lập về chính trị (chaju, Hán Việt: tự chủ);

Tự chủ về kinh tế (charip: tự lập);

Tự vệ về quốc phòng (chawi: tự vệ).

Lãnh đạo Triều Tiên kế tiếp là Kim Chính Nhật đã chính thức phác thảo bản tuyên ngôn cuối cùng về Juche trong một tài liệu năm 1982 có tiêu đề Về Tư tưởng Chủ thể. Họ Kim có quyền tuyệt đối về việc diễn giải tư tưởng chính thức này của nhà nước và đến năm 1996 thì bổ túc thêm nguyên tắc Tiên quân (先軍, songun, có nghĩa là "quân đội trước tiên") làm một phần của thuyết Chủ thể.

Áp dụng thực tiễn

Theo Về Tư tưởng Chủ thể của Kim Chính Nhật, việc áp dụng Chủ thể trong chính sách quốc gia gồm những điều sau:

Người dân phải có sự độc lập (chajusong) trong tư tưởng và chính trị, kinh tế tự cung cấp, và tự chủ về quốc phòng.

Chính sách phải phản ánh ý chí và nguyện vọng của quần chúng và sử dụng chúng triệt để trong cách mạng và xây dựng.

Các biện pháp cách mạng và xây dựng phải thích hợp với tình hình đất nước.

Sự nghiệp quan trọng nhất của cách mạng và xây dựng là định hướng người dân về tư tưởng là những người cộng sản và huy động họ vào công việc xây dựng.

Juche cũng yêu cầu sự trung thành tuyệt đối với đảng và lãnh đạo đảng. Tại Triều Tiên, đó là Đảng Lao động Triều Tiên và Kim Chính Nhật.

Trong lịch sử chính thức của Triều Tiên, một trong những hành động áp dụng có mục đích đầu tiên của Juche là Kế hoạch Năm Năm 1956-1961, cũng được gọi là Phong trào Chollima, dẫn tới Phương pháp Chongsan-ri và Hệ thống Làm việc Taean. Kế hoạch Năm Năm có mục tiêu đẩy nhanh phát triển kinh tế Triều Tiên, với trọng tâm công nghiệp nặng, để đảm bảo sự độc lập chính trị khỏi cả Liên bang Xô viết và chế độ Mao Trạch Đông tại Trung Quốc. Tuy nhiên, Phong trào Chollima cũng áp dụng chính sách tập trung nhà nước tương tự như điều gắn liền với Kế hoạch 5 năm lần thứ Nhất của Liên Xô năm 1928. Chiến dịch này trùng khớp với và một phần dựa trên Kế hoạch 5 năm lần thứ Nhất và Đại nhảy vọt của Mao. Triều Tiên có lẽ đã tránh được những thảm hoạ của cuộc Đại nhảy vọt.

Dù có tham vọng tự cung tự cấp, Triều Tiên đã liên tục phải dựa vào sự hỗ trợ kinh tế từ các quốc gia khác. Về mặt lịch sử, Triều Tiên nhận được hầu hết sự giúp đỡ từ Liên bang Xô viết cho tới khi nước này sụp đổ năm 1991. Trong giai đoạn sau cuộc Chiến tranh Triều Tiên, Triều Tiên dựa vào sự hỗ trợ và các khoản vay từ các quốc gia anh em từ 1953-1963 và cũng phụ thuộc nhiều vào sự hỗ trợ công nghiệp Liên Xô từ 1953-1976. Sau sự sụp đổ của Liên bang Xô viết, nền kinh tế Triều Tiên rơi vào khủng hoảng, với những thất bại sau đó trong cơ sở hạ tầng góp phần tạo ra nạn đói trên diện rộng hồi giữa thập niên 1990. Sau nhiều năm kiệt quệ, Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa đã đồng ý thay thế Liên bang Xô viết trở thành nhà cung cấp viện trợ chính, với hơn 400 triệu dollar hỗ trợ nhân đạo hàng năm. Từ năm 2007, Triều Tiên cũng nhận được các khoản cung cấp dầu nhiên liệu nặng và hỗ trợ kỹ thuật lớn như được cam kết trong khuôn khổ các cuộc đàm phán sáu bên. Triều Tiên là nước nhận viện trợ lương thực lớn thứ hai thế giới năm 2005, và vẫn ở trong tình trạng thiếu lương thực kinh niên.

Quan hệ với chủ nghĩa Marx - Lenin

Năm 1972, Chủ thể đã thay thế chủ nghĩa Marx Lenin trong hiến pháp sửa đổi của CHDCND Triều Tiên trở thành ý thức hệ nhà nước chính thức, đây là một sự phản kháng trước cuộc chia rẽ Trung-Xô. Tuy nhiên Chủ thể được định nghĩa như một cách áp dụng sáng tạo Chủ nghĩa Marx - Lenin. Kim Chính Nhật cũng giải thích rằng Juche không phải có nguồn gốc từ Triều Tiên và rằng trong khi vạch ra tư tưởng này ông chỉ chú trọng tới định hướng kế hoạch hoá vốn có của tất cả các quốc gia theo chủ nghĩa Marx - Lenin.

Sau sự sụp đổ năm 1991 của Liên bang Xô viết, nước cung cấp viện trợ kinh tế lớn nhất cho Triều Tiên, mọi điều liên quan tới chủ nghĩa Marx - Lenin bị xoá bỏ trong lần sửa đổi hiến pháp năm 1998. Nhưng chủ nghĩa Marx - Lenin vẫn thỉnh thoảng được sử dụng, ví dụ chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Tuy nhiên, sự thiết lập học thuyết Songun hồi giữa thập niên 1990 đã chính thức chỉ rõ quân đội, chứ không phải giai cấp vô sản hay giai cấp công nhân, là lực lượng cách mạng chính ở CHDCND Triều Tiên.

Nhiều nhà báo, nhà bình luận và học giả bên ngoài Triều Tiên so sánh Chủ thể với chủ nghĩa Stalin và gọi Triều Tiên là một quốc gia kiểu Stalin. Một số chuyên gia tuy vậy đã bác bỏ và tìm cách xếp Triều Tiên như một nhà nước nghiệp đoàn (Bruce Cumings), phát xít (Brian Myers), du kích (Wada Haruki), quân chủ (Dae Sook-suh), tư bản mới (Andrei Lankov), và chính trị thần quyền (Han S. Park, Christopher Hitchens). Những người từng đưa ra những tranh cãi có điều kiện rằng Triều Tiên là một chế độ Stalin gồm Charles Armstrong, Adrian Buzo, Chong-sik Lee, và Robert Scalapino.

Các bài viết và bài nói về chính sách của Kim Nhật Thành từ thập niên 1940 và 1950 xác định rằng chính phủ Triều Tiên chấp nhận lý thuyết năm 1924 của Joseph Stalin về chủ nghĩa xã hội trong một quốc gia và mô hình phát triển kinh tế tự cung tự cấp tập trung hoá của nó. Chính Kim Nhật Thành là một người hâm mộ cuồng nhiệt Stalin. Sau cái chết của Stalin ngày 5 tháng 3 năm 1953, lãnh tụ CHDCND Triều Tiên đã viết một thông cáo đầy cảm xúc ca ngợi Stalin với tiêu đề "Stalin là cảm hứng của những dân tộc đang đấu tranh cho tự do và độc lập của mình" trong một bản thông cáo đặc biệt của tờ Rodong Sinmun, cơ quan tuyên ngôn của Đảng Lao động Triều Tiên, (10 tháng 3 năm 1953), đoạn đầu như sau:

"Stalin đã qua đời. Trái tim nồng nhiệt của vị lãnh tụ vĩ đại của nhân loại tiến bộ đã ngừng đập. Tin buồn này đã đến khắp đất nước Triều Tiên, như một tiếng sét, một sự cay đắng với hàng triệu con tim nhân dân. Binh sĩ Quân đội Nhân dân Triều Tiên, công nhân, nông dân và sinh viên cũng như tất cả những người dân ở cả Nam và Bắc bán đảo Triều Tiên, đã nghe tin buồn này với sự tiếc thương sâu sắc. Tổ quốc Triều Tiên bày tỏ sự đau buồn, và những bà mẹ những người đã cạn kiệt nước mắt khóc than cho những đứa con đã mất trong những trận bom của bè lũ không quân [Mỹ] lại bật lên lần nữa."

Khi việc xoá bỏ tệ sùng bái cá nhân sau cái chết của Stalin được tuyên bố năm 1956 trong Đai hội lần thứ XX của Đảng Cộng sản Liên Xô, chính quyền nhà nước CHDCND Triều Tiên đã chấm dứt việc công khai ca ngợi các lãnh tụ Xô viết. Nhưng chế độ này từ chối đi theo mô hình cải cách chính trị Liên Xô, mà họ coi là chủ nghĩa xét lại hiện đại, hay gia nhập Hội đồng Tương trợ Kinh tế (COMECON), tổ chức thương mại quốc tế chính của các quốc gia Marx - Lenin phụ thuộc vào sự phát triển kinh tế của Liên Xô. Hiện tại, chính phủ Triều Tiên không công nhận sự liên quan giữa Chủ thể và các tư tưởng của Stalin, dù thỉnh thoảng cũng có để cập đến về sự xuất sắc chính trị được cho là của ông ta.

Dù ảnh hưởng của Mao Trạch Đông không được chính thức thừa nhận ở Triều Tiên, các nhà tư tưởng của Đảng Lao động Triều Tiên và những tác giả các bài phát biểu đã bắt đầu công khai sử dụng các tư tưởng của Mao, như ý tưởng tự cải tạo, trong thập niên 1950 và 1960. Các lý thuyết của Mao về nghệ thuật cũng bắt đầu gây ảnh hưởng tới âm nhạc Triều Tiên trong thời gian này. Những phát triển này xảy ra như một kết quả của sự ảnh hưởng từ sự chiếm đóng của Quân đội Trung Quốc trong năm năm sau cuộc Chiến tranh Triều Tiên, cũng như trong thời kỳ chia rẽ Trung-Xô khi Kim Nhật Thành ủng hộ Mao chống lại tiến trình phi Stalin hoá ở Liên Xô. Kim Nhật Thành đã từng đi học trung học tại Mãn Châu, ông rành tiếng Trung Quốc, và từng là một du kích quân thuộc Đảng Cộng sản Trung Quốc từ khoảng năm 1931-1941. Chế độ Kim Nhật Thành thời hậu chiến cũng đã ganh đua cùng cuộc Đại Nhảy Vọt của Mao, lý thuyết Mass line (qunzhong luxian) của ông, và truyền thống du kích. Tuy nhiên, Juche không chính thức là một sự chia sẻ niềm tin của Mao vào nông dân hơn so với tầng lớp công nhân và người dân thường tại các thành phố.

Sau khi Mao chết, các chính sách chủ nghĩa xã hội tự cấp tự túc dựa trên nông dân của Mao bị loại bỏ ở Trung Quốc. Đặng Tiểu Bình đưa ra chương trình Bốn hiện đại hoá năm 1978 và mở cửa cải cách kinh tế cho Trung Quốc du nhập vào các yếu tố của kinh tế thị trường. Lý thuyết Đặng Tiểu Bình được chính thức áp dụng trong thập niên 1980. Dù quan hệ Bắc Kinh-Bình Nhưỡng khá thân thiết trong giai đoạn này, chế độ Triều Tiên đã lưỡng lự trong việc chấp nhận chính sách mở cửa và mô hình hiện đại hoá kinh tế của Trung Quốc, vì giới lãnh đạo nước này sợ những cải cách như vậy sẽ làm tổn hại tới tư tưởng Chủ thể và dẫn tới sự bất ổn chính trị và các sự kiện tương tự như Những cuộc phản kháng trên Quảng trường Thiên An Môn năm 1989 (Lee, p. 1998, 199). Sau sự suy tàn và sụp đổ của Liên bang Xô viết cùng Khối Đông Âu trong giai đoạn 1989 và 1991, cùng với sự mất đi nguồn viện trợ kinh tế, Triều Tiên bắt đầu thực hiện học tập mô hình Trung Quốc một cách thận trọng, có lựa chọn và mang tính thực nghiệm.

Luật Liên doanh năm 1984 là một trong những nỗ lực đầu tiên của Triều Tiên học theo Đặng trong những nỗ lực nhằm thu hút nguồn vốn nước ngoài vào nền kinh tế kế hoạch hoá của Triều Tiên. Tiếp sau hành động này là việc thành lập Đặc khu kinh tế Thâm Quyến. Triều Tiên đã thiết lập Khu kinh tế đặc biệt kiểu tư bản đầu tiên của mình năm 1991, Đặc khu kinh tế Rajin-Sonbong. Hiến pháp Chủ thể năm 1998 cũng được viết với các điều khoản bảo vệ quyền sở hữu cá nhân và các doanh nghiệp liên doanh với các nước tư bản, tạo điều kiện cho sự thành lập Viện Nghiên cứu Chủ nghĩa Tư bản tại Bình Nhưỡng năm 2000, và cho phép cải cách giá và tiền lương ngày 1 tháng 7 năm 2002. Lý thuyết Đặng Tiểu Bình chấp nhận sự thị trường hoá nền kinh tế Trung Quốc như là "Chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc" hay một nền "Kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa," và tư tưởng Chủ thể của Triều Tiên đã hợp lý hoá những cải cách đó dưới ý tưởng "chủ nghĩa xã hội theo kiểu của chúng ta."

Về vai trò nhà nước-quốc gia trong Chủ thể, theo Kim Nhật Thành "Về các vấn đề của giai đoạn chuyển tiếp từ chủ nghĩa tư bản sang chủ nghĩa xã hội và chuyên chính vô sản" (1967) và "Về việc bảo tồn bản sắc chủ thể và bản sắc quốc gia của cách mạng và xây dựng" (1997) của Kim Chính Nhật, mục tiêu của cách mạng và xây dựng theo Chủ thể là việc thiết lập chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản bên trong biên giới nhà nước CHDCND Triều Tiên. Trái ngược với các dự báo cổ điển của Chủ nghĩa Marx, Chủ thể cũng cho rằng người Triều Tiên là một cộng đồng quốc gia dựa trên dân tộc, rằng nhà nước-quốc gia Triều Tiên sẽ tồn tại mãi mãi, và rằng người Triều Tiên sẽ luôn sống tại Triều Tiên và nói tiếng Triều Tiên.

Dù có tính chất chủ nghĩa quốc gia của Chủ thể, các nhà tư tưởng Triều Tiên đã cho rằng các quốc gia khác có thể và cần phải học ở Juche để áp dụng các nguyên tắc của nó vào điều kiện của nước mình. Chính phủ Triều Tiên chấp nhận rằng Juche giải quyết các vấn đề từng được xem xét trong Chủ nghĩa Marx cổ điển và những phát triển sau đó thành Chủ nghĩa Marx - Lenin, nhưng hiện đã tách khỏi và thậm chí từ bỏ một số khía cạnh của các học thuyết chính trị đó. Quan điểm chính thức như được đề cập trong bài nói "Triết học chủ thể là một triết học cách mạng nguyên thủy" (1996) rằng Chủ thể là một tư tưởng hoàn toàn mới do Kim Nhật Thành tạo ra, và Kim không hề phụ thuộc vào chủ nghĩa Marx cổ điển. Vì thế, Hiến pháp CHDCND Triều Tiên không đề cập đến Chủ nghĩa Marx - Lenin, mà đưa vào toàn bộ phần mở đầu bằng các phát biểu về Kim Nhật Thành.

Tuy tư tưởng Chủ thể được sáng tạo với các đặc điểm quốc gia riêng biệt của Triều Tiên, trái ngược với việc tuân thủ quan điểm của chủ nghĩa Marx cổ điển về chủ nghĩa xã hội thế giới, chính phủ CHDCND Triều Tiên thực tế đề cập tới các cá nhân theo chủ nghĩa quốc tế Karl Marx và Frederick Engels, người tiếp nối họ Vladimir Lenin, và Joseph Stalin như những lãnh tụ đáng chú ý của phong trào chủ nghĩa xã hội ở thế kỷ XIX và XX trước sự xuất hiện của Chủ thể năm 1955. Trái lại, chủ nghĩa Mao hiếm khi được đề cập, và tư tưởng cải cách kinh tế của Đặng Tiểu Bình nói chung bị cấm đoán toàn bộ. Ngoài ra, các tác phẩm chủ nghĩa Marx nói chung bị hạn chế với các đọc giả bình thường ở Triều Tiên.

Chỉ trích

Nền kinh tế Triều Tiên phụ thuộc nặng vào nhập khẩu và viện trợ nước ngoài cả trước và sau sự sụp đổ của Khối thương mại Cộng sản. Họ cũng tuyên bố rằng các ý tưởng về người dân không hề có giá trị trong việc thiết lập chính sách, vốn nằm dưới quyền kiểm soát độc đoán của Kim Chính Nhật. Nhà lý luận hàng đầu về học thuyết Chủ thể Hwang Jang-yop đã gia nhập phe chỉ trích từ khi đào tẩu sang miền Nam, dù ông vẫn giữ niềm tin ở Ý tưởng Chủ thể như ông hiểu nó. Nhà khoa học chính trị Han S. Park trong cuốn sách Juche: The Politics of Unconventional Wisdom (2002) của mình và nhà lý luận Thomas J. Belke trong cuốn Juche: A Christian Study of North Korea's State Religion (1999) liên hệ Juche với một phong trào tôn giáo.

Tại Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa và Việt Nam, các quốc gia đã rời bỏ các định chế độc đoán cá nhân của nhà nước, Chủ thể bị coi là một ý tưởng kỳ cục trên nhiều cộng đồng internet và đã trở thành chủ đề trào phúng của một đạo diễn có ảnh hưởng là Hồ Ca. Chủ thể bị một số người coi là một sự cực đoan thời hậu Maoist đưa các vị độc tài Triều Tiên lên vị thế như thần linh, trong khi những người khác coi đó là một sự học tập Chủ nghĩa Mao. Bởi tình trạng tư tưởng Juche và sự tích hợp chủ nghĩa quốc gia Triều Tiên của nó, đã có thông báo rằng Triều Tiên tiếp tục bỏ qua những sự đóng góp của Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc trong cuộc Chiến tranh Triều Tiên.

Tại các quốc gia khác

Trong thời Chiến tranh Lạnh, CHDCND Triều Tiên đã quảng bá Juche và nguyên tắc "tự lực" như một đường hướng cho các quốc gia khác, đặc biệt là các nước thuộc thế giới thứ ba, để phát triển nền kinh tế của họ. Chủ tịch România Nicolae Ceauşescu cũng ấn tượng bởi sự nhất quán ý tưởng và sự sùng bái cá nhân ở Triều Tiên trong chuyến thăm châu Á của ông năm 1971, và đã bắt đầu chiến dịch hệ thống hoá của mình ngay sau đó với các đặc điểm của Juche.

Chính phủ CHDCND Triều Tiên tổ chức buổi hội thảo quốc tế đầu tiên về Tư tưởng Chủ thể vào tháng 9 năm 1977. Các nhóm nghiên cứu Chủ thể hiện có ở nhiều quốc gia trên thế giới. Hãng Thông tấn Trung ương Triều Tiên và đài Tiếng nói Triều Tiên thỉnh thoảng có dẫn lời tuyên bố của các nhóm đó. Viện Tư tưởng Chủ thể Quốc tế tại Nhật Bản và Hiệp hội Hữu nghị Triều Tiên tại Tây Ban Nha là hai nhóm có ảnh hưởng nhất. Tương tự, tại Đức có một tổ chức ủng hộ chủ nghĩa Stalin, được gọi là Partei der Arbeit Deutschlands (PdAD, 'Đảng Lao động Đức'). Đảng này liên kết chặt chẽ với Gesellschaft zum Studium und Verbreitung der Dschutsche-Ideologie in Deutschland ('Hội nghiên cứu và phổ biến tư tưởng Juche tại Đức'). Cả hai đều do [http://de.wikipedia.org/wiki/Michael_Koth Michael Koth] lãnh đạo, ông này sau đó đã đi theo các khuynh hướng Phát xít mới. Kim Chính Nhật đã nhấn mạnh rằng các quốc gia khác không nên áp dụng Juche một cách máy móc, mà phải sử dụng các biện pháp thích hợp với tình hình.

Một đảng Cộng sản Chủ thể Pháp đã được thành lập tháng 5 năm 2009.

Lịch

Chính phủ CHDCND Triều tiên và các tổ chức liên kết sử dụng một biến thể của Tây lịch, gọi là lịch Chủ thể, tương tự như cách dùng niên hiệu của thời phong kiến trước kia. Lịch Chủ thể này lấy ngày 15 tháng 4 năm 1912, tức ngày sinh của Kim Nhật Thành là năm thứ nhất và các năm kế tiếp đánh số thứ tự theo đó. Lịch này được áp dụng bắt đầu từ năm 1997, đặt lại là "năm Chủ thể thứ 86".

Lịch Chủ thể chỉ khác Tây lịch ở số năm trong khi ngày và tháng thì giữ nguyên như Tây lịch. Khi dùng thì năm Tây lịch được ghi kèm theo năm Chủ thể ví dụ như 27 tháng 6 năm 2007 Juche 96. Các ấn phẩm ở Triều Tiên thường đặt năm Chủ thể trước năm Tây lịch: Chủ thể 96 (2007). Phép đặt năm này từng xuất hiện ở hệ thống niên hiệu Nhật Bản (Nengo) và trong lịch Dân quốc sử dụng tại Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan), chỉ khác là lịch Chủ thể dựa trên ngày sinh của một cá nhân. Trường hợp ngẫu nhiên là năm lịch Juche, lịch Dân quốc của Đài Loan, và giai đoạn Taishō của Nhật Bản lại ăn khớp với nhau dù không có liên hệ. Dư luận trong giới chống lại họ Kim thì cho rằng lịch Chủ thể căn cứ trên ngày sinh Kim Nhật Thành phản ảnh truyền thống tôn sùng cá nhân của các triều đại phong kiến ngày xưa vốn đặt niên hiệu theo vị quân vương sáng lập chứ thật ra không mang tính cách mạng tư tưởng dựa trên học thuyết chính trị như chính phủ Triều Tiên tuyên bố.

Theo Cơ quan Tin tức Trung ương Triều Tiên, Uỷ ban Trung ương Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên đã lập ra một loạt quy định liên quan tới việc sử dụng lịch Chủ thể ngày 25 tháng 8 năm 1997. Trong trường hợp một ngày xảy ra trước năm 1912, Lịch Gregorian được sử dụng, nên không có nguyên tắc năm Chủ thể "âm", hay "Trước Chủ thể". Ví dụ, năm 1682 vẫn được gọi là "1682", trong khi năm 2009 sẽ được viết là Juche 98, 2009 hay Chủ thể 98 (2009).

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tư tưởng Juche** (Hangul: 주체); (phát âm trong tiếng Triều Tiên) (主體: âm Hán Việt: Chủ thể) hay **Tư tưởng Kim Nhật Thành** là một hệ tư tưởng chính thức của Nhà nước Cộng hòa
**Tháp Chủ Thể**, tên chính thức là **Tháp tư tưởng Chủ thể**, ), là một đài kỷ niệm tại Bình Nhưỡng, Bắc Triều Tiên. Tháp được đặt tên tư tưởng chủ thể (juche), phát triển
nhỏ|Chân dung [[Chủ tịch Hồ Chí Minh]] **Tư tưởng Hồ Chí Minh** là một hệ thống quan điểm và tư tưởng của Hồ Chí Minh trong sự nghiệp cách mạng của ông được Đảng Cộng
**Lịch sử tư tưởng kinh tế** là lịch sử của các nhà tư tưởng và học thuyết kinh tế chính trị và kinh tế học từ thời cổ đại đến ngày nay. Lịch sử tư
**Chế độ tự cung tự cấp**, với tư cách là một lý tưởng hoặc cách thức, được chấp nhận bởi một loạt các hệ tư tưởng và phong trào chính trị, đặc biệt là các
**Chủ nghĩa Marx–Lenin** hay **chủ nghĩa Marx–Engels–Lenin** là thuật ngữ chính trị để chỉ học thuyết do Karl Marx và Friedrich Engels sáng lập và được Vladimir Ilyich Lenin phát triển kế thừa, được coi
**Tư tưởng Mao Trạch Đông** (Trung văn phồn thể: 毛澤東思想; Trung văn giản thể: 毛泽东思想; âm Hán Việt: Mao Trạch Đông tư tưởng), hay còn gọi là **chủ nghĩa Mao** (), là kết quả của
nhỏ|Bức khắc đá thư pháp 「禮運大同篇」của 張炳煌 tại Trụ sở chính quyền thành phố [[Đài Bắc]] nhỏ|340x340px|Thiên hạ vi công (thiên hạ là của chung) “天下為公” là một trong những lý luận chính trị chủ
thumb|right|Các lãnh đạo của những người theo chủ nghĩa Trotsky [[Đối lập Cánh tả ở Moscow, 1927. Ngồi: Leonid Serebryakov, Karl Radek, Leon Trotsky, Mikhail Boguslavsky, và Yevgeni Preobrazhensky. Đứng: Christian Rakovsky, Yakov Drobnis, Alexander
Trong các hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh rất chú trọng đến giai cấp công nhân. Vì là người theo chủ nghĩa Marx, trong đó xem lãnh đạo cách mạng là giai
Ngoài Tư tưởng Hồ Chí Minh về công nhân, Tư tưởng Hồ Chí Minh về nông dân cũng rất quan trọng. Theo chủ nghĩa cộng sản, trong đó vấn đề nông dân và ruộng đất
**Phái chạy theo con đường tư bản chủ nghĩa** (; còn gọi là **Phái đương quyền chạy theo con đường tư bản chủ nghĩa** ) là thuật ngữ tư tưởng Mao Trạch Đông dùng để
**Tư tưởng tự do** là một quan điểm triết học khẳng định rằng chân lý nên được hình thành trên cơ sở khoa học và lôgic và không nên bị ảnh hưởng bởi tình cảm,
**Ô chữ _The New York Times**_ là trò chơi ô chữ kiểu Mỹ phát hành hàng ngày bởi tờ báo _The New York Times_. Ô chữ được phát hành trực tuyến trên website và ứng
Sự Phát Triển Của Tư Tưởng Ở Việt Nam Từ Thế Kỷ XIX Đến Cách Mạng Tháng Tám - Tập 2 Một ý thức tư tưởng có thể và thường sống lâu dài hơn cơ
**Lâm Tử Tường** (chữ Hán: 林子祥; bính âm: Lin Zi Xiang; tiếng Anh: **George Lam**), thường được gọi với nghệ danh **Lâm**, là một ca sĩ hát nhạc Cantopop kỳ cựu và là diễn viên
:_Bài này nói về chủ nghĩa cộng sản như một hình thái xã hội và như một phong trào chính trị. Xin xem bài hệ thống xã hội chủ nghĩa, đảng cộng sản và chủ
**Chủ nghĩa tự do** là một hệ tư tưởng, quan điểm triết học, và truyền thống chính trị dựa trên các giá trị về tự do và bình đẳng. Chủ nghĩa tự do có nguồn
**_Về việc loại bỏ chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa hình thức và thiết lập chủ thể trong công tác tư tưởng_**, còn được gọi là **_Bài diễn văn Juche_**, là một bài diễn văn
**Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên** (), gọi ngắn là **Triều Tiên** (, MR: Chosŏn) hay **Bắc Triều Tiên** (, MR: Puk-chosŏn) là một quốc gia ở Đông Á, tạo thành nửa phía
right|Biểu tình của những người theo chủ nghĩa xã hội vào [[Ngày Quốc tế Lao động 1912 tại Union Square ở Thành phố New York]] **Chủ nghĩa xã hội** (; ; Hán: 社會主義; Nôm: 主義社會)
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Flag_of_the_Republican_People's_Party_(Turkey).svg|nhỏ|261x261px|Lục Tiễn **Chủ nghĩa Kemal** (tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: _Kemalizm_), **chủ nghĩa Atatürk** (_Atatürkçülük, Atatürkçü düşünce_) hay **Lục Tiễn** (_Altı Ok_) là tư tưởng kiến quốc của Nước Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ, theo Mustafa
**Nhĩ Chu Thế Long** (chữ Hán: 尒朱世隆, 500 – 532), tên tự là **Vinh Tông**, người Bắc Tú Dung xuyên , dân tộc Yết đã Tiên Ti hóa, thành viên gia tộc Nhĩ Chu, tướng
nhỏ|Josef Stalin, ca. 1942 **Chủ nghĩa Stalin** là từ được dùng khi nói tới lý thuyết và thực hành của Stalin tạo ra trong thời kỳ lãnh đạo của Josef Stalin (1927–1953) ở Liên Xô
**Chủ nghĩa nhân bản Marxist** là một trường phái tư tưởng chính trị bắt nguồn từ sự diễn giải các tác phẩm của Karl Marx. Trường phái này tìm lời giải đáp cho những câu
thumb|Tượng [[Kim Il-Sung|Kim Il-sung (trái) và Kim Jong-il tại Bình Nhưỡng.]] **Sùng bái lãnh tụ ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên** đối với gia đình họ Kim đang thống trị, đã diễn
**Tứ tượng** (, nghĩa đen là "bốn biểu tượng") là bốn sinh vật thần thoại đại diện cho bốn phương trong văn hóa và thần thoại Trung Hoa và các nước Đông Á, bao gồm
Vào ngày 20 tháng 3 năm 2024, truyền thông nhà nước Việt Nam đưa tin về việc Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định cho phép Võ Văn Thưởng, người giữ chức Ủy viên
**Hậu Chu Thế Tông** (chữ Hán: 後周世宗, 921 – 959), tên thật là **Sài Vinh** (柴榮) và sau đó đổi thành **Quách Vinh** (郭榮). Ông là Hoàng đế thứ hai của nhà Hậu Chu, trị
**Chủ nghĩa Hậu Marxist** (_Post-Marxism_) là một hệ thống lý luận triết học - lịch sử - kinh tế có nguồn gốc từ Chủ nghĩa Marx. Về mặt lý luận, chủ nghĩa Hậu Marxist phủ
**Chủ nghĩa Marx phương Tây** là một dòng Marxist nổi lên ở Tây Âu và Trung Âu sau cuộc cách mạng Tháng Mười năm 1917 và sự lên ngôi của chủ nghĩa Lenin ở Nga.
nhỏ|347x347px|_Florianek, tượng chú lùn đứng trên ống khói là một trong những tượng đầu tiên tại Wroclaw. Người ta đồn rằng, chú lùn Florianek mang lại hạnh phúc cho mọi người_. **Tượng chú lùn ở
**Chủ nghĩa tân phát xít** là một hệ tư tưởng sau Thế chiến II bao gồm các yếu tố quan trọng của chủ nghĩa phát xít. Chủ nghĩa tân phát xít thường bao gồm chủ
thumb|Hiện tượng thiên thể trên bầu trời thành phố Nürnberg của Đức vào ngày 14 tháng 4 năm 1561, như được in trong tờ cáo thị kèm hình minh họa trong cùng tháng **Hiện tượng
Chữ viết là công cụ để ghi chép lời nói, ngôn ngữ và giao lưu tư tưởng. Vì thế, cách viết chữ Thảo đơn giản đã trở thành cách viết chữ quan trọng trong đời
**Tư tưởng Kaysone Phomvihane** () là hệ tư tưởng chính trị dựa trên chủ nghĩa Mác–Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh với triết lý chính trị do Kaysone Phomvihane, nhà lãnh đạo đầu tiên
Trong lịch sử từ **Chủ nghĩa phản xét lại** được dùng trong từ điển Cộng sản để mô tả những chống đối các dự định sửa đổi, hay từ bỏ những lý thuyết cách mạng
Việc **Nguyễn Xuân Phúc từ chức Chủ tịch nước** được báo chí Việt Nam loan tin vào ngày 17 tháng 1 năm 2023, trước thềm Tết Nguyên Đán. Trước đó vài ngày ông Phúc vẫn
Hàn Phi Tử Bìa Cứng Hàn Phi sống cuối đời Chiến Quốc, trong giai đoạn Tần Thủy Hoàng đang thống nhất Trung Hoa. Ông thuộc dòng dõi quý tộc nước Hàn được gọi là công
**Đảng Dân chủ Xã hội Triều Tiên** là một trong những đảng phái chính trị của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, là liên minh chính trị với Đảng Lao động Triều Tiên.
nhỏ|[[Ze'ev Jabotinsky]] **Chủ nghĩa phục quốc Do Thái xét lại** (tiếng Hebrew: ציונות רוויזיוניסטית) hay **Chủ nghĩa Zion xét lại** là một phong trào trong Chủ nghĩa phục quốc Do Thái do Ze'ev Jabotinsky khởi
**Chủ nghĩa vô trị** hay **chủ nghĩa vô chính phủ** là một trường phái triết học và phong trào chính trị chủ trương hoài nghi bất cứ sự hợp thức hóa nào về chính quyền,
nhỏ|phải|Hoa hồng đỏ, biểu trưng của phong trào dân chủ xã hội. **Dân chủ xã hội** là một hệ tư tưởng kinh tế, triết lý chính trị xã hội của chủ nghĩa xã hội ủng
**Chủ nghĩa tự do hiện đại Hoa Kỳ** là phiên bản chủ đạo của chủ nghĩa tự do tại Hoa Kỳ. Nó kết hợp ý tưởng của tự do dân sự (_civil liberty_) và bình
**Lịch sử thế giới** (còn gọi là **lịch sử loài người** và **lịch sử nhân loại**) là ghi chép về hành trình phát triển của nhân loại từ thời tiền sử cho đến hiện tại.
**Chủ nghĩa bảo thủ** (tiếng Pháp: _conservatisme_, tiếng Anh: _conservatism_, gốc từ tiếng Latinh _conservo_ — giữ gìn) là các triết lý chính trị và xã hội thúc đẩy các thiết chế xã hội truyền
**Chủ nghĩa tự do cá nhân** hay **chủ nghĩa tự do ý chí** (tiếng Anh: _libertarianism_, từ tiếng Latinh: _liber_, tự do) là học thuyết triết học chính trị ủng hộ tự do như là
thumb|right|[[Benito Mussolini (trái) và Adolf Hitler (phải), hai thủ lĩnh phát xít.]] **Chủ nghĩa phát xít** là một hệ tư tưởng chính trị và phong trào chính trị cực hữu đặc trưng bởi sức mạnh
**Thế Lữ** (10 tháng 6 năm 19073 tháng 6 năm 1989), tên khai sinh là **Nguyễn Đình Lễ** (sau đó đổi thành **Nguyễn Thứ Lễ**), là một nhà thơ, nhà văn kiêm nhà soạn kịch
thumb|_Eduskunta_, quốc hội của [[Đại công quốc Phần Lan (lúc đó là một phần của Nga), có quyền bầu cử phổ thông vào năm 1906. Một số tiểu bang và vùng lãnh thổ có thể