Karl Dönitz (; ngày 16 tháng 9 năm 1891 – ngày 24 tháng 12 năm 1980) là một đô đốc người Đức đóng vai trò quan trọng ở lịch sử hải quân của chiến tranh thế giới thứ hai. Dönitz tiếp nối Adolf Hitler với tư cách người đứng đầu nhà nước Đức.
Ông bắt đầu sự nghiệp ở hải quân Đế quốc Đức (Kaiserliche Marine) trước chiến tranh thế giới thứ nhất. Năm 1918 ông là chỉ huy tàu ngầm bị bắn chìm bởi Hải quân Anh. Donitz sau đó bị bắt làm tù binh. Trong thời gian làm tù binh chiến tranh, Dönitz đã sáng tạo ra chiến thuật tàu ngầm mà sau này ông gọi nó là Rudeltaktik (thường được gọi là chiến thuật bầy sói), theo đó cần tập trung các tàu ngầm để cùng tấn công các nhóm tàu vận tải của đối phương thay vì đi đơn lẻ từng chiếc. Vào thời gian đầu của Chiến tranh thế giới thứ hai, ông là sĩ quan tàu ngầm cao cấp trong Hải quân Đức Quốc xã (Kriegsmarine). Tháng 1 năm 1943, Dönitz được thăng quân hàm Thủy sư Đô đốc và thay thế cho Erich Raeder trở thành Tư lệnh lực lượng Hải quân Đức Quốc xã.
Vào ngày 30 tháng 4 năm 1945, sau khi Hitler tự sát và theo di nguyện trước khi chết của ông, Dönitz được chỉ định làm người đứng đầu nhà nước, kiêm nhiệm chức vụ Tổng thống Đức và Tổng Tư lệnh tối cao quân lực. Vào ngày 7 tháng 5 năm 1945, ông ra lệnh cho Alfred Jodl, Tham mưu trưởng Hành quân của Bộ chỉ huy tối cao quân lực (OKW) ký Văn kiện đầu hàng của Đức tại Reism, Pháp. Dönitz sau đó giữ vai trò làm người đứng đầu Chính phủ Flensburg cho đến khi chính phủ này bị Lực lượng đồng minh tuyên bố giải thể vào ngày 23 tháng 5. Tại phiên tòa xét xử tội phạm chiến tranh ở Nuremberg, Dönitz bị kết án là tội phạm chiến tranh và bị tuyên phạt 10 năm tù giam. Sau khi ra tù, ông sống bình lặng tại vùng quê gần Hamburg cho đến khi qua đời năm 1980.
Tuổi trẻ và sự nghiệp
Dönitz sinh ngày 16 tháng 9 năm 1891 tại thị trấn Grünau, gần Berlin với mẹ ông là bà Anna Beyer và cha, ông Emil Dönitz, một kỹ sư. Karl có một người anh trai. Năm 1910, Dönitz gia nhập Lực lượng Hải quân Đế quốc Đức.
Vào ngày 27 tháng 9 năm 1913, Dönitz được phong quân hàm Thiếu úy trong Lực lượng Hải quân. Khi chiến tranh thế giới thứ nhất bắt đầu, ông phục vụ trên tàu tuần dương hạng nhẹ SMS Breslau chiến đấu trên Địa Trung Hải. Tháng 8 năm 1914, tàu Breslau và chiến hạm SMS Goeben được chuyển giao lại cho Hải quân Đế quốc Ottoman; hai tàu sau đó đã được đổi tên thành Midilli và Yavuz Sultan Selim. Ngày 22 tháng 3 năm 1916, Dönitz được thăng quân hàm Trung úy. Khi tàu Midilli cập cảng để sửa chữa, Dönitz được giao nhiệm vụ tạm thời chỉ huy sân bay tại Dardanelles. Kể từ đó, ông đã đề nghị được thuyên chuyển công tác đến Lực lượng tàu ngầm, tuy nhiên phải mãi đến tháng 10 năm 1916 điều này mới diễn ra. Dönitz lúc đầu làm sĩ quan trinh sát trên tàu ngầm U-39, từ tháng 2 năm 1917 trở đi ông trở thành chỉ huy của tàu UC-25. Vào ngày 2 tháng 7 năm 1918, Dönitz trở thành chỉ huy tàu UB-68 tham chiến trên Địa Trung Hải. Vào ngày 4 tháng 10, sau khi gặp phải một số lỗi kỹ thuật, UB-68 đã bị Hải quân Anh đánh chìm, còn bản thân Dönitz bị bắt và giam giữ trên đảo Malta. Ông nhận ra rằng các tàu vận tải được sản xuất vào năm 1917 đã có khả năng ngăn ngừa được các cuộc tấn công của U-boat, qua đó kết thúc hy vọng vào chiến thắng trên biển của người Đức. Tuy nhiên Dönitz cũng nhận thấy rằng các tàu vận tải này có thể đánh phá thành công vào ban đêm với một số lượng lớn tàu U-boat.
Giữa hai cuộc thế chiến
Thế chiến thứ nhất kết thúc năm 1918, tuy nhiên Dönitz vẫn bị người Anh giam giữ. Đến tháng 7 năm 1920 ông mới được trở về nước Đức. Sau khi trở về nước, Dönitz tiếp tục phục vụ trong Lực lượng hải quân của Cộng hòa Weimar. Ngày 10 tháng 1 năm 1921, ông trở thành Đại úy. Dönitz chỉ huy các tàu phóng lôi, và được thăng quân hàm Thiếu tá vào ngày 1 tháng 11 năm 1928.
Ngày 1 tháng 9 năm 1933 Dönitz trở thành Trung tá hải quân và được giao chỉ huy tàu tuần dương Emden, nơi các học viên và chuẩn úy hải quân đã mất một năm trời đi biển để học cách điều khiển nó.
Năm 1935, Hải quân cộng hòa Weimar(Reichsmarine) được đổi tên thành Kriegsmarine bởi Đảng Quốc xã. Lúc ấy Đức vẫn bị cấm sở hữu tàu ngầm do các điều khoản của Hòa ước Versailles. Đến ngày 18 tháng 6 năm 1935, Vương quốc Anh và Đức ký kết Hiệp ước Hải quân Anh - Đức. Điều này cho phép nước Đức được sở hữu các loại tàu ngầm nhỏ. Vào ngày 1 tháng 9 năm 1935, Dönitz được thăng quân hàm Đại tá. Ông được giao chỉ huy đội tàu ngầm nhỏ đầu tiên của Đức, bao gồm các tàu U-7, U-8 và U-9. Người Anh khi ấy tin rằng tàu ngầm không còn là mối đe dọa với họ vì khi lặn xuống mặt nước chúng có thể được xác định bằng xung âm thanh qua việc sử dụng kỹ thuật sóng âm phản xạ (sonar) hoặc thiết bị chống tàu ngầm (ASDIC). Người Đức cũng có chung nhận định tương tự. Tuy nhiên, Dönitz đề xuất nên tấn công các đoàn tàu vận tải của đối phương vào ban đêm với đội tàu U-boat nổi trên mặt nước, nơi chúng có tốc độ nhanh hơn các tàu vận tải và bắn ngư lôi ở khoảng cách 600 yard (550 mét).
Học thuyết hải quân của Đức lúc bấy giờ, dựa trên học thuyết của Đô đốc Mỹ Alfred Mahan và được đông đảo hải quân các nước đón nhận, kêu gọi xây dựng một hạm đội tàu ngầm kết hợp với đầy đủ lực lượng trên mặt nước để đối phó với các tàu chiến của đối phương. Tháng 11 năm 1937, Dönitz thuyết phục các cấp trên về tính khả thi của việc tấn công các tàu thương mại, đồng thời ông cũng chịu sức ép cho việc thay đổi phần lớn các tàu trong Hạm đội Hải quân Đức lúc bấy giờ sang tàu ngầm U-boat. Dönitz biện hộ cho phương án tấn công các tàu thương mại (guerre de course), đồng thời chỉ ra rằng việc tiêu diệt các tàu chở dầu của Anh Quốc sẽ làm cạn kiệt nguồn nhiên liệu cho các tàu chiến của Hải quân Hoàng gia Anh. Cách hiệu quả nhất đó là dùng thủy lôi để bắn chìm các tàu này. Dönitz cũng tranh luận thêm rằng Hạm đội Đức với lực lượng 300 tàu U-boat kiểu VII mới có thể loại Anh ra khỏi vòng chiến.
Tổng thống Đức Quốc Xã
Dönitz ngưỡng mộ Hitler và ca ngợi những phẩm chất mà ông nhận thấy trong vai trò lãnh đạo của Adolf. Vào tháng 8 năm 1943, ông nhận xét; "bất cứ ai nghĩ rằng mình có thể làm tốt hơn Quốc trưởng là ngu ngốc." Mối quan hệ của Dönitz với Hitler được củng cố mãnh mẽ cho đến cuối cuộc chiến, đặc biệt là sau âm mưu ngày 20 tháng 7, vì các sĩ quan tham mưu hải quân không tham gia. Thậm chí, sau chiến tranh, Dönitz nói rằng ông không bao giờ có thể tham gia vào những kẻ chủ mưu chống lại Lãnh tụ.
Dönitz đã cố gắng giúp thấm nhuần tư tưởng Quốc Xã trong các sĩ quan của mình. Các sĩ quan hải quân được yêu cầu tham gia một khóa học giáo dục kéo dài 5 ngày về hệ tư tưởng Quốc xã. Lòng trung thành của Dönitz đối với Quốc trưởng là nguyên nhân khiến Hitler nhờ sự lãnh đạo của Dönitz, không bao giờ cảm thấy bị hải quân bỏ rơi. Để biết ơn, Hitler đã bổ nhiệm ông làm người kế nhiệm trước khi tự sát.
Từ giữa tháng 4 năm 1945, Dönitz và các thành phần còn lại của chính phủ Đế chế chuyển đến các tòa nhà của Doanh trại Stadtheide ở Plön. Trong di chúc và di chúc của mình, ngày 29 tháng 4 năm 1945, Hitler đã chỉ định người kế nhiệm Dönitz là Staatsoberhaupt (Nguyên thủ quốc gia), với các chức danh Reichspräsident (Tổng thống) và Tư lệnh tối cao của các lực lượng vũ trang. Tài liệu tương tự nêu tên Bộ trưởng Tuyên truyền Joseph Goebbels làm Người đứng đầu Chính phủ với chức danh Reichskanzler (Thủ tướng). Hơn nữa, Hitler tuyên bố cả Hermann Göring và Heinrich Himmler là những kẻ phản bội và khai trừ họ khỏi đảng. Ông đã tự sát vào ngày 30 tháng Tư.
Vào ngày 1 tháng 5, một ngày sau khi Hitler tự sát, Goebbels tự sát. Do đó, Dönitz trở thành đại diện duy nhất của chính quyền Đức Quốc xã. Vào ngày 2 tháng 5, chính phủ mới được thành lập tại vùng Flensburg-Mürwik, nơi Karl ở lại cho đến khi bị bắt vào ngày 23 tháng 5 năm 1945. Một ngày trước đó, Dönitz đã phát biểu trên đài phát thanh toàn quốc, trong đó ông thông báo về cái chết của Hitler và tuyên bố chiến tranh đã kết thúc.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Karl Dönitz** (; ngày 16 tháng 9 năm 1891 – ngày 24 tháng 12 năm 1980) là một đô đốc người Đức đóng vai trò quan trọng ở lịch sử hải quân của chiến tranh
**Trận chiến Đại Tây Dương** được xem là trận chiến kéo dài nhất trong lịch sử Chiến tranh thế giới thứ hai mặc dù có nhiều nhà sử học, nhà nghiên cứu hải quân của
**Chính phủ Flensburg** (tiếng Đức: _Flensburger Regierung_) là chính phủ cuối cùng của Đức Quốc xã do Đô đốc hải quân Đức Karl Dönitz lãnh đạo, đặt tại thành phố Flensburg. Chính phủ được thành
**Chiến dịch Praha** là chiến dịch lớn cuối cùng của Quân đội Liên Xô và các đồng minh tại châu Âu trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Diễn ra từ ngày 5 đến ngày
430x430px|thumb ## Sự kiện ### Tháng 1 *5 tháng 1 – Liên Xô công nhận chính quyền thân Liên Xô mới của Ba Lan. *7 tháng 1 – Tướng Bernard Montgomery (của Anh) tổ chức một buổi
Adolf Hitler là một chính trị gia người Đức, Lãnh tụ Đảng Quốc xã, Thủ tướng Đức từ năm 1933 đến năm 1945 và Führer (Quốc trưởng) của Đức từ năm 1934 đến năm 1945.
**Lớp tàu sân bay _Graf Zeppelin**_ là hai tàu sân bay của Hải quân Đức được đặt lườn vào giữa những năm 1930 như một phần của Kế hoạch Z nhằm tái vũ trang. Bốn
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Political_Testament_of_Adolph_Hitler_1945_page_1.jpg|nhỏ|Trang đầu của di chúc chính trị Adolf Hitler, thủ tướng và nhà độc tài Đức từ năm 1933 đến năm 1945, lập di chúc tại _Führerbunker_ vào ngày 29 tháng 4 năm 1945, một
right|thumb|Trang thứ ba và trang cuối cùng của văn bản [[đầu hàng vô điều kiện được ký tại Berlin ngày 9 tháng 5 năm 1945]] **Văn kiện Đầu hàng của Đức Quốc xã** (; ;
nhỏ|Quân kỳ và là cờ hiệu của Kriegsmarine **Wehrmacht** (tiếng Đức: _Lực lượng Quốc Phòng_) là tên thống nhất của các lực lượng vũ trang quân đội Đức Quốc xã từ năm 1935 đến năm
Tướng [[Alfred Jodl ký văn bản đầu hàng sơ bộ tại Reims]] phải|Văn kiện đầu hàng ký kết ngày 7 tháng 5 năm 1945 tại Reims **Ngày chiến thắng (8 tháng 5 năm 1945)** còn
**Hermann Wilhelm Göring** có tên phiên âm dựa theo tiếng Đức là **Héc-man Gơ-rinh** (hay **Goering**; ; 12 tháng 1 năm 1893 – 15 tháng 10 năm 1946) là một chính trị gia người Đức,
**_Graf Zeppelin_** là tàu sân bay duy nhất của Đức được hạ thủy trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, tiêu biểu phần nào cho những nỗ lực của Hải quân Đức để tạo ra
nhỏ|Ảnh chụp Hội đồng thẩm phán từ trên cao, năm 1945 **Phiên tòa Nürnberg** () là các phiên xét xử quân sự quân Đồng Minh mở ở Nürnberg, Đức theo luật quốc tế và luật
Hiệu kỳ của Thống chế Chỉ huy trưởng Bộ Tổng tư lệnh Quân lực của Đức Quốc xã (1941–1945) **Bộ Tổng tư lệnh Quân lực** (tiếng Đức: _Oberkommando der Wehrmacht_, , viết tắt **OKW**, ),
**_Downfall_** () là một bộ phim chiến tranh 2004 của đạo diễn Oliver Hirschbiegel, kể về mười ngày cai trị cuối cùng của Adolf Hitler và Đảng Quốc xã. Bộ phim được biên kịch và
**Tổng thống Đức** (, nghĩa đen là 'tổng thống của Reich') là nguyên thủ quốc gia của Đức theo Hiến pháp Weimar từ năm 1919 đến năm 1945, bao gồm các thời kỳ của Cộng
**Chiến dịch Berlin** là chiến dịch tấn công cuối cùng của Hồng quân Liên Xô trong Chiến tranh Xô-Đức. Tại chiến dịch này – diễn ra từ ngày 16 tháng 4 đến 9 tháng 5 năm
**Paul Joseph Goebbels** hay có tên phiên âm dựa theo tiếng Đức là **Giô-xép Gơ-ben** (; (29 tháng 10 năm 1897 – 1 tháng 5 năm 1945) là một chính trị gia người Đức giữ chức
**Wilhelm Bodewin Gustav Keitel** (22 tháng 9 1882 – 16 tháng 10 1946) là thống chế, chỉ huy trưởng Bộ tư lệnh tối cao (OKW) của quân đội Đức Quốc xã và bộ trưởng bộ
**HMS _Royal Oak_ (08)** là một thiết giáp hạm thuộc lớp _Revenge_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Được hạ thủy vào năm 1914 và hoàn tất vào năm 1916, _Royal Oak_ tham gia
**_Trong Đế chế Thứ Ba_** (; "Các ký ức") là một cuốn hồi ký được viết bởi Albert Speer, Bộ trưởng Vũ trang của Đức Quốc Xã từ năm 1942 đến năm 1945, phục vụ
**Chiến dịch Kerch-Eltigen** là một chiến dịch đổ bộ đường biển do Hồng quân Liên Xô tổ chức, diễn ra trong cuộc Chiến tranh Xô-Đức thuộc Chiến tranh thế giới thứ hai. Khởi sự ngày
**Gertraud** "**Traudl**" **Junge** (nhũ danh **Humps**; 16 tháng 3 năm 1920 - 10 tháng 2 năm 2002) là một biên tập viên người Đức, người từng là thư ký riêng cuối cùng của Adolf Hitler
Cuộc **Không chiến tại Anh Quốc** () là tên thường gọi của một cuộc không chiến dai dẳng giữa Đức Quốc xã và Anh Quốc vào mùa hè-thu năm 1940 trong Chiến tranh thế giới
**Alfred Jodl** (10 tháng 5 năm 1890 – 16 tháng 10 năm 1946) là sĩ quan chỉ huy cao cấp của quân đội Đức Quốc xã, giữ chức tư lệnh các chiến dịch của Bộ
**_U-31_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIA được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1936, nó đã thực
**_U-74_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIB được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã thực
nhỏ|[[Thống chế Pháp Jean-Baptiste Jourdan với gậy thống chế.]] nhỏ|Baton của [[Thống chế Pháp hiện đại.]] **Gậy thống chế** (tiếng Pháp: _baton_) là một vật dụng nghi lễ có hình dạng một cây gậy ngắn,
**Fedor von Bock** (3 tháng 12 năm 1880 – 4 tháng 5 năm 1945) là một Thống chế quân đội Đức thời Chiến tranh thế giới thứ hai. Ông đã đóng một vai trò quan
**Đảng Công nhân Đức Quốc gia Xã hội chủ nghĩa** ( - **NSDAP**), thường được gọi là **Đảng Quốc Xã** trong tiếng Việt, là đảng cầm quyền Đức trong thời kỳ Đức Quốc Xã. Lãnh
**_The World at War_** (1973-74) là một bộ phim truyền hình tài liệu Anh gồm 26 tập nêu lên những sự kiện trong Thế Chiến Thứ Hai. Tại thời điểm hoàn thành năm 1973, nó
**Richard Karl Freiherr von Weizsäcker** (; 15 tháng 4 năm 1920 – 31 tháng 1 năm 2015) là một chính trị gia (CDU). Từ 1 tháng 7 năm 1984 tới 2 tháng 10 năm 1990,
**USS _Burrows _(DE-105)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _Cannon_ từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba của
**Nội các Joseph Goebbels** là nội các được thành lập theo như ý nguyện trong di chúc của Adolf Hitler vào ngày 30 tháng 4 năm 1945. Trong di chúc, Hitler đã phong Đô đốc
**Đức Quốc Xã**, còn gọi là **Đệ Tam Đế chế** hay **Đế chế thứ ba** () hoặc với tên chính thức là **Đế chế Đức** (), là nước Đức trong thời kỳ 1933–1945 đặt dưới
**Flensburg** là một thành phố trong miền bắc của tiểu bang Schleswig-Holstein nằm ở cực bắc của nước Đức. Flensburg là thành phố lớn thứ ba của tiểu bang này sau Kiel và Lübeck. Flensburg
Tàu ngầm Type XXI là một lớp tàu ngầm diesel-điện của Đức Quốc xã trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. 118 chiếc tàu ngầm loại này đã được chế tạo hoàn thiện nhưng chỉ
**Tàu ngầm Klasse XXIII** "Elektroboot" là loại tàu ngầm ven bờ (coastal submarine) được thiết kế để hoạt động tại các vùng biển như: Biển Bắc, Biển Đen và Biển Địa Trung Hải, nơi mà
**Erich Johann Albert Raeder** (24 tháng 4 năm 1876 – 6 tháng 11 1960) là đại đô đốc chỉ huy hải quân Đức Quốc xã trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Năm 1943 ông
**_Admiral Scheer_** là một tàu tuần dương hạng nặng thuộc lớp _Deutschland_ đã phục vụ cùng Hải quân Đức Quốc xã trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Nguyên được người Đức xếp lớp như
Quân Đức diễn hành tại Paris **Mặt trận phía tây** của chiến trường châu Âu trong Chiến tranh thế giới thứ hai bao gồm các trận chiến trên lãnh thổ của Đan Mạch, Na Uy,
Lutz Graf Schwerin von Krosigk năm [[1947]] **Lutz Graf Schwerin von Krosigk** (tháng 8 năm 1887-4 tháng 3 năm 1977) là bộ trưởng tài chính Đế quốc Đức từ 1932 tới 1945, thủ tướng Đức
**_Emden_** là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đức, là chiếc duy nhất trong lớp của nó, và là tàu chiến đầu tiên được Đức chế tạo sau Chiến tranh Thế giới
nhỏ|223x223px|Quân phục Thống chế Đế chế nguyên bản của [[Hermann Göring trong Bảo tàng Không quân Đức ở Berlin.]] **Thống chế Đế chế** () là quân hàm cao nhất trong lực lượng Wehrmacht của Đức
**_U-125_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type IXC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-38_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Type IXA được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1938, nó đã thực
**_U-46_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIB được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1938, nó đã thực
**_I-30_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã
phải|thumb|Một bầy sói u-boat Đức dàn ngang để đón tàu của lực lượng Đồng minh. **Bầy sói** là chiến thuật tấn công hàng loạt nhằm đánh chìm các đoàn tàu vận tải Đồng minh được