✨Di chúc Hitler

Di chúc Hitler

liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Political_Testament_of_Adolph_Hitler_1945_page_1.jpg|nhỏ|Trang đầu của di chúc chính trị Adolf Hitler, thủ tướng và nhà độc tài Đức từ năm 1933 đến năm 1945, lập di chúc tại Führerbunker vào ngày 29 tháng 4 năm 1945, một ngày trước khi ông tự sát cùng với vợ mình, Eva Braun.

Di chúc chính trị của Hitler () gồm hai phần. Phần đầu phủ nhận cáo buộc gây chiến, bày tỏ lòng biết ơn đối với nhân dân Đức và kêu gọi họ tiếp tục đấu tranh. Phần hai tuyên bố Heinrich Himmler và Hermann Göring là những kẻ phản bội và vạch ra kế hoạch thành lập một chính phủ mới dưới quyền Karl Dönitz. Traudl Junge, thư ký của Hitler, cho biết Hitler đã ghi chép sẵn trước khi đọc di chúc và có khả năng là Joseph Goebbels giúp Hitler viết di chúc.

Hitler đọc cho Junge viết Di chúc chính trị và Di chúc riêng vào những ngày cuối đời của ông và ký hai di chúc vào ngày 29 tháng 4 năm 1945. Những tài liệu này hoàn toàn khác với một tài liệu gây tranh cãi có tên là Di chúc của Adolf Hitler.

Nội dung

Di chúc riêng

Hitler lập di chúc riêng lúc 04:00 ngày 29 tháng 4. Di chúc riêng thừa nhận cuộc hôn nhân của Hitler—nhưng không nêu tên Eva Braun—và tuyên bố rằng hai người thà chết chứ không chịu sự ô nhục của việc phế truất hoặc đầu hàng. Di chúc riêng yêu cầu hỏa táng thi thể của họ và phân chia di sản của Hitler như sau:

  • Bộ sưu tập nghệ thuật của ông được giao cho "một phong trưng bày ở quê hương Linz của tôi trên sông Danube;"
  • Những đồ vật "có giá trị tình cảm hoặc cần thiết để sống giản dị khiêm tốn" được chia cho "anh chị em", mẹ của Eva Braun và "các đồng nghiệp trung thành" như "các thư ký cũ" và bà quản gia [Anni] Winter; tuy nhiên, thư ký thân cận Martin Bormann "được phép lấy mọi đồ vật có giá trị tình cảm hoặc cần thiết để sống giản dị khiêm tốn".
  • Những di sản khác có giá trị được giao cho Đảng Quốc Xã. Trong trường hợp đảng không còn thì giao cho Nhà nước. Trong trường hợp Nhà nước cũng không còn thì "tôi không có quyết định thêm nào".

Bormann được chỉ định làm người thực hiện di chúc và "được trao toàn quyền quyết định mọi việc". Bormann, Goebbels và Đại tá Nicolaus von Below làm chứng cho việc lập di chúc riêng.

Di chúc chính trị

Hitler lập di chúc chính trị cùng lúc với di chúc riêng lúc 04:00 ngày 29 tháng 4 năm 1945. Di chúc chính trị gồm hai phần. Phần đầu trình bày động cơ của ông trong ba thập kỷ kể từ khi tình nguyện tham gia Chiến tranh thế giới thứ nhất, nhắc lại tuyên bố của ông rằng cả ông "và bất kỳ ai khác ở Đức đều không muốn chiến tranh vào năm 1939", nêu lý do tự sát và ca ngợi, bày tỏ lòng biết ơn đối với nhân dân Đức vì sự ủng hộ và những thành tựu của họ. Phần đầu cũng tuyên bố rằng ông cố gắng ngăn Chiến tranh thế giới thứ hai và quy trách nhiệm cho "người Do Thái quốc tế và bè cánh của họ." Hitler tuyên bố sẽ không "từ bỏ Berlin [...] mặc dù lực lượng quá nhỏ để cố thủ." Ông bày tỏ ý định thà chết chứ không "rơi vào tay kẻ thù" và "quần chúng" cần "một cảnh tượng do người Do Thái sắp đặt." Phần đầu kết thúc với lời kêu gọi Đức tiếp tục "hy sinh", "đấu tranh" và hy vọng phong trào Quốc Xã sẽ được phục hưng và hiện thực hóa một "cộng đồng nhân dân thực sự ()."

Phần hai vạch ra kế hoạch của Hitler đối với chính phủ Đức, Đảng Quốc Xã sau khi ông qua đời và chỉ định người kế nhiệm. Thống chế Đế chế Hermann Göring bị khai trừ khỏi đảng và cách mọi chức vụ nhà nước. Hitler cũng hủy bỏ sắc lệnh năm 1941 chỉ định Göring là người kế nhiệm trong trường hợp ông qua đời và chỉ định Đại Đô đốc Karl Dönitz làm tổng thống, tổng tư lệnh Wehrmacht. Thống chế SS, Bộ trưởng Nội vụ Heinrich Himmler cũng bị khai trừ khỏi đảng và cách mọi chức vụ nhà nước vì cầu hòa với Khối Đồng Minh mà không thông báo Hitler và không được cho phép. Hitler tuyên bố Himmler và Göring đều là những kẻ phản bội.

Hitler chỉ định những người sau đây làm thành viên Nội các mới:

  • Tổng thống (), Tư lệnh tối cao Wehrmacht (), Bộ trưởng Chiến tranh () và Tổng tư lệnh Hải quân (): Đại đô đốc Karl Dönitz
  • Thủ tướng (): Joseph Goebbels
  • Bộ trưởng Đảng (): Martin Bormann
  • Bộ trưởng Ngoại giao (): Arthur Seyss-Inquart
  • Bộ trưởng Nội vụ (): Gauleiter Paul Giesler
  • Tổng tư lệnh Lục quân (): Thống chế Ferdinand Schörner
  • Tổng tư lệnh Không quân (): Thống chế Robert Ritter von Greim
  • Thống chế SS và Cục trưởng Cảnh sát (): Gauleiter Karl Hanke
  • Bộ trưởng Kinh tế (): Walther Funk
  • Bộ trưởng Nông nghiệp (): Herbert Backe
  • Bộ trưởng Tư pháp (): Otto Georg Thierack
  • Bộ trưởng Văn hóa (): Bác sĩ Gustav Adolf Schee
  • Bộ trưởng Tuyên truyền (): Werner Naumann
  • Bộ trưởng Tài chính (): Lutz Graf Schwerin von Krosigk
  • Bộ trưởng Lao động ():
  • Bộ trưởng Quân nhu (): Karl Saur
  • Lãnh đạo Mặt trận Lao động Đức và thành viên Nội các (): Tiến sĩ Robert Ley

Goebbels, Bormann, Thượng tướng Wilhelm Burgdorf và Thượng tướng Hans Krebs làm chứng cho việc lập di chúc chính trị.

Chiều ngày 30 tháng 4, một ngày rưỡi sau khi lập di chúc, Hitler và Braun tự sát. Trong vòng hai ngày tới, Goebbels, Burgdorf và Krebs cũng tự sát. Số phận của Bormann là một bí ẩn trong nhiều thập kỷ cho đến khi hài cốt của ông được xác định vào năm 1998, cho thấy rằng ông đã chết trong khi chạy trốn khỏi Hồng quân Liên Xô đang bao vây Berlin.

Lịch sử

Ba người được giao nhiệm vụ mang di chúc của Hitler ra khỏi Führerbunker đang bị bao vây để lưu truyền cho hậu thế. Phó tùy viên báo chí Heinz Lorenz lấy vỏ bọc là một nhà báo từ Luxembourg và bị quân Anh bắt giữ. Ông tiết lộ danh tính của hai người còn lại: Willy Johannmeyer, phụ tá quân đội của Hitler, và SS-Standartenführer Wilhelm Zander, phụ tá của Bormann. Zander dùng bí danh "Friedrich Wilhelm Paustin" và bị bắt giữ cùng với Johannmeyer tại vùng chiếm đóng của Hoa Kỳ. Phía Hoa Kỳ tịch thu hai bản sao của di chúc và phía Anh sở hữu một bản. Toàn văn di chúc của Hitler được công bố trên báo chí Mỹ và Anh vào tháng 1 năm 1946. Tuy nhiên, Bộ trưởng Ngoại giao Anh Ernest Bevin đề nghị hạn chế công bố di chúc vì lo sợ chúng có thể trở thành vật thờ cúng của người Đức. Mặc dù di chúc đã được công khai nhưng phía Hoa Kỳ đồng ý không công bố thêm nữa. Di chúc và giấy chứng nhận kết hôn của Hitler được trình lên Tổng thống Hoa Kỳ Harry S. Truman. Một bộ được trưng bày tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia I ở Washington, D.C. trong nhiều năm.

Bản gốc của di chúc Hitler hiện đang được lưu giữ trong hầm an toàn tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia College Park ở Maryland, Hoa Kỳ.

Kết cục

Cả bốn người làm chứng cho việc lập di chúc chính trị đều qua đời ngay sau đó: Goebbels và vợ tự sát, Burgdorf và Krebs cũng tự sát vào đêm ngày 1 tháng 5 trong hầm trú ẩn. Vẫn chưa xác định được thời gian và địa điểm tử vong chính xác của Bormann; hài cốt của ông được phát hiện gần hầm trú ẩn vào năm 1972 và được xác định bằng phân tích ADN vào năm 1998. Có giả thuyết rằng ông chết vào cùng đêm khi cố gắng trốn thoát khỏi .

Di chúc chính trị của Hitler không được Chính phủ Flensburg thực hiện triệt để. Albert Speer tiếp tục giữ chức bộ trưởng quân nhu và Franz Seldte tiếp tục làm bộ trưởng lao động. Lutz Graf Schwerin von Krosigk thay thế Seyss-Inquart làm bộ trưởng ngoại giao. Sau khi Goebbels tự sát, Schwerin von Krosigk tạm thời trở thành bộ trưởng lãnh đạo (chức vụ tương đương với thủ tướng) nhưng từ chối chức vụ này một ngày sau đó.

Cả ba "thư ký cũ" của Hitler được thừa kế một số di sản của ông theo di chúc đều bị bắt giữ. Johanna Wolf và Christa Schroeder bị bắt vào tháng 5 năm 1945 và Gerda Christian bị bắt vào tháng 3 năm 1946. Traudl Junge, thư ký trẻ nhất của Hitler và là người đánh máy di chúc, bị bắt vào tháng 6 năm 1945.

Năm 1952, Paula Hitler, em gái của Hitler, bị từ chối quyền thừa kế theo di chúc của Hitler vì ông chưa được tuyên bố là đã chết vào thời điểm đó.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Political_Testament_of_Adolph_Hitler_1945_page_1.jpg|nhỏ|Trang đầu của di chúc chính trị Adolf Hitler, thủ tướng và nhà độc tài Đức từ năm 1933 đến năm 1945, lập di chúc tại _Führerbunker_ vào ngày 29 tháng 4 năm 1945, một
nhỏ|Hình ảnh những người đang chào theo kiểu Quốc xã, trong khi một người không xác định danh tính tên August Landmesser từ chối làm như vậy. **Phong trào chống đối Hitler** gồm những hoạt
**Adolf Hitler** (20 tháng 4 năm 188930 tháng 4 năm 1945) là một chính khách người Đức, nhà độc tài của nước Đức từ năm 1933 cho đến khi tự sát vào năm 1945. Tiến
Adolf Hitler là một chính trị gia người Đức, Lãnh tụ Đảng Quốc xã, Thủ tướng Đức từ năm 1933 đến năm 1945 và Führer (Quốc trưởng) của Đức từ năm 1934 đến năm 1945.
Đội Cận vệ SS (Schutzstaffel) được thành lập vào ngày 4 tháng 4 năm 1925 như là đội cận vệ riêng cho Adolf Hitler. Từ tháng 8 năm 1934 đến tháng 5 năm 1945, đội
**Stefanie Rabatsch** (_nhũ danh_ Isak; sinh ngày 28 tháng 12 năm 1887 - mất năm 1975) là một phụ nữ Áo mà theo lời Agust Kubizek, người bạn thơ ấu của Adolf Hitler, là mối
**Klara Hitler** (nhũ danh **Pölzl**; 12 tháng 8 năm 1860 – 21 tháng 12 năm 1907) là mẹ đẻ của lãnh đạo Đức Quốc Xã Adolf Hitler. ## Hoàn cảnh gia đình và hôn nhân
thumb|_Nhà hát Opera Quốc gia Vienna (Wien Oper)_, vẽ bởi Adolf Hitler, 1912 Adolf Hitler, Lãnh tụ Đảng Quốc xã ở Đức trong những năm trước và trong thế chiến II, cũng là một họa
**Đảng Công nhân Đức Quốc gia Xã hội chủ nghĩa** ( - **NSDAP**), thường được gọi là **Đảng Quốc Xã** trong tiếng Việt, là đảng cầm quyền Đức trong thời kỳ Đức Quốc Xã. Lãnh
**Paul Joseph Goebbels** hay có tên phiên âm dựa theo tiếng Đức là **Giô-xép Gơ-ben** (; (29 tháng 10 năm 1897 – 1 tháng 5 năm 1945) là một chính trị gia người Đức giữ chức
**Erwin Johannes Eugen Rommel** (15/11/1891 - 14/10/1944) còn được biết đến với tên **Cáo Sa mạc**, _Wüstenfuchs_ , là một trong những vị Thống chế lừng danh nhất của nước Đức trong cuộc Chiến tranh
nhỏ|phải|Hjalmar Schacht **Hjalmar Horace Greeley Schacht** (1877–1970) là nhân vật kinh tế xuất chúng của Đức Quốc xã. Ông đỗ Tiến sĩ Kinh tế (1899), tuy không phải là đảng viên Quốc xã nhưng ủng
**Đêm của những con dao dài** (tiếng Đức: ), đôi khi được gọi là **Operation Hummingbird**, hay ở Đức là **Cuộc lật đổ Röhm** (tiếng Đức: ) hay đôi khi gọi với một cách châm
**_Downfall_** () là một bộ phim chiến tranh 2004 của đạo diễn Oliver Hirschbiegel, kể về mười ngày cai trị cuối cùng của Adolf Hitler và Đảng Quốc xã. Bộ phim được biên kịch và
**Chiến dịch Berlin** là chiến dịch tấn công cuối cùng của Hồng quân Liên Xô trong Chiến tranh Xô-Đức. Tại chiến dịch này – diễn ra từ ngày 16 tháng 4 đến 9 tháng 5 năm
**Viên** (phiên âm theo tên tiếng Pháp: _Vienne_) hay **Wien** (tên gốc tiếng Đức, ; tiếng Bavaria: _Wean_) là thủ đô liên bang của Cộng hòa Áo, đồng thời là thành phố lớn nhất, và
**Nội các Joseph Goebbels** là nội các được thành lập theo như ý nguyện trong di chúc của Adolf Hitler vào ngày 30 tháng 4 năm 1945. Trong di chúc, Hitler đã phong Đô đốc
**Vừa đi đường vừa kể chuyện** là một tác phẩm văn học theo lối tự truyện được cho là Hồ Chí Minh viết với bút danh T.Lan. Trong tác phẩm, T. Lan là một cán
**Paul Thomas Mann** ( , ; ; 6 tháng 6 năm 1875 – 12 tháng 8 năm 1955) là một tiểu thuyết gia, nhà văn viết truyện ngắn, nhà phê bình xã hội, nhà từ
**Hermann Wilhelm Göring** có tên phiên âm dựa theo tiếng Đức là **Héc-man Gơ-rinh** (hay **Goering**; ; 12 tháng 1 năm 1893 – 15 tháng 10 năm 1946) là một chính trị gia người Đức,
**Heinrich Luitpold Himmler** hay có tên phiên âm dựa theo tiếng Đức là **Hen-rích Him-le** (; 7 tháng 10 năm 1900 – 23 tháng 5 năm 1945) là _Reichsführer_ (Thống chế SS) của _Schutzstaffel_ (Đội cận
Quân kỳ của Quân đội Đức quốc xã**Lịch sử quân sự Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai** bắt đầu từ quân số 100.000 do Hòa ước Versailles hạn chế, không được quyền có
**_Schutzstaffel_** (**SS**; cách điệu hóa bằng chữ Rune Armanen là
**Eva Anna Paula Hitler** (nhũ danh **Braun**; 6 tháng 2 năm 1912 – 30 tháng 4 năm 1945) là bạn gái lâu năm của Adolf Hitler kết hôn với ông một ngày trước khi cả
**Karl Dönitz** (; ngày 16 tháng 9 năm 1891 – ngày 24 tháng 12 năm 1980) là một đô đốc người Đức đóng vai trò quan trọng ở lịch sử hải quân của chiến tranh
**_Jojo Rabbit_** _(tựa Việt: **Nhóc Jojo**)_ là một bộ phim hài - chính kịch năm 2019 của Mỹ Phim có tên ở hạng mục _Phim truyện xuất sắc_ của Oscar 2020. Roman Griffin Davis miêu
**Phổ** (tiếng Đức: Preußen; tiếng Latinh: _Borussia_, _Prutenia_; tiếng Anh: Prussia; tiếng Litva: _Prūsija_; tiếng Ba Lan: _Prusy_; tiếng Phổ cổ: _Prūsa_) là một quốc gia trong lịch sử cận đại phát sinh từ Brandenburg,
**Otto Skorzeny** (12 tháng 6 năm 1908 tại Viên – 6 tháng 7 năm 1975 tại Madrid) là một trung tá (tiếng Đức: _Obersturmbannführer_) của Lực lượng Vũ trang SS trong suốt giai đoạn Chiến
nhỏ|358x358px|Những thành viên của [[Đoàn Thanh niên Hitler ở Béc-lin thực hiện kiểu chào Quốc xã tại một tụ tập năm 1933]] **Kiểu chào Quốc xã** hay **kiểu chào Hitler** ( – nghĩa đen: **Lời
**Trận Dunkerque** (hay **Trận Dunkirk**) là một trận đánh quan trọng nổi tiếng trong Chiến tranh thế giới thứ hai, diễn ra tại xã Dunkerque, Pháp từ ngày 26 tháng 5 cho đến ngày 4
**Hội Quốc Liên** là một tổ chức liên chính phủ được thành lập vào ngày 10 tháng 1 năm 1920 theo sau Hội nghị hòa bình Paris nhằm kết thúc Thế Chiến 1. Đây là
**Hiệp hội Gia đình Hoa Kỳ** (tiếng Anh: **American Family Association**, viết tắt: AFA) là một tổ chức bảo thủ xã hội ở Hoa Kỳ với mục đích chính nhằm thúc đẩy các giá trị
**Wilhelm Burgdorf** (14 tháng 2 năm 1895 - 02 tháng 5 năm 1945) là một vị tướng của Đức quốc xã trong chiến tranh thế giới thứ hai. Ông sinh ra tại Fürstenwalde, là sĩ
**Iosif Vissarionovich Stalin**, hay **Joseph Stalin** (tên khai sinh: **Ioseb Besarionis dze Jughashvili**; – 5 tháng 3 năm 1953), là một nhà cách mạng, nhà chính trị và lý luận chính trị người Gruzia. Ông
**Sân vận động Olympic** (; ) là một sân vận động thể thao nằm ở Công viên Olympic Berlin, Berlin, Đức. Sân được xây dựng ban đầu bởi Werner March cho Thế vận hội Mùa
**Đảo chính quán bia** () hay **Đảo chính Hitler-Ludendorff** () là cụm từ mà sử gia gọi biến cố xảy ra ngày 8 tháng 11 năm 1923 do Adolf Hitler điều động Đảng Đức Quốc
**Âm mưu 20 tháng 7** là một âm mưu ám sát quốc trưởng Đức Adolf Hitler vào ngày 20 tháng 7 năm 1944 tại căn cứ tư lệnh khu Rastenburg, Đông Phổ. Trong nhóm âm
Khu phố cổ Salzburg và Pháo đài Hohensalzburg **Salzburg** (Tiếng Đức Áo: ; ; nghĩa đen là "Salt Fortress" hay "Pháo đài muối"; tiếng Bayern: _Soizbuag_) là thủ phủ của tiểu bang cùng tên thuộc
**_Định mệnh_** () là bộ phim chiến tranh Mỹ sản xuất năm 2009 được viết kịch bản và đạo diễn bởi Quentin Tarantino, cùng với sự góp mặt của các diễn viên như Brad Pitt,
**Annelies Marie Frank** (, ; 12 tháng 6 năm 1929 – ) là một nhà văn và tác giả hồi ký người Đức gốc Do Thái. Cô là một trong những nạn nhân người Do
**Chính phủ Flensburg** (tiếng Đức: _Flensburger Regierung_) là chính phủ cuối cùng của Đức Quốc xã do Đô đốc hải quân Đức Karl Dönitz lãnh đạo, đặt tại thành phố Flensburg. Chính phủ được thành
**Chủ nghĩa bài Do Thái** (tiếng Anh: _Antisemitism_; còn được đánh vần _anti-semitism_ hoặc _anti-Semitism_) một số tài liệu tiếng Việt dịch là **Chống chủ nghĩa Xê-mít**, là sự thù địch, thành kiến hoặc phân