✨Học thuyết di truyền nhiễm sắc thể

Học thuyết di truyền nhiễm sắc thể

nhỏ|Hình 1: W. Sutton (trái) và T. Boveri (phải) cùng sáng lập thuyết di truyền nhiễm sắc thể. Học thuyết di truyền nhiễm sắc thể là lí thuyết Sinh học cho rằng nhiễm sắc thể của mỗi sinh vật mang các gen quy định những tính trạng của sinh vật đó., , Nói cách khác, theo học thuyết này thì nhiễm sắc thể là vật liệu mang thông tin di truyền chính của sinh vật. Học thuyết còn gọi bằng thuật ngữ có ghép tên của hai tác giả sáng lập lí thuyết này là W. Sutton và T. Boveri là "học thuyết nhiễm sắc thể Bô-vê-ri Săt-tơn" (Boveri–Sutton chromosome theory), tuy nhiên, người cũng có vai trò quyết định vào học thuyết là T. Morgan.

Luận điểm cơ bản của học thuyết này là: nhiễm sắc thể mang các gen (hồi đó gọi là nhân tố di truyền Menđen), các gen phân bố dọc theo chiều dài của nhiễm sắc thể, mà trên đó mỗi gen chiếm một vị trí nhất định gọi là lô-cut; các gen của thế hệ trước được chuyển cho thế hệ sau nhờ cơ chế phân li và tổ hợp các nhiễm sắc thể trong phân bào và thụ tinh.,

Lịch sử

Vào những năm 1900, sau khi các quy luật Mendel được phát hiện lại và được khẳng định rằng các kết luận của ông là hoàn toàn đúng, trong đó có tiên đoán sự tồn tại của gen, mà hồi ấy Mendel (vốn là người Áo nói tiếng Đức) gọi là elemente (đã được William Bateson dịch sang tiếng Anh là elements, nghĩa Việt là phần tử hay nhân tố), thì vấn đề đặt ra cho các nhà khoa học thời đó là: "nhân tố đó ở đâu trong cơ thể sinh vật?". Vào năm 1902, nhà Sinh học người Đức là Theodor Boveri qua các nghiên cứu của mình, đã công bố kết luận: bộ nhiễm sắc thể của sinh vật mang các "nhân tố" di truyền này (xem chi tiết ở trang Theodor Boveri).

  • Cũng vào khoảng thời gian đó, tuy muộn hơn một chút (năm 1903), ở bên kia bờ đại dương có bác sĩ người Hoa Kỳ là Walter Sutton công bố các kết quả nghiên cứu của mình cũng dẫn đến kết luận: nhiễm sắc thể mang các "nhân tố" Mendel giả định, mà Sutton gọi là đơn vị di truyền (genetic unit) và hành vi (behavior) của nhiễm sắc thể mang các đơn vị di truyền đó trong quá trình phân bào và thụ tinh là cơ sở của định luật Mendel (xem chi tiết ở trang Walter Sutton). Như vậy, Theodor Boveri và Walter Sutton dù không hề có liên hệ với nhau, độc lập với nhau và cùng công bố các khám phá giống nhau trong cùng khoảng thời gian, đều dẫn đến kết luận giống nhau: nhiễm sắc thể chứa các đơn vị di truyền mà Mendel gọi là elemente và hoạt động của chúng trong quá trình phân bào và thụ tinh là cơ chế truyền vật chất di truyền cho đời sau. Do đó, các công trình khoa học của hai ông đã xây dựng nền tảng cho một lí thuyết Sinh học hoàn toàn mới vào thời đó, mà ít lâu sau được gọi là học thuyết Sutton-Boveri (the Sutton–Boveri theory), trong đó mỗi ông đều là người sáng lập., Trước đó, vào năm 1885, nhà sinh học Đức August Weismann đã công bố "Keimplasmatheorie" (phát âm quốc tế: [ˈkaɪ̯mplasmateoˌʀiː]) nghĩa là Lý thuyết dòng mầm. Theo lí thuyết này thì sự di truyền tính trạng của một sinh vật đa bào (bố/mẹ) chỉ diễn ra qua loại tế bào mà ông gọi là "Keimzellen" – (tiếng Anh: germ plasm, tiếng Việt: tế bào mầm – hiện nay gọi là giao tử). Còn các tế bào khác (tế bào xôma) không có cái "chất mầm" này tham gia vào quá trình di truyền trong sinh sản hữu tính., Từ đó, ông cũng đã giả định rằng phần tử (elemente) di truyền mà Mendel tiên đoán nằm ở nhiễm sắc thể của các tế bào mầm. Suy diễn nói trên của ông - một nhà Sinh học nổi tiếng thế giới thời đó - đã ủng hộ quan điểm Sutton-Boveri. Năm 1909, nhà di truyền học Đan Mạch là Wilhelm Johannsen đề xuất một khái niệm rất quan trọng: gen, mà ông lấy từ tiếng Hy Lạp là genes. Nhờ đó, cùng với các kết quả nghiên cứu của một số nhà khoa học khác như của Edouard van Beneden, của Eleanor Carothers v.v, mà các quan điểm khoa học nói trên được củng cố. Tuy nhiên, vào những năm 1902-1914, trong giới khoa học đương thời ở Anh, Mĩ và Đức cùng một số nước khác, thì học thuyết Sutton-Boveri vẫn chỉ là giả thuyết mà thôi, thậm chí một số nhà khoa học không đồng tình. Đặc biệt là năm 1909, Carl Correns công bố kết quả thí nghiệm của ông trên loài thực vật Mirabilis jalapa, tóm tắt như sau:
  • Lai thuận: "bố" có lá trắng lai với "mẹ" lá màu xanh thì sinh con lá xanh (giống mẹ).
  • Lai nghịch: "bố" lá xanh lai với "mẹ" lá trắng thì sinh con lá trắng (vẫn giống mẹ).
    Nghĩa là kết quả lai chẳng có trội với lặn gì cả, mà ở cả hai trường hợp lai thuận và lai nghịch thì cây con đều mang kiểu hình của "mẹ", không thấy vai trò di truyền của "bố" ở đâu! (Xem chi tiết ở trang: di truyền ngoài nhiễm sắc thể). Khám phá này dẫn đến rào cản lớn cho sự công nhận hoàn toàn học thuyết Sutton-Boveri: Nếu gen nằm ở nhiễm sắc thể, thì tại sao lai thuận lại khác lai nghịch như thế, trong khi hợp tử ở cả hai trường hợp lai đều có bộ nhiễm sắc thể hệt như nhau? Kết quả lại rối tung ! Liệu "trận đấu" có thể phải bắt đầu lại ... từ đầu ? Đến năm 1915, các thành tựu nghiên cứu của Eleanor Carothers và đặc biệt là của Thomas Hunt Morgan chấm dứt hoàn toàn các cuộc tranh luận. Morgan chứng minh rằng gen là có thật và "ánh xạ" từ vị trí xác định trên nhiễm sắc thể gọi là locus (lô-cut gen). Mặc dù ở thời đó, khoa học vẫn chưa biết bản chất của gen là gì, nhưng từ thời điểm này, học thuyết Sutton-Boveri trở nên hoàn thiện, được công nhận trên thế giới, thường được gọi là học thuyết di truyền nhiễm sắc thể (chromosomal Theory of Inheritance). Morgan nhận giải Nobel 1933 (trao năm 1934). Tóm lại, ta có thể xem học thuyết di truyền nhiễm sắc thể hình thành trong khoảng 1902, 1903-1915 do đóng góp chính của Sutton, Boveri và Morgan.

Nội dung và sự phát triển

Nội dung tóm tắt

Rõ ràng là Boveri, Sutton và Morgan không bao giờ họp với nhau và ra một "tuyên bố chung" rằng học thuyết di truyền nhiễm sắc thể phải có nội dung như thế nào thì mới đúng và đủ. Tuy nhiên, ta vẫn có thể tóm tắt nội dung cơ bản của học thuyết này như sau.

Gen là nhân tố di truyền mà Mendel tiên đoán. Gen định vị ở nhiễm sắc thể.

Chính nhiễm sắc thể là bào quan mang gen, nghĩa là quá trình di truyền được thực hiện qua nhiễm sắc thể.

Dọc theo chiều dài của mỗi nhiễm sắc thể có nhiều gen, mỗi gen chiếm một vị trí xác định gọi là lô-cut gen (xem hình 2).

Gen quy định tính trạng nào có lô-cut ở nhiễm sắc thể sẽ dẫn đến kết quả là: tính trạng do gen đó quy định chỉ truyền cho con nhận nhiễm sắc thể đó, gây ra hiện tượng di truyền qua nhiễm sắc thể, cũng gọi là di truyền qua nhân.

Quá trình phân bào và thụ tinh, trong đó các nhiễm sắc thể phân li và tổ hợp tạo thành hợp tử là cơ chế hiện tượng di truyền nhiễm sắc thể.

Nhờ học thuyết này, các quy luật mà Mendel công bố từ năm 1865-1866 trở nên hoàn toàn sáng tỏ. Trong hình 3, cây đậu Hà Lan "của Mendel" có cặp nhiễm sắc thể tương đồng mang gen A và a sẽ tạo ra hai loại giao tử: A và a. Khi cây Aa tự thụ phấn sẽ có sự kết hợp giữa hai loại giao tử này của bố (cây cho phấn) với cũng hai loại giao tử này nhưng của mẹ (cây cho noãn). Ở bố hay mẹ, mỗi loại giao tử cùng chiếm 50% (tức 1/2), do đó sự kết hợp ngẫu nhiên giữa chúng trong thụ tinh sẽ tuân theo biểu thức:
♂(1A + 1a) × ♀(1A + 1a) = 1AA + 2Aa + 1aa, mà kiểu hình là 3 trội: 1 lặn Vậy là hoàn toàn phù hợp với kết luận của Mendel – vốn là một giáo viên Toán – đã mô tả cách đó hơn 40 năm bằng biểu thức rất khó hiểu vào thời đó:
Aa × Aa → A + 2Aa + a. và The Genetics Of Drosophila (Di truyền học ruồi giấm) đã phát triển và mở rộng học thuyết này.

  • Theo ông, các gen trên cùng một nhiễm sắc thể sẽ cùng truyền cho đời sau, gây ra hiện tượng di truyền liên kết, theo quy luật mà hiện chúng ta thường gọi là liên kết gen hay gen liên kết.
  • Những gen có lô-cut xa nhau và có trao đổi chéo thì các alen của chúng đổi chỗ chéo nhau, gây hiện tượng liên kết không hoàn toàn hay gen hoán vị.
  • Khoảng cách giữa các lô-cut nhất định trên nhiễm sắc thể có thể xác định được qua tần số trao đổi chéo, mà học trò của Morgan là Alfred Sturtevant (1891 - 1970) là người đầu tiên trên thế giới đã lập được bản đồ gen (hình 4).

Trong trường hợp gen không ở trên nhiễm sắc thể (trong nhân), mà lại định vị ở ngoài nhân như các gen ở tế bào chất nằm trong ti thể, lục lạp thì các gen này di truyền ngoài nhân hay di truyền ngoài nhiễm sắc thể. Barbara McClintock trong các công trình của bà, ngoài phát hiện ra nhân tố kiểm soát (controlling elements), còn phát hiện ra một loại cấu trúc mà bà gọi là "Transposable Elements" (viết tắt là TE, nghĩa Việt: phần tử di động). TE phát hiện ra vào thời chưa có mô hình DNA của Francis Crick và James D. Watson, nên mãi sau khi mô hình này được công bố, người ta mới đánh giá hết tầm quan trọng của phát hiện này. Có lẽ bởi đi trước thời đại như thế, nên bà chỉ nhận được giải Nobel riêng cho mình 40 năm sau phát hiện, lúc bà đã 81 tuổi. Một số nhà khoa học đã gọi TE là gen nhảy, nghĩa là gen có thể thay đổi lô-cut vốn có chứ không cố định.

Tập tin:Lô-cut trên NST.png|nhỏ|Hình 2: Các gen A, b, c, D... phân bố dọc theo chiều dài NST, mỗi gen chiếm một lô-cut. Tập tin:DT NST1 (Chromosomal Genetic).png|nhỏ|Hình 3: Cơ chế phân li và tổ hợp NST mang cặp alen A và a. Tập_tin:Hình_1_-_Các_lô-cut_nằm_dọc_theo_chiều_dài_nhiễm_sắc_thể..png|nhỏ|234x234px|Hình 4: Một số lô-cut trên NST số 2 của _Drosophila melanogaster_. Trong sơ đồ ở các hình trên, mỗi nhiễm sắc thể được biểu diễn dưới dạng một cái que - như tất cả các sơ đồ thời đó. Bạn đọc nên nhớ là cách đây hơn 110 năm thì các nhà nghiên cứu chỉ có trong tay thiết bị "uy lực" nhất là kính hiển vi quang học thôi, mà nhờ nó người ta thường chỉ nhìn thấy nhiễm sắc thể có dạng que dài. Điều này có nghĩa là hiểu biết về nhiễm sắc thể còn bị hạn chế nhiều so với hiện nay, nhưng cũng nói lên khó khăn và cả tài năng mà các nhà nghiên cứu nói trên đã có để đưa kiến thức khoa học mà họ phát hiện ra đến thế hệ sau.

Vai trò

Học thuyết di truyền nhiễm sắc thể đóng vai trò rất quan trọng trong lịch sử phát triển của Di truyền học. Nhờ học thuyết này, các quy luật Mendel không những được khẳng định thêm, được đặt trên nền tảng khoa học vững chắc, mà còn được soi sáng bằng lí thuyết tế bào học. Ngoài ra, học thuyết này còn được ứng dụng trong chọn giống. Các kiến thức cơ bản của học thuyết này đã được phổ biến rộng rãi, giảng dạy ở nhiều trường học trên toàn thế giới, giúp con người có quan điểm đúng đắn về những hiện tượng di truyền. Các sơ đồ và hình vẽ có dạng như ở những hình nói trên rất quen thuộc với học sinh. Nếu dân số thế giới là 10 tỉ người, trong đó có 1/10 "cắp sách" đến trường để dạy và học, thì hàng năm có ngót 1 tỉ người đề cập đến học thuyết này trong quá trình giảng dạy và học tập.

Nguồn trích dẫn

Thể loại:Di truyền học Thể loại:Lý thuyết sinh học Thể loại:Sinh học tế bào

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|Hình 1: W. Sutton (trái) và T. Boveri (phải) cùng sáng lập thuyết di truyền nhiễm sắc thể. **Học thuyết di truyền nhiễm sắc thể** là lí thuyết Sinh học cho rằng nhiễm sắc thể
nhỏ|Hình 1: Sơ đồ cấu trúc chung của NST nhân thực. **Nhiễm sắc thể** là bào quan chứa bộ gen chính của một sinh vật, là cấu trúc quy định sự hình thành protein, có
nhỏ|Một mô hình tế bào học phổ biến thường gặp trong di truyền học cổ điển, với các hình que tượng trưng cho nhiễm sắc thể mang gen. **Di truyền học cổ điển** là giai
nhỏ|Sự di truyền tính trạng hình thái lá ở loài hoa phấn được xem là một ví dụ điển hình cho sự di truyền ngoài nhân **Di truyền ngoài nhân** (tiếng Anh: _Extranuclear inheritance_) hay
nhỏ|Hình 1: Lược đồ tạo thành nhiễm sắc thể Philadelphia **Nhiễm sắc thể Philadelphia** là nhiễm sắc thể số 22 của người bị đột biến thêm một đoạn từ nhiễm sắc thể số 9 chuyển
Trong di truyền học loài người, **Adam nhiễm sắc thể Y** (Y-MRCA) là tổ tiên chung gần nhất (MRCA) mà từ đó tất cả những người còn sống có nguồn gốc được truyền từ cha
nhỏ|Hình 1: Ảnh chụp lại tranh mô tả NST chổi đèn của kỳ giông _Triton_ ở sách của W. Flemming. nhỏ|Hình 2: Hoạt động phiên mã ngoài "lõi" NST ở _Chironomus pallidivitatus_. **Nhiễm sắc thể
nhỏ|Hình 1: Trao đổi chéo xảy ra khi hai nhiễm sắc tử **không** chị em tiếp hợp, rồi trao đổi tương hỗ hai đoạn tương đồng. Từ đó gây ra [[Gen hoán vị|hoán vị gen,
**Bất hoạt nhiễm sắc thể X** (còn gọi là giả thuyết Lyon hay Lyon hóa, theo tên của nhà khoa học Mary Frances Lyon) là một quá trình bất hoạt nhiễm sắc thể X trong
nhỏ|Hình 1: Locus là vị trí của gen trên nhiễm sắc thể. Trong hình biểu diễn 5 locus ở cánh dài và 3 ở cánh ngắn của một nhiễm sắc thể giả định. Trong sinh
**Barbara McClintock** (16 tháng 6 năm 1902 – 2 tháng 9 năm 1992) là một nhà khoa học và di truyền học tế bào người Mỹ được trao Giải Nobel Sinh lý học và Y
thumb|right|348x348px|Bìa của bài thơ có chủ đề tiến hóa của [[Erasmus Darwin, _Temple of Nature_ cho thấy một nữ thần vén bức màn bí ẩn của thiên nhiên (bên trong là Artemis). Tượng trưng và
**Theodor Heinrich Boveri** (phát âm IPA: /ˈθiədər ˈhaɪnrɪk boʊˈvɛri/, thường phiên âm tiếng Việt: Thê-ô-đo Bô-vê-ri) là nhà tế bào học người Đức, cùng với Walter Sutton đã xây dựng học thuyết di truyền nhiễm
**Walter Sutton** (phiên âm quốc tế: /wɔːltə ˈsʌtn/, phiên âm Việt: _Oan-tơ Sa-tân_) là một bác sĩ người Hoa Kỳ, cùng với Theodor Boveri được suy tôn là sáng lập nên học thuyết di truyền
nhỏ|Các gen cùng ở một nhiễm sắc thể gọi là gen liên kết. Trong sơ đồ có hai nhóm gen liên kết: AbCDe và aBCde. **Gen liên kết** (linkage genes) là các gen cùng ở
nhỏ|Đoạn DNA có thể bị "cắt" rồi chuyển vị trí, làm một gen hoặc cụm gen ở đó "nhảy" rồi chèn sang chỗ khác. **Gen nhảy** là một đoạn DNA hoặc bản sao của nó
nhỏ|Hình 1: Sơ đồ biểu diễn khoảng cách giữa 2 [[lô-cut gen giả định là A/a đến B/b = 48,5 cM; còn B/b đến D/d = 67 cM - 48,5 cM = 18,5 cM.]] **Xăngti
**Di truyền gen lặn liên kết X** là phương thức kế thừa gen lặn có lô-cut tại vùng không tương đồng của nhiễm sắc thể giới tính X cho đời sau. Đây là thuật ngữ
Trong trí tuệ nhân tạo, **lập trình di truyền** (_genetic programming, GP_) là một kỹ thuật tiến hóa các chương trình mà ban đầu chưa thích nghi (thường là chương trình ngẫu nhiên) cho đến
nhỏ|Hình 1: Sơ đồ tạo thành loài cải bắp lai cải củ (_Brassicoraphanus)_. **Cải bắp lai cải củ** có danh pháp khoa học: **_Brassicoraphanus_** là loài thực vật nhân tạo đầu tiên trên thế giới,
**Biến dị di truyền** là sự khác nhau về ADN giữa các cá thể hoặc quần thể. Đột biến là nguyên nhân sâu xa nhất của biến dị di truyền, nhưng các cơ chế khác,
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Diagram_human_cell_nucleus.svg|nhỏ|350x350px|Nhân tế bào của con người cho thấy vị trí của vùng nguyên nhiễm sắc (euchromatin) **Vùng nguyên nhiễm sắc** (_Euchromatin_) là một dạng đóng gói lỏng lẻo của sợi nhiễm sắc-chromatin (DNA, RNA và
Di truyền học, khoa học nghiên cứu về gene, tính trạng và biến dị của cơ thể sống. Di truyền học đề cập đến cấu trúc và chức năng của gen, và hành vi của
**Lịch sử di truyền các dân tộc bản địa châu Mỹ** được chia thành hai giai đoạn chính: đầu tiên là làn sóng thiên di vào châu Mỹ của người cổ đại tầm 20.000-14.000 năm
**Gen** là một đoạn xác định của phân tử acid nucleic có chức năng di truyền nhất định. Trong hầu hết các trường hợp, phân tử acid nucleic này là DNA, rất ít khi là
**_Di truyền học và nguồn gốc các Loài_** là cuốn sách được xuất bản năm 1937 bởi Theodosius Dobzhansky, một nhà sinh học tiến hóa người Mỹ gốc Ukaraina. Nó được coi là một trong
_Nettie Maria Stevens_ (1861 - 1912) là nhà nữ di truyền học người Mỹ, thường được nhắc đến vì là người đầu tiên phát hiện ra nhiễm sắc thể giới tính và vai trò của
nhỏ|Sơ đồ mô tả đơn giản bộ nhiễm sắc thể với hai loại nhiễm sắc thể là A (màu hồng) và B (xanh). Ở bộ đơn bội (n) thì mỗi loại chỉ có một nhiễm
**Thomas Hunt Morgan** hay phiên âm tiếng Việt là **Moocgan** (1866-1945) là nhà di truyền học người Mỹ, thường được nhắc đến do các khám phá về vai trò của nhiễm sắc thể trong quá
nhỏ|phải|Triết gia [[Friedrich Engels|F. Engels với các tác phẩm của mình đã đặt nền tảng cho Lý luận của Chủ nghĩa Marx – Lenin về nhà nước.]] **Học thuyết về Nhà nước của Chủ nghĩa
Trong sinh học, **lai giống** (hybrid) là sự kết hợp các phẩm chất của hai sinh vật thuộc hai giống, hoặc loài, chi thực vật hoặc động vật khác nhau, thông qua sinh sản hữu
**Kháng thể** (**Antibody, Ab**), còn được gọi là **immunoglobulin** (**Ig**), là một protein lớn, hình chữ Y được hệ thống miễn dịch sử dụng để xác định và vô hiệu hóa các vật thể lạ
thế=|nhỏ|Hình 1: Một phụ nữ được chẩn đoán là bị trầm cảm. Ảnh của H. W. Diamond in trên báo năm 1892. **Trầm cảm** là một bệnh rối loạn tinh thần ở người. Trước đây,
thumb|left|
Spencer Wells thumb|[[Người San tạo lửa bằng tay]] thumb|[[Người Vanuatu tạo lửa, 2005]] **_The Journey of Man: A Genetic Odyssey_** (tạm dịch: _Hành trình của loài người_) là cuốn sách của Spencer Wells (sn.
thumb|Bản đồ các dòng di cư sớm thời tiền sử theo [[DNA ty thể. Các con số thể hiện là Ka BP.]] **Các dòng di cư sớm thời tiền sử** bắt đầu khi Người đứng
nhỏ|Hình 1: Sơ đồ của Weismann về giả thuyết dòng mầm. **Lý thuyết dòng mầm** do nhà sinh học Đức August Weismann (tiếng Anh: /ˈwaɪsmən/, tiếng Việt: **vây-xơ-man**) đề xuất từ năm 1883, công bố
**Protein liên quan đến thụ thể lipoprotein mật độ thấp 8** (**LRP8**), còn được gọi là **thụ thể apolipoprotein E 2** (**ApoER2**), là một protein được gen _LRP8_ mã hóa ở người. ApoER2 là một
nhỏ| Nhân của một tế bào nước ối người. Trên cùng: Cả hai vùng lãnh thổ nhiễm sắc thể X đều được nhuộm FISH phát hiện. Được hiển thị là một phần quang học duy
thumb|DNA ti thể là nhiễm sắc thể tròn nhỏ được tìm thấy bên trong ty thể thumb|right|Mô hình DNA ty thể của người. **DNA ty thể** (tiếng Anh: **mitochondrial DNA**, **mtDNA**) là DNA nằm trong
thumb|Cổ chai di truyền, tiếp sau là khôi phục dân số hoặc [[tuyệt chủng.]] **Thắt cổ chai quần thể** (đôi khi gọi là thắt cổ chai di truyền) là thuật ngữ dịch từ tiếng Anh
**Thuyết nội cộng sinh** là một học thuyết tiến hóa đề cập đến nguồn gốc của các tế bào nhân chuẩn từ. Học thuyết này lần đầu tiên được đưa ra bởi nhà thực vật
nhỏ|Phân biệt cơ chế di truyền DNA nhân với DNA ty thể. Sơ đồ trái: **DNA nhân** truyền theo các quy luật [[Học thuyết di truyền nhiễm sắc thể|di truyền nhiễm sắc thể. Sơ đồ
thumb|right|Ảnh chụp hiển vi điện tử của hai ty thể trong tế bào mô phổi động vật có vú cho thấy chất nền và những lớp màng bao bọc bào quan. **Ty thể** (tiếng Anh:
Mối quan hệ giữa **sinh học và xu hướng tính dục** là một đối tượng trong công tác nghiên cứu. Mặc dù các nhà khoa học không biết được nguyên nhân cụ thể hình thành
**Văn học Nga** là thuật ngữ chỉ nền văn học của nước Nga và của người Nga di cư ra nước ngoài, đồng thời cũng chỉ nền văn học được viết bằng tiếng Nga. Gốc
**Các cuộc chống đối thuyết tiến hóa** bắt đầu kể từ khi các ý tưởng về sự tiến hóa gây được sự chú ý vào thế kỷ 19. Ban đầu, vào năm 1859, khi Charles
nhỏ|Hình 1: Giới tính thường được phân biệt bởi hình thái ngoài của cá thể và thường được xác định nhờ cặp nhiễm sắc thể giới tính. **Giới tính** là tính trạng quyết định một
**Tiểu thuyết** (chữ Hán: 小說) là một thể loại văn xuôi có hư cấu, thông qua nhân vật, hoàn cảnh, sự việc để phản ánh bức tranh xã hội rộng lớn và những vấn đề
**Thuyết sử dụng và hài lòng** (TSDVHL) là lý thuyết giả định rằng con người chủ động tiếp cận phương tiện truyền thông để thỏa mãn những nhu cầu cụ thể của họ. Thuyết sử
nhỏ| [[Boris Karloff trong bộ phim _Frankenstein_ năm 1931 của James Whale, dựa trên cuốn tiểu thuyết năm 1818 của Mary Shelley. Con quái vật được tạo ra bởi một thí nghiệm sinh học không