✨Hồ Ladoga

Hồ Ladoga

Hồ Ladoga (, Ladozhskoye ozero hoặc , Ladoga; [tên trước kia trong tiếng Phần Lan là Nevajärvi]; ) là một hồ nước ngọt trong nước Cộng hòa Karelia và tỉnh Leningrad ở miền tây bắc Nga, cách Sankt-Peterburg không xa. Đây là hồ lớn nhất châu Âu và là hồ lớn thứ 15 trên thế giới.

Địa lý

trái|Bản đồ hồ Ladoga

Diện tích của hồ là 17.891 km² (không tính các đảo). Chiều dài của nó (từ bắc xuống nam) là 219 km, chiều rộng trung bình là 83 km, chiều sâu trung bình là 51 m, chiều sâu tối đa khoảng 230 m (ở phần tây bắc). Diện tích lưu vực: 276,000 km², dung tích: 837 km³ (ước tính trước đây là 908 km³);. Trong hồ có khoảng 660 đảo nhỏ, với tổng diện tích là 435 km². Tính trung bình Ladoga ở trên mực nước biển 5 m. Phần lớn các đảo - kể cả quần đảo Valaam nổi tiếng, Kilpola và Konevets - đều nằm trong phần tây bắc của hồ.

Cách biệt với biển Baltic bởi eo đất Karelia, hồ này chảy vào vịnh Phần Lan thông qua sông Neva.

Tàu thuyền có thể đi lại trên hồ Ladoga, như thành phần của tuyến đường thủy Volga-biển Baltic nối biển Baltic với sông Volga. Kênh Ladoga đi vòng qua hồ ở phần phía nam, nối sông Neva với sông Svir.

Lưu vực hồ Ladoga bao gồm khoảng 50.000 hồ và 3.500 sông dài hơn 10 km. Khoảng 85% nước nhập vào hồ do các chi lưu, 13% do giáng thủy, và 2% là do nước ngầm.

Các chi lưu

:(danh sách không đầy đủ)

  • sông Svir từ hồ Onega (đông nam, lưu lượng: 790 m³/s);
  • sông Volkhov từ hồ Ilmen (nam, lưu lượng: 580 m³/s);
  • sông Vuoksi (và sông Burnaya) từ hồ Saimaa ở Phần Lan (tây, lưu lượng: 540 m³/s).
  • sông Syas (nam, lưu lượng: 53 m³/s).
  • sông Olonka từ hồ Utozero

Lịch sử địa chất

Hình:Lake Ladoga.PNGtrái|[[Hồ Ancylus khoảng 7.000 trước Công nguyên]] Sự thoái lui sông băng sau kỷ băng hà Weichsel (kỷ băng hà chót) xảy ra ở lưu vực Hồ Ladoga từ khoảng 12.500 tới 11.500 năm trước Thời hiện tại (tức năm 1950 sau CN). Hồ Ladoga nguyên là một phần của hồ băng Baltic (70–80 mét trên mực nước biển hiện nay), một tầng nước ngọt lịch sử của Biển Baltic. Có thể - dù không chắc chắn – là hồ Ladoga đã bị cô lập trong thời kỳ thoái lui của tầng nước lợ của biển Yoldia sau đó (10.200 – 9.500 năm trước Công nguyên). Ngưỡng của sự cô lập có thể ở nơi định cư Veshchevo phía tây của huyện Vyborg, nơi biển Baltic và Hồ Ladoga nối với nhau bởi một eo biển hoặc một cửa sông ít nhất cho tới khi hình thành Sông Neva, và thậm chí có lẽ còn muộn hơn, tới thế kỷ 12 sau Công nguyên hoặc khoảng đó.

Khoảng 9.500 năm trước Công Nguyên, hồ Onega, trước đây chảy vào Biển Trắng, bắt đầu chảy vào Hồ Ladoga qua sông Svir. Từ khoảng năm 9.500 tới 9.100 trước CN, trong sự tràn ngập của hồ Ancylus - tầng nước ngọt tiếp sau của biển Baltic - chắc là hồ Ladoga trở thành một phần của hồ Ancylus (tức tầng nước ngọt nói trên), dù chúng chưa nối với nhau ngay trước đó. Trong thời Hồ Ancylus thoái lui sau đó - khoảng 8.800 năm trước CN – thì hồ Ladoga trở thành cô lập.

Hồ Ladoga tràn ngập dần vào phần phía nam của nó là do sự nâng lên của Khiên Baltic ở phía bắc. Đã có giả thuyết – nhưng chưa được chứng minh – là nước của biển Litorina, tầng nước lợ tiếp theo của Biển Baltic, thỉnh thoảng lấn chiếm hồ Ladoga từ khoảng năm 7.000 tới 5.000 trước CN. Khoảng năm 5.000 trước CN, nước của hồ Saimaa thâm nhập Salpausselkä và tạo thành một cửa sông mới, sông Vuoksi, chảy vào Hồ Ladoga ở góc tây bắc và nâng mực nước hồ lên 1–2 mét.

Sông Neva bắt nguồn khi nước hồ Ladoga cuối cùng đã phá vỡ qua ngưỡng tại Porogi chảy vào phần dưới của sông Izhora, lúc đó là một nhánh của Vịnh Phần Lan, từ năm 4.000 và 2.000 trước CN. Theo một số dữ liệu mới, việc đó đã xảy ra khoảng năm 3.100 trước Thời hiện tại (3.410 – 3.250 năm trước CN).

Động vật hoang dã

nhỏ|[[Quần đảo Valaam]] Hồ Ladoga rất nhiều cá. Có 48 loại cá đã bắt gặp trong hồ, trong đó có cá Rutilus, cá vền, cá săng, cá pecca, cá ruffe (Gymnocephalus cernuus), nhiều loại cá ốtme đặc hữu, hai loại cá hồi trắng Coregonus albula, tám loại cá hồi trắng Coregonus lavaretus, nhiều loại cá hồi khác cũng như loại cá tầm châu Âu có nguy cơ tuyệt chủng. Nghề đánh bắt cá thương mại đã một thời là công nghiệp chính, nhưng đã đánh bắt cạn kiệt. Sau thế chiến thứ hai, từ năm 1945–1954, số cá đánh bắt hàng năm tăng lên, đạt tới mức tối đa 4.900 tấn. Tuy nhiên, việc đánh bắt cá không cân đối đã dẫn tới sự suy giảm trầm trọng trong đánh bắt cá từ năm 1955–1963, đôi khi tới 1.600 tấn hàng năm. Việc đánh bắt cá bằng lưới rà ở hồ Ladoga đã bị cấm từ năm 1956 và một số biện pháp hạn chế khác đã được áp đặt. Tình hình đã dần dần được cải thiện, nên từ năm 1971-1990 việc đánh bắt cá đã lên tới 4.900 và 6.900 tấn hàng năm, khoảng cùng mức đánh bắt của năm 1938. Các trại nuôi cá và việc câu cá giải trí hiện đang phát triển. [http://ladoga.krc.karelia.ru/resources/fish/index.shtml]

Hồ Ladoga có một phân loài hải cầu vòng đặc hữu, gọi là hải cẩu Ladoga.

Từ đầu thập niên 1960 hồ Ladoga đã trở thành nơi có dinh dưỡng tốt đáng kể. Khu bảo tồn thiên nhiên Nizhnesvirsky nằm dọc theo bờ hồ Ladoga ngay phía bắc của cửa sông Svir.

Lịch sử

nhỏ|[[Đảo Konevets]] Trong thời Trung cổ, hồ này tạo thành phần trọng yếu của Tuyến đường thương mại từ vùng Scandinavia tới Đế quốc Byzantine, với nơi buôn bán của Bắc Âu ở Staraya Ladoga bảo vệ cửa sông Volkhov từ thế kỷ thứ 8. Trong thời chiến tranh Thụy Điển-Cộng hòa Novgorod, khu vực này bị tranh chấp giữa Cộng hòa Novgorod và Thụy Điển. Đầu thế kỷ thứ 14, các pháo đài Korela (Kexholm) và Oreshek (Nöteborg) được xây dựng dọc theo các bờ hồ này.

Tu viện Valaam cổ được thành lập trên đảo Valaam, đảo lớn nhất trên hồ Ladoga, bị bỏ hoang từ năm 1611 – 1715, được khôi phục cách lộng lẫy ở thế kỷ thứ 18, và di tản sang Phần Lan trong Cuộc chiến mùa Đông năm 1940. Năm 1989 các hoạt động tu viện ở Valaam lại tiếp tục. Các tu viện lịch sử khác trong vùng lân cận là Tu viện Konevets trên đảo Konevets, và Tu viện Alexander-Svirsky, mà các mẫu đẹp của kiến trúc Moskva thời trung cổ được bảo tồn.

Trong chiến tranh Ingria, một phần nhỏ bờ hồ Ladoga đã bị Thụy Điển chiếm đóng. Năm 1617, theo Hiệp ước Stolbovo, bờ hồ phía bắc và phía tây được Nga nhường cho Thụy Điển. Năm 1721, sau đại chiến Bắc Âu, chúng được trả lại cho Nga theo Hiệp ước Nystad. Sau đó, từ năm 1812 – 1940 hồ này được phân chia giữa Nga và Phần Lan. Theo các điều kiện của Hòa ước Tartu giữa Nga-Phần Lan năm 1920, việc quân sự hóa ở khu vực hồ này được giới hạn nghiêm ngặt. Tuy nhiên cả Nga Xô Viết và Phần Lan đều có các đội tàu chiến nhỏ trên hồ Ladoga. Sau cuộc chiến mùa Đông (1939–1940) theo Hòa ước Moskva, hồ Ladoga hoàn toàn thuộc về Liên Xô.

nhỏ|Ảo thị trên hồ Ladoga Trong thời Chiến tranh tiếp tục (1941–1944) không chỉ các tàu của Phần Lan và Liên Xô, mà cả các tàu của Đức và Ý cũng hoạt động ở đây. Trong hoàn cảnh này, dưới thời vây hãm Leningrad (1941 – 1944), hồ Ladoga đã cung cấp lối đi duy nhất tới thành phố Leningrad bị vây hãm, vì có một phần bờ hồ phía đông nằm trong sự kiểm soát của Liên Xô. Các đồ tiếp tế được chở vào Leningrad bằng các xe vận tải ở các đường mùa đông trên băng -"Road of Life" (đường sống) - và bằng tàu thuyền trong mùa hè. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Phần Lan bị mất vùng Karelia vào tay Liên Xô, mọi công dân Phần Lan phải di tản khỏi vùng này và hồ Ladoga trực thuộc Liên Xô. Bờ hồ phía bắc, Ladoga Karelia với thành phố Sortavala, nay là thành phần của Cộng hòa Karelia. Bờ hồ phía tây, eo đất Karelia, là thành phần của tỉnh Leningrad.

Từ năm 1996 [http://www.ladoga-trophy.ru/content/view/49/38/lang,english/ Cuộc đua thách thức ở hồ Ladoga] là cuộc đua hàng năm của 4x4 (loại xe chạy không cần đường sá) và ATVs (xe chạy trên mọi mặt đất) chạy suốt qua trên 1.200 km đầm lầy, bùn và bãi lầy bao quanh hồ Ladoga.

Các đô thị ở hồ Ladoga

nhỏ|Pháo đài Oreshek trên bờ hồ Ladoga ở Shlisselburg

  • Shlisselburg (tại )
  • Novaya Ladoga (tại )
  • Syasstroy (tại )
  • Pitkyaranta (tại )
  • Sortavala (tại )
  • Lakhdenpokhya (tại )
  • Priozersk (tại )

Tham khảo và Ghi chú

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Hồ Ladoga** (, _Ladozhskoye ozero_ hoặc , _Ladoga_; [tên trước kia trong tiếng Phần Lan là _Nevajärvi_]; ) là một hồ nước ngọt trong nước Cộng hòa Karelia và tỉnh Leningrad ở miền tây bắc
**Saimaa** (; ) là một hồ ở miền đông nam Phần Lan. Với diện tích 4.279,5 km², đây là hồ lớn nhất ở Phần Lan, và là hồ lớn thứ tư ở châu Âu. Hồ hình
nhỏ|phải|Một cái hồ nhìn từ trên xuống Hồ Nahuel Huapi, [[Argentina]] [[Hồ Baikal, hồ nước ngọt sâu nhất và lớn nhất theo thể tích]] **Hồ** là những khoảng nước đọng tương đối rộng và sâu
[[Hồ Baikal|Baikal, hồ sâu nhất và có dung tích nước lớn nhất thế giới]] Sau đây là danh sách hồ có diện tích mặt nước từ 4.000 km² trở lên. Lưu ý rằng diện tích của
nhỏ|Bản đồ Thụy Điển; hồ Vänern ở giữa miền Nam. **Hồ Vänern** () là hồ lớn nhất Thụy Điển, lớn nhất trong Liên minh châu Âu và lớn thứ ba châu Âu sau Hồ Ladoga
**Hồ Onega** (cũng gọi là **Onego**, _Onežskoe ozero_; ; ; ) là một hồ ở miền tây bắc nước Nga trong phần thuộc châu Âu, nằm trong lãnh thổ nước Cộng hòa Karelia, tỉnh Leningrad
**Hồ Sevan** (, _Sevana lič̣_) là hồ nước lớn nhất Armenia và cả vùng Kavkaz, đồng thời là một trong những hồ nước ngọt kiểu Anpơ (nằm ở độ cao lớn) lớn nhất lục địa
**Hồ Peipus**, (; (Pskovsko-Chudskoe ozero), ) là hồ nước xuyên biên giới lớn nhất ở châu Âu ở trên biên giới giữa Estonia (một phần của liên minh châu Âu và Nga. Hồ lớn thứ
**Họ Bướm giáp** (danh pháp khoa học: **_Nymphalidae_**) là một họ của khoảng 5.000 loài bướm phân bố khắp nơi trên thế giới. Chúng thường là các loài bướm có kích thước vừa và lớn.
tươi shopGiúp bảo vệ tim mạch, hạn chế quá trình lão hóa.Giảm cholesterol.Ổn định huyết áp.Giảm tiến trình xơ cứng động mạch.Kích thích tiêu hóa. Chống đầy hơi.Giúp ăn ngon miệng, hỗ trợ tiêu hóa
**Cuộc bao vây Leningrad** là cuộc phong tỏa quân sự của quân đội Đức Quốc xã đối với thành phố Leningrad (hiện nay là Sankt-Peterburg), đồng thời là cuộc phòng thủ dài ngày nhất trong
**Chiến dịch Tia Lửa** (tiếng Nga: Операция Искра, _Operatsia Iskra_) là một chiến dịch quân sự diễn ra tại Mặt trận Xô-Đức thuộc Chiến tranh thế giới thứ hai. Chiến dịch do Hồng quân Liên
**Sukho** () là một hòn đảo nhân tạo nằm ở phía Đông Nam của hồ Ladoga, cách bờ Nam của hồ 20 cây số. Hòn đảo có hình móng ngựa và chiều dài 60-90 mét.
**Chiến dịch phản công Tikhvin** (10 tháng 11 năm 1941 - 30 tháng 12 năm 1941) là một trận đánh diễn ra giữa quân đội Liên Xô và quân đội Đức quốc xã trong Chiến
**Chiến dịch phòng ngự Tikhvin** là tên một chiến dịch phòng ngự của quân đội Liên Xô trong chiến tranh Xô-Đức diễn ra tại tỉnh Leningrad, kéo dài từ ngày 16 tháng 10 đến 18
**Sông Neva**, hay **sông Nêva**, (tiếng Nga: Невa, ) là một con sông dài 74 km ở nước Nga, chảy từ hồ Ladoga qua eo đất Karelia và thành phố Sankt-Peterburg vào vịnh Phần Lan.
**Sông Volkhov** (tiếng Nga: Волхов), còn được gọi là _sông Olhava_, là một con sông chảy qua tỉnh Novgorod và tỉnh Leningrad của Nga. ## Địa lý Sông Volkhov chảy từ hồ Ilmen về phía
thumb|Phim tuyên truyền Mỹ về Con đường sống. **Con đường sống** (tiếng Nga: Дорога жизни, doroga zhizni) là tuyến đường vận tải trên băng đi qua hồ Ladoga đang đóng băng, đây là lối đi
**Chiến tranh Mùa đông** (, , ) hay **Chiến tranh Liên Xô-Phần Lan 1939-1940** là cuộc chiến giữa Liên Xô và Phần Lan do tranh chấp lãnh thổ tại vùng Karelia. Nó diễn ra vào
nhỏ|phải|Boris Petrovich Sheremetev Bá tước **Boris Petrovich Sheremetev** (tiếng Nga: _Борис Петрович Шереме́тев_ hoặc _Шере́метьев_, 1652–1719), là một Nguyên soái của Nga, cũng có tước hiệu boyar. Ông là một trong những nhà chỉ huy
**Chiến dịch tấn công Sinyavino** là một chiến dịch quân sự xảy ra trong Chiến tranh Xô-Đức, do Hồng quân Liên Xô tổ chức nhằm tấn công vào quân đội Đức Quốc xã. Mục tiêu
**Đại chiến Bắc Âu** là tên các sử gia gọi cuộc chiến từ năm 1700 đến năm 1721 giữa Thụy Điển với liên minh của Nga, Đan Mạch, Sachsen (Đức) và Ba Lan; từ năm
**Sông Vuoksi** (tiếng Karjala: Karjalaksi Vuokša, , , , ) là một dòng sông chảy qua Bắc phần của eo đất Karelia từ hồ Saimaa ở Đông Nam Phần Lan đến hồ Ladoga ở Tây
**Phương diện quân Volkhov** (tiếng Nga: _Волховский фронт_) là một tổ chức tác chiến chiến lược của Hồng quân Liên Xô trong Thế chiến thứ hai. ## Lịch sử ### Thành lập Phương diện quân
phải|nhỏ|250x250px|Xe tăng hạng nhẹ [[Xe tăng T-26|T-26 của Tập đoàn quân 7 trong cuộc tiến công vào Phần Lan, ngày 2 tháng 12 năm 1939.]] **Tập đoàn quân 7** (tiếng Nga: _7-я армия_) là một
**Erich von Manstein** tên đầy đủ là **Fritz Erich Georg Eduard von Lewinski** (24 tháng 11 năm 1887 – 10 tháng 7 năm 1973) là một chỉ huy cấp cao của quân đội Đức thời
**Thành phố Anh hùng** (tiếng Nga: город-герой, _gorod-geroy_) là một danh hiệu vinh dự được Đoàn Chủ tịch Xô viết Tối cao Liên bang Xô viết trao tặng cho 12 thành phố đã có những
**Chiến tranh Xô–Đức 1941–1945** là một cuộc chiến giữa Liên Xô và Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai, trải dài khắp Bắc, Nam và Đông Âu từ ngày 22 tháng 6 năm 1941
**Cộng hòa Kareliya** hay **Cộng hòa Karelia** (tiếng Nga: Респу́блика Каре́лия, Respublika Kareliya; tiếng Karelia: Karjalan tazavaldu; tiếng Phần Lan: Karjalan tasavalta; tiếng Veps: Karjalan Tazovaldkund) là một chủ thể liên bang của Nga. Thủ
**Chiến dịch Leningrad – Novgorod** là tổ hợp các chiến dịch bộ phận do Hồng quân Liên Xô tổ chức nhằm tấn công vào quân đội Đức Quốc xã. Chiến dịch tấn công Leningrad-Novgorod diễn
**Trận phòng thủ Luga** diễn ra từ ngày 6 tháng 8 đến giữa tháng 9 năm 1941 là một trong các trận đánh ác liệt nhất tại mặt trận Tây Bắc Liên Xô trong giai
thumb **Filipp Danilovich Gorelenko** (, Cherkasy Raion, 25 tháng 11 năm 1888 – Leningrad, 25 tháng 1 năm 1956) là một trung tướng, anh hùng quân đội Liên Xô. ## Tiểu sử Ông được sinh
**Sankt-Peterburg** (; đọc là **Xanh Pê-téc-bua** từ tiếng Pháp: **Saint-Pétersbourg** nghĩa là "Thánh Phêrô") là một thành phố liên bang của Nga. Đây là đô thị lớn thứ nhì của Liên bang Nga và cũng
**Sông Svir** (tiếng Nga: Свирь река), một con sông chảy trong tỉnh Leningrad. Chiều dài của nó là 224 km, diện tích lưu vực 84,4 nghìn km². Nó chảy từ vịnh Svir của hồ Onega và
**Karl XII của Thụy Điển** (tiếng Thụy Điển: _Karl XII av Sverige_; 17 tháng 6 năm 1682 – 30 tháng 11 năm 1718), còn được biết đến dưới tên gọi **Carl XII** (hay **Charles XII**
**Pyotr I** (), có sách viết theo tiếng Anh là **Peter I** hay tiếng Pháp là **Pierre I** (sinh ngày: 10 tháng 6 năm 1672 tại Moskva – mất ngày: 8 tháng 2 năm 1725
thumb|Các chuyến viễn chinh năm 789 (đường màu xanh): mô tả các chuyến viễn chinh của người Viking trên hầu hết khu vực [[châu Âu, Địa Trung Hải, vùng Bắc châu Phi, Tiểu Á, Vùng
**Cá hồi** là tên chung cho nhiều loài cá thuộc họ Salmonidae. Nhiều loại cá khác cùng họ được gọi là trout (cá hồi); sự khác biệt thường được cho là cá hồi salmon di
thumb|Huy hiệu của Thụy Điển (với lỗi [[Tincture (huy hiệu)|tinctures) trên một bức tường của Tòa thị chính tại Lützen ở Đức]] Thuật ngữ **Đế quốc Thụy Điển** dùng để chỉ tới **Vương quốc Thụy
nhỏ|Một chiếc T-26 **T-26** là một xe tăng bộ binh hạng nhẹ của Liên Xô, được sử dụng trong nhiều cuộc chiến hồi những năm 1930 cũng như trong Chiến tranh thế giới thứ hai.
Chiến sự trên **Mặt trận Rzhev-Sychyovka-Vyazma** là hoạt động quân sự lớn trong Chiến tranh Xô-Đức bao gồm nhiều chiến dịch bộ phận do các Phương diện quân Tây, Phương diện quân Kalinin và Phương
|- | **Châu lục** || châu Âu |- | **Tiểu vùng** || Scandinavia |- | **Vị trí địa lý** || |- | **Diện tích**
 - Tổng cộng
 - Vùng nước | Thứ 55 thế giới
449.964 km²
39,03-
**Chiến dịch phản công Belgorod–Kharkov** là một chuỗi các hoạt động quân sự lớn do hai phương diện quân Voronezh và Thảo nguyên của Quân đội Liên Xô làm chủ lực, có sự hỗ trợ
**Trận Tali-Ihantala** (25 tháng 6 - 9 tháng 7 năm 1944) là một phần của cuộc Mặt trận Phần Lan (Chiến tranh Xô-Đức) (1941–1944), xảy ra trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Đây là
**Người Veps** là một dân tộc Finnic nói tiếng Veps, thuộc nhánh Finnic trong những ngôn ngữ Ural. Các kiểu gọi nhóm dân tộc này trong tiếng địa phương khác nhau là vepslaine, bepslaane, (tiếng
**Oleksandr Prokopovych Markevych** (; sinh 19 tháng 3 năm 1905 tại Ploske – mất 23 tháng 4 năm 1999 tại Kyiv) là một nhà động vật học, nhà nghiên cứu về ký sinh trùng và
**Quốc vương Thụy Điển** () là người đứng đầu Vương quốc Thụy Điển. Vua truyền ngôi theo chế độ cha truyền con nối; có hệ thống nghị viện phụ việc cho ông. Thời xa xưa,
thumb| Một vách đá biển giống như sóng được tạo ra do xói mòn bờ biển, ở Công viên địa chất quốc gia ven biển Jinshitan, [[Đại Liên, tỉnh Liêu Ninh, Trung Quốc ]] Theo
**Ngôn ngữ tại Phần Lan** bao gồm hai ngôn ngữ chính thức (tiếng Phần Lan và tiếng Thụy Điển) cùng với một vài ngôn ngữ thiểu số như tiếng Sami, tiếng Di-gan, tiếng Karelia và
**Đại vương công Aleksey Petrovich của Nga** hay **_Tsarevich_ Aleksey Petrovich của Nga** (tiếng Nga: _Алексей Петрович Романов_; 28 tháng 2 năm 1690 – 7 tháng 7 năm 1718) là Thái tử của Nga đồng