✨Cá hồi

Cá hồi

Cá hồi là tên chung cho nhiều loài cá thuộc họ Salmonidae. Nhiều loại cá khác cùng họ được gọi là trout (cá hồi); sự khác biệt thường được cho là cá hồi salmon di cư còn cá hồi trout không di cư, nhưng sự phân biệt này không hoàn toàn chính xác. Cá hồi sống dọc các bờ biển tại cả Bắc Đại Tây Dương (các họ di cư Salmo salar) và Thái Bình Dương (khoảng sáu họ của giống Oncorhynchus), và cũng đã từng được đưa tới Hồ lớn ở Bắc Mỹ. Cá hồi được sản xuất nhiều trong ngành nuôi trồng thủy sản ở nhiều nơi trên thế giới.

Về đặc trưng, cá hồi là cá ngược sông để sinh sản: chúng sinh ra tại khu vực nước ngọt, di cư ra biển, sau đó quay trở lại vùng nước ngọt để sinh sản. Tuy nhiên, có nhiều con thuộc nhiều loài sống cả đời tại vùng nước ngọt. Truyền thống dân gian cho rằng loài cá này trở về đúng nơi chúng được sinh ra để đẻ trứng; những cuộc nghiên cứu đã cho thấy điều này là chính xác, và hành động quay lại nơi ra đời này đã được thể hiện phụ thuộc vào ký ức khứu giác.

Các loài

Thuật ngữ salmon xuất xứ từ chữ La tinh salmo, và chữ này lại có gốc từ salire, có nghĩa "nhảy". Có chín loài cá hồi thương mại quan trọng, thuộc hai giống. Giống thứ nhất Salmo, có cá hồi Đại Tây Dương, có ở Bắc Đại Tây Dương. Giống thứ hai, Oncorhynchus, gồm tám loài chỉ có trong tự nhiên tại Bắc Thái Bình Dương. Cũng có một họ cá hồi Trung Quốc được đưa vào New Zealand. Theo nhóm chúng được gọi là cá hồi Thái Bình Dương.

    Cá hồi cầu vồng (rainbow trout) di cư ra biển, nhưng nó không được gọi là "cá hồi" (salmon).

Cả giống SalmoOncorhynchus đều gồm một số loài được gọi là trout. Trong Salmo cũng có các taxa nhỏ phụ mà trong tiếng Anh đã được gọi là cá hồi, ví dụ cá hồi Adriatic (Salmo obtusirostris) và cá hồi biển Đen (Salmo labrax).

Các loài cá khác được gọi là cá hồi

Cũng có một số loài khác có tên thường gọi là cá hồi. Trong số các loài được liệt kê dưới đây, cá hồi Danube hay huchen là một họ cá hồi nước ngọt lớn liên quan tới cá hồi ở trên, nhưng những loài khác là cá biển thuộc nhóm perciform không liên quan:

Eosalmo driftwoodensis, hóa thạch cá hồi cổ nhất trong hồ sơ hóa thạch, đã giúp các nhà khoa học xác định các loài cá hồi phân rẽ từ một tổ tiên chung. Hóa thạch cá hồi British Columbia cung cấp bằng chứng rằng sự phân rẽ giữa cá hồi Thái Bình Dương và Đại Tây Dương chưa xảy ra ở thời điểm 40 triệu năm trước. Cả hồ sơ hóa thạch và phân tích mitochondrial DNA cho thấy sự phân rẽ chỉ xảy ra 10 tới 20 triệu năm trước. Bằng chứng độc lập này từ phân tích DNA và hóa thạch đã bác bỏ lý thuyết phân rẽ cá hồi thời kỳ băng hà.

Phân bố

[[Cá hồi Đại Tây Dương, Salmo salar.]] *Cá hồi Đại Tây Dương, (Salmo salar) sinh sản tại những dòng sông phía bắc ở cả hai bờ Đại Tây Dương. *Cá hồi lục địa (Salmo salar m. sebago) sống tại một số hồ ở phía đông Bắc Mỹ và Bắc Âu, ví dụ tại các hồ Onega, Ladoga, Saimaa và Vänern. Chúng không phải là một loài khác với cá hồi Đại Tây Dương, nhưng đã tiến hóa độc lập một chu kỳ sống không di cư, và chúng vẫn duy trì nó thậm chí khi có thể đi ra biển. nhỏ|phải Cá hồi Masu hay cherry salmon (Oncorhynchus masou) chỉ được tìm thấy ở tây Thái Bình Dương tại Nhật Bản, Triều Tiên và Nga. Cũng có các phụ loài sống trong lục địa được gọi là cá hồi Đài Loan hay cá hồi Formosan (Oncorhynchus masou formosanus) ở Suối Chi Chia Wan miền trung Đài Loan. Cá hồi Chinook (Oncorhynchus tshawytscha) cũng được gọi là cá hồi vua hay cá hồi miệng đen ở Mỹ, và là cá hồi xuân ở British Columbia. Cá hồi Chinook là loài cá hồi Thái Bình Dương lớn nhất, thường vượt quá . Cái tên Tyee được dùng ở British Columbia để chỉ cá hồi Chinook hơn 30 pound, và tại lưu vực sông Sông Columbia những con cá hồi Chinook đặc biệt lớn được gọi là June Hogs. Cá hồi Chinook được biết có thể bơi đến tận Sông Mackenzie và Kugluktuk ở miền trung vòng bắc cực Canada, và xa tới tận miền nam Bờ biển Trung California. Cá hồi Chum (Oncorhynchus keta) được biết đến như một loại cá hồi dog, keta, hay calico ở nhiều vùng tại Mỹ. Loài này có tầm hoạt động địa lý rộng nhất trong các loài cá hồi Thái Bình Dương: phía nam tới tận Sông Sacramento ở California và đông Thái Bình Dương và đảo Kyūshū tại Biển Nhật Bản ở phía tây Thái Bình Dương; phía bắc tới Sông Mackenzie ở Canada, phía đông tới Sông Lena, phía tây tới Siberia. Cá hồi Coho (Oncorhynchus kisutch) cũng được gọi là cá hồi bạc ở Mỹ. Loài này được tìm thấy ở tất cả các vùng nước ven biển Alaska và British Columbia và ở phía nam xa tới tận miền trung California (Vịnh Monterey). Nó cũng xuất hiện, dù không thường xuyên, tại Sông Mackenzie. Cá hồi Sockeye (Oncorhynchus nerka) cũng được gọi là cá hồi đỏ ở Mỹ. Loài cá được nuôi ở hồ này có ở miền nam xa tới tận Sông Klamath ở California ở phía đông Thái Bình Dương và bắc đảo Hokkaidō tại Nhật Bản và ở phía tây Thái Bình Dương xa tới tận Vịnh Bathurst ở Vòng Bắc Cực Canada ở phía đông và Sôn Anadyr tại Siberia ở phía tây. Dù hầu hết cá hồi Thái Bình Dương trưởng thành ăn các loại cá nhỏ, tôm và mực ống; sockey ăn sinh vật phù du được chúng lọc qua những khe mang. Cá hồi Kokanee là loại cá sockeye sống trong lục địa. *Cá hồi Danube hay huchen (Hucho hucho), là loại cá thuộc dòng cá hồi lớn nhất sống thường trực tại vùng nước ngọt.

Vòng đời

nhỏ|Vòng đời của cá hồi Thái Bình Dương

Trứng cá hồi được đẻ tại những dòng suối nước ngọt thông thường ở nơi có độ cao lớn. Trứng phát triển thành cá bột hay bọc trứng (sac fry). Cá mới nở nhanh chóng phát triển thành cá con với những dải ngụy trang dọc. Cá con ở lại dòng suối quê hương trong sáu tháng tới ba năm trước khi trở thành cá non, được phân biện bởi màu sáng bạc với các vảy có thể dễ dàng bóc. Ước tính chỉ 10% trứng cá hồi sống sót tới giai đoạn này. Tính chất hóa học cơ thể của cá con thay đổi, cho phép chúng sống trong nước mặn. Cá hồi con dành một phần thời gian di cư để sống ở vùng nước lợ, tính chất hóa học cơ thể của chúng trở nên quen thuộc với điều kiện thẩm thấu tại đại dương.

nhỏ|Cá hồi xây dựng tổ (redd) tại khu nước chảy nhanh và nông của sông nhỏ|Các bọc trứng (sac fry) vẫn còn trong môi trường sống với sỏi của các hố redd (tổ) cho đến khi noãn hoàng của chúng (còn gọi là "hộp cơm trưa") cạn kiệt

Cá hồi dành khoảng một tới năm năm (tùy theo loài) ở biển khơi nơi chúng dần trưởng thành về giới tính. Cá hồi trưởng thành sau đó đa số quay lại dòng suối quê hương để đẻ trứng. Tại Alaska, sự trao đổi chéo với dòng suối khác cho phép cá hồi tới sinh sống tại những dòng suối mới, như những con cá xuất hiện khi một sông băng rút lui. Phương pháp chính xác cá hồi dùng để định hướng vẫn chưa được xác định, dù khứu giác tốt của chúng có liên quan. Cá hồi Đại Tây Dương dành từ một tới bốn năm ở biển. (Khi một con cá quay về sau chỉ một năm sống ở biển được gọi là grilse ở Canada, Anh và Ireland.) Trước khi đẻ trứng, tùy thuộc theo loài, cá hồi trải qua sự thay đổi. Chúng có thể phát triển một cái bướu, mọc răng nanh, phát triển một bướu gù (một sự uốn cong của hàm ở cá hồi đực). Tất cả sẽ chuyển từ màu xanh bạc của cá nước ngọt ra sống ở biển sang một màu tối hơn. Cá hồi có thể thực hiện những chuyến đi đáng kinh ngạc, thỉnh thoảng di chuyển hàng trăm dặm ngược dòng nước chảy nhanh và mạnh để đẻ trứng. Ví dụ, cá hồi Chinook và sockeye từ miền trung Idaho di chuyển và lên cao xấp xỉ từ Thái Bình Dương khi chúng quay về để đẻ trứng. Sức khỏe của chúng kém đi khi chúng càng sống lâu trong nước ngọt, và càng kém nữa saiu khi chúng đẻ trứng, khi chúng được gọi là kelt. Ở mọi loài cá hồi Thái Bình Dương, các cá nhân trưởng thành chết trong vòng vài ngày hay vài tuần sau khi đẻ trứng, một đặc điểm được gọi là semelparity. Khoảng 2% tới 4% cá hồi Đại Tây Dương cái sống sót để đẻ trứng lần nữa. Tuy nhiên, ở những loài cá hồi có thể đẻ trứng hơn một lần này (iteroparity), tỷ lệ chết sau khi đẻ khá cao (có lẽ lên tới 40 tới 50%.)

Để đẻ bọc trứng, cá hồi cái dùng đuôi (vây đuôi), để tạo một vùng áp suất thấp, khiến sỏi trôi xuôi dòng, tạo một hố lõm nông, được gọi là một redd (tổ cá hồi). Hố redd có thể thỉnh thoảng chứa 5.000 trứng rộng . Trứng thường có màu cam tới đỏ. Một hay nhiều con đực bơi cạnh con cái, phun tinh trùng, hay tinh dịch (milt), lên trứng. Cơ thể cá hồi đại diện cho sự chuyển tiếp các chất dinh dưỡng từ biển, giàu nitơ, sulfur, carbon và phosphorus, về hệ sinh thái rừng.

Gấu xám Bắc Mỹ hoạt động như những kỹ sư sinh thái, bắt cá hồi và mang chúng tới các vùng cây lân cận. Tại đó chúng thải nước tiểu và phân giàu dinh dưỡng và xác bị ăn dở. Đã có ước tính rằng những con gấu để lại tới nửa số cá hồi chúng bắt được trên nền rừng với mật độ có thể lên đến 4,000 kilograms trên 1 hectare, cung cấp tới 24% tổng lượng nitơ có được cho các khu rừng ven sông. Những cây vân sam lên tới từ một dòng suối nơi gấu xám Bắc Mỹ bắt cá hồi đã được phát hiện có chứa nitơ có nguồn gốc từ cá hồi bị bắt. Làm chậm tốc độ các chất dinh dưỡng bị rửa trôi khỏi hệ thống; các chất dinh dưỡng được cung cấp bởi những con cá hồi trưởng thành lắng đọng trong suốt mùa thu và mùa hè vẫn được giữ lại tới mùa xuân cho những chú cá hồi mới lớn. Cung cấp những bể nước sâu hơn nơi những con cá hồi non tránh kẻ thù ăn thịt. Làm gia tăng hiệu năng sản xuất qua quang hợp và bằng cách tăng cường tính hiệu quả của vòng chuyển đổi cellulose. Tạo ra các môi trường năng lượng thấp nơi những chú cá hồi non lợi dụng thức ăn vào việc tăng trưởng hơn là việc chống lại các dòng chảy. *Tăng cường tính phức tạp cấu trúc với nhiều hốc vật lý nơi cá hồi có thể tránh những kẻ săn mồi.

Các đập của hải lý có thể chăm sóc những chú cá hồi non tại các đầm lầy thủy triều cửa sông nơi độ mặn thấp hơn 10 ppm. Những chú hải ly xây dựng các đập nhỏ thường thấp hơn trong các kênh ở vùng Myrtle. Những đập này có thể bị trào qua khi thủy triều cao và giữ nước khi thủy triều thấp. Nó cung cấp nơi trú ngụ cho cá hồi non để chúng không phải bơi trong những kênh lớn nơi chúng dễ trở thành đối tượng bị săn đuổi.

Những loài ký sinh

Theo nhà sinh học người Canada Dorothy Kieser, loài ký sinh myxozoa Henneguya salminicola thường thấy trong thịt của các loài họ cá hồi. Nó đã được ghi lại trong những mẫu hiện trường của cá hồi quay trở về Đảo Queen Charlotte. Con cá phản ứng bằng cách ngăn cách ly sự nghiễm trùng do ký sinh vào một số u nang chứa dung dịch dạng sữa. Dung dịch này là một sự tập hợp một số lượng lớn loài ký sinh.

Henneguya và các loài ký sinh khác thuộc nhóm myxosporea có dòng đời phức tạp, trong đó cá hồi là một trong hai động vật chủ. Con cá nhả ra các bào tử sau khi đẻ trứng. Trong trường hợp của Henneguya, các bào tử đi vào một vật chủ thứ hai, thường là một động vật không xương sống, trong dòng suối đẻ trứng. Khi cá hồi non di cư ra Thái Bình Dương, vật chủ thứ hai nhả một loại gây lây nhiễm vào cá hồi. Vật ký sinh sau đó được mang trong con cá hồi cho tới chu ký đẻ trứng tiếp theo. Loài ký sinh myxosporea gây ra bệnh disease ở cá trout, có một vòng đời tương tự. Tuy nhiên, trái với bệnh, sự phá hoại của Henneguya không có vẻ gây ra bệnh tật trong cá hồi chủ — thậm chí con cá bị nhiễm nặng thường quay về đẻ trứng thành công.

nhỏ|trái|[[Henneguya salminicola, một vật ký sinh myxozoa thường thấy trong thịt của cá hồi ở Bờ biển phía Tây Canada, trong cá hồi coho]]

Theo Tiến sĩ Kieser, nhiều cuộc nghiên cứu về Henneguya salminicola đã được các nhà khoa học thực hiện tại Trạm sinh vật học Thái Bình Dương ở Nanaimo hồi giữa thập niên 1980, đặc biệt, một báo cáo tổng quan phát biểu rằng "con cá có thời gian sinh trưởng ở vùng nước ngọt lâu có những sự nhiễm trùng đáng chú ý nhất. Vì thế theo thứ tự thông thường coho là loài bị nhiễm nhiều nhất tiếp đó là sockeye, chinook, chum và cá hồng." Tương tự, báo cáo nói rằng, ở thời điểm các cuộc nghiên cứu được tiến hành, các quần thể từ các hệ thống sông lớn trung và thượng ở British Columbia như Fraser, Skeena, Nass và từ các dòng suối ven biển lục địa ở phần phía nam B.C. "dường như có ít trường hợp bị nhiễm." Báo cáo cũng nói rằng "Cần nhấn mạnh rằng Henneguya, có hại về kinh tế dù nó, không gây hại từ quan điểm sức khỏe cộng đồng. Nó chỉ là một loài ký sinh ở cá không thể sống hay ảnh hưởng tới các động vật máu nóng, gồm cả con người".

Theo Klaus Schallie, Chuyên gia Chương trình Động vật có vỏ Thân mềm của Cơ quan Kiểm soát Thực phẩm Canada, "Henneguya salminicola được tìm thấy ở phía nam B.C. và cũng có ở tất cả các loài cá hồi. Trước đó tôi đã xem xét cá hồi chum hun khói có rất nhiều u nang và một số cá hồi sockeye trở về đẻ trứng tại Barkley Sound (phía nam B.C, bờ tây Đảo Vancouver) được lưu ý bởi khả năng cao bị nhiễm của chúng."

Rận biển, đặc biệt là Lepeophtheirus salmonis và nhiều loài Caligus, gồm cả C. clemensiC. rogercresseyi, có thể gây hại dẫn đến cái chết với cả cá hồi tự nhiên và cá hồi nuôi. Rận biển là những vật ký sinh ngoài ăn nước nhầu, máu và da, và di trú và bám vào da cá hồi hoang dã khi đang bơi tự do, ở dạng phù du, hay giai đoạn ấu trùng chân kiếm, và có thể dai dẳng trong nhiều ngày. Một lượng lớn những trang trại nuôi cá hồi số lượng lớn và trong lưới ngoài biển có thể tạo ra những sự tập trung cao độ của rận biển; khi sống trong những vùng cửa sông có nhiều trại nuôi trong lưới những con cá hồi tự nhiên non rất dễ bị ảnh hưởng, và vì thế không thể sống được. Những con cá hồi trưởng thành có thể sống sót qua môi trường có nhiều rận biển, nhưng những con cá hồi nhỏ, da mỏng di cư ra biển rất dễ bị ảnh hưởng. Trên bờ biển Thái Bình Dương của Canada, tỷ lệ cá chết do rận biển ở cá hồi hồng tại một số vùng thường trên 80%.

Đánh bắt tự nhiên

Thương mại

[[Tập tin:Time series for global capture of true salmon.png|trái|Đánh bắt thương mại tất cả các loài cá hồi hoang dã giai đoạn 1950–2010,
Như thông báo của FAO Mức độ khai thác cá tự nhiên cho ngành nuôi trồng cá hồi đã ảnh hưởng tới khả năng tồn tại của các loài cá ăn thịt tự nhiên cũng dựa vào những loại cá đó để làm thức ăn.

Việc nghiên cứu vẫn đang được tiếp tục trong việc đưa các protein thực vật thay protein động vật trong chế độ ăn của cá hồi. Không may thay, dù sự thay đổi này làm giảm mức độ hàm lượng axít béo omega-3 giá trị cao giảm đi trong những sản phẩm nuôi trồng.

Những trang trại nuôi cá hồi số lượng lớn hiện nay đòi hỏi những lồng nuôi cá lưới mở, vốn có chi phí sản xuất thấp, nhưng lại có điểm bất lợi là cho phép dịch bệnh và rận biển lan tràn trong các quần thể cá hồi hoang dã địa phương.

Trên cơ sở trọng lượng khô, cần 2–4 kg cá đánh bắt tự nhiên để sản xuất ra một kg cá hồi.

Một hình thức sản xuất cá hồi khác, an toàn hơn, nhưng ít khả năng kiểm soát hơn, là nuôi cá hồi trong những nơi ấp trứng cho tới khi chúng đủ lớn để trở nên độc lập. Sau đó chúng được thả về các công sông, thường trong một nỗ lực để làm gia tăng số lượng cá hồi. Hệ thống này được gọi là trại nuôi, và rất phổ thông tại các quốc gia như Thụy Điển trước khi người Na Uy phát triển việc nuôi cá hồi, nhưng chỉ hiếm khi được thực hiện bởi các công ty tư nhân, bởi bất kỳ ai cũng có thể bắt cá hồi khi chúng quay trở về để đẻ trứng, hạn chế cơ hội kiếm lợi tài chính của công ty từ khoản đầu tư. Vì thế, phương pháp này chủ yếu được các cơ quan nhà nước và các nhóm phi lợi nhuận như Cook Inlet Aquaculture Association sử dụng như một phương pháp nhân tạo để làm gia tăng số lượng cá trước thực tế chúng đang suy giảm vì khai thác quá mức, xây dựng đập, và phá hủy môi trường sống hay làm tan rã môi trường sống của cá hồi. Không may thay, cách thức này có thể dẫn tới những hậu quả không mong muốn, gồm cả việc "pha loãng" gen của các quần thể hoang dã, và hiện có nhiều sự khuyến khích cho việc nuôi thêm cá bằng phương pháp kiểm soát nuôi trồng và cải thiện cũng như bảo vệ môi trường sống của cá hồi. Một biện pháp thay thế khác là cung cấp cá, được gọi là nuôi tại đại dương, cũng đang được phát triển ở Alaska. Tại đây những con cá hồi non được thả về biển xa khỏi bất kỳ khu vực cá hồi hoang dã nào khác. Sau đó khi tới thời gian chúng đẻ, chúng quay về nơi được thả và các ngư dân có thể thu hoạch chúng.

nhỏ|trái|[[Cá hồi chum ấp trứng nhân tạo]] nhỏ|phải|[[Cá hồi cầu vồng được nuôi tại quần đảo Phần Lan]]

Một biện pháp thay thế khác cho việc ấp trứng là sử dụng các kênh đẻ trứng. Trong đó những dòng suối nhân tạo, thường song song với một dòng suối thiên nhiên được làm bằng bê tông hay các bờ rip-rap và đáy rải sỏi. Nước từ dòng suối lân cận được bơm phía trên kênh, thỉnh thoảng qua một ao phía trên, để ngăn cặn lắng. Tỷ lệ trứng nở trong kênh thường cao hơn tại dòng suối bên cạnh bởi việc kiểm soát dòng nước, vốn trong vài năm có thể rửa trôi redd tự nhiên. Vì không có lũ, các kênh ấp trứng thỉnh thoảng phải được rửa sạch để loại bỏ cặn lắng tích tụ. Cũng những con nước phá hủy các redd tự nhiên làm sạch cho những dòng kênh. Các kênh ấp trứng giữ được sự lựa chọn tự nhiên của các dòng suối tự nhiên, bởi không có lợi ích, như trong việc ấp trứng, sử dụng các hóa chất phòng bệnh để kiểm soát dịch bệnh.

Những con cá hồi nuôi được cho ăn các carotenoid astaxanthin và canthaxanthin để có màu sắc thịt giống với cá hồi tự nhiên.

Một biện pháp thay thế được đề xuất khác để sử dụng cá bắt tự nhiên làm mồi cho cá hồi, là dùng các sản phẩm gốc đậu tương. Điều này có thể tốt hơn cho môi trường trại nuôi, tuy nhiên, việc sản xuất đậu tương cũng có ảnh hưởng lớn tới môi trường nơi trồng trọt.

Một giải pháp thay thế có thể các là sản xuất các đồng sản phẩm ethanol sinh học, proteinaceous lên men sinh học. Việc thay thế những sản phẩm đó cho việc nuôi cá có thể dẫn tới kết quả tăng trưởng tương đương (thỉnh thoảng còn cao hơn) ở cá. Với khả năng áp dụng ngày càng cao, việc này có thể giải quyết vấn đề chi phí gia tăng cho chi phí mua cá nuôi cá hồi.

Một biện pháp thay thế hấp dẫn khác là gia tăng sử dụng tảo biển. Tảo biển cung cấp các khoáng chất và vitamin thiết yếu cho sự phát triển của sinh vật. Nó có ưu thế vì có thể cung cấp một lượng chất xơ tự nhiên và có độ glycemic thấp hơn thịt cá nuôi bằng ngũ cốc.

Hình ảnh

File:Drying Salmon.jpg File:Laxloin.jpg File:Salmon wrapped scallops with beurre blanc and caviar.jpg File:Coulibiac.jpg File:Salmon fried in pan.jpg File:Siven na pánvi.jpg File:Rasstegai s gorbushei.jpg File:Salmon tartare (35063367534).jpg File:Salmon Cornet (7264698626).jpg
👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Cá hồi** là tên chung cho nhiều loài cá thuộc họ Salmonidae. Nhiều loại cá khác cùng họ được gọi là trout (cá hồi); sự khác biệt thường được cho là cá hồi salmon di
**Cá hồi Chinook** (danh pháp hai phần: **_Oncorhynchus tshawytscha_**) là một loài cá di cư sống phần lớn thời gian ở biển, nhưng ngược dòng về sinh sản trong vùng nước ngọt, thuộc họ Salmonidae.
**Chi Cá hồi trắng** (danh pháp khoa học: **_Coregonus_**), là một chi cá trong họ Cá hồi (_Salmonidae_). Loài điển hình là cá hồi trắng (_C. lavaretus_). Tên gọi chung và phổ biến của các
**Cá hồi vân** (tên khoa học **_Oncorhynchus mykiss_**) là một loài cá hồi bản địa ở các sông nhánh của Thái Bình Dương ở châu Á và Bắc Mỹ. Loài đầu thép là một loại
nhỏ|phải|Một con cá hồi đang vượt thác nhỏ|phải|Cá hồi vượt thác **Cá hồi có đặc trưng là loài cá ngược sông để đẻ**, chúng sinh ra tại khu vực nước ngọt, di cư ra biển,
**Cá hồi Thái Bình Dương** (Danh pháp khoa học: **_Oncorhynchus_**) là một chi cá trong họ Cá hồi gồm các loài cá hồi sinh sống ở vùng biển Thái Bình Dương và một số trong
nhỏ|phải|Một con cá hồi đang bị bệnh nhọt **Bệnh tật ở cá hồi** là các bệnh tật và ký sinh diễn ra trên các loài cá hồi trong họ Salmonidae. Cá hồi là loài cá
**AquAdvantage** là một giống cá hồi do công ty AquaBounty tại Massachusetts sản xuất, là giống cá hồi Đại Tây Dương có mang hormone tăng trưởng từ cá hồi Chinook và cấy vùng gien khởi
**Cá hồi hồng** hay còn gọi là **cá hồi lưng gù** (danh pháp hai phần: _Oncorhynchus gorbuscha_ từ tên tiếng Nga của loài này _gorbuša, горбуша_) là một loài cá hồi trong họ cá hồi.
**Cá hồi Đại Tây Dương** (danh pháp khoa học: **_Salmo salar_**) là một loài cá trong các họ Cá hồi, được tìm thấy ở Bắc Đại Tây Dương Dương và ở các con sông chảy
nhỏ|phải|Cá hồi xông khói, thường được vắt thêm ít [[nước chanh, rồi ăn với khoai tây và phô mai kem ở Na Uy]] nhỏ|phải|Những miếng cá hồi phi lê được xát muối và đem xông
**Cá hồi trắng Omul** hay **cá hồi trắng Baikal** (danh pháp hai phần: **_Coregonus migratorius_**), là một loài cá hồi trắng, chỉ có tại khu vực hồ Baikal ở Siberi, Nga cũng như một số
**Cá hồi đỏ** (danh pháp khoa học: _Oncorhynchus nerka_) là một loài cá hồi di cư sống ở miền bắc Thái Bình Dương và sông ngòi đổ vào đây. Đây là một loài cá hồi
**Cá hồi trắng hồ** (danh pháp hai phần: **_Coregonus clupeaformis_**) là một loài cá thuộc chi Cá hồi trắng trong họ Cá hồi. Loài này được tìm thấy gần như khắp Canada và một số
**Cá hồi nâu** (_Salmo trutta morpha fario_ và _S. trutta morpha lacustris_) và **cá hồi biển** (_S. trutta morpha trutta_) là cá hồi thuộc một loài. Chúng được phân biệt chủ yếu là do thực
thumb|_Salmo trutta_ m. _fario_ **Cá hồi chấm** hay **Cá hương** hay **cá hồi nước ngọt** là tên gọi chỉ chung đối với một số loài cá nước ngọt thuộc các chi Oncorhynchus, Cá hồi và
**Cá hồi Coho** (danh pháp hai phần: _Oncorhynchus kisutch_, từ tiếng Nga кижуч _kizhuch_) cũng được gọi là cá hồi bạc ở Mỹ. Cá hồi Coho là động vật biểu tượng của tỉnh Chiba ở
**Cá hồi Masu** (danh pháp hai phần: **_Oncorhynchus masou_**) là một loài cá thuộc họ Cá hồi. Loài cá hồi này được tìm thấy ở Tây Thái Bình Dương cùng khu vực Đông Á, từ
**Cá hồi vàng sông Kern** (Danh pháp khoa học: _Oncorhynchus mykiss gilberti_) là một phân loài của loài Cá hồi vân hay cá hồi cầu vồng (Oncorhynchus mykiss) phân bố ở các khu vực sông
**Cá hồi Danube** hay **huchen** (danh pháp khoa học: **_Hucho hucho_**), là loại cá thuộc họ Cá hồi, thuộc dòng cá hồi lớn nhất sống thường trực tại vùng nước ngọt. Cá hồi huchen là
**Cá hồi chó** (danh pháp hai phần: **_Oncorhynchus keta_**) được biết đến như một loại cá hồi chum, keta, hay calico ở nhiều vùng tại Mỹ, là một loài cá thuộc họ Cá hồi. Loài
**Cá hồi trắng Alaska** (danh pháp hai phần: **_Coregonus nelsonii_**) là một loài cá thuộc chi Cá hồi trắng trong họ Cá hồi. Đây là loài đặc hữu, nơi nó sinh sống ở một số
**_Salmo_** là một chi cá gồm các loài cá hồi trong họ Cá hồi (Salmonidae) với loài có cái tên tương đồng của chi là cá hồi Đại Tây Dương (_Salmo salar_) và cá hồi
**Cá hồi Apache** (danh pháp khoa học: **_Oncorhynchus apache_**) là một loài cá nước ngọt thuộc họ cá hồi (Salmonidae) bộ Salmoniformes. Nó là một trong những loài cá hồi Thái Bình Dương. Cá hồi
**Cá hồi trắng Bắc Cực** (danh pháp khoa học: **_Coregonus autumnalis_**) là một loài cá hồi trắng nước ngọt sinh sống ở các khu vực Bắc Cực của Siberia, Alaska và Canada. Nó cũng có
**_Cá hồi trắng Bloater_** (danh pháp hai phần: **_Coregonus hoyi_**) là một loài cá thuộc chi Cá hồi trắng trong họ Cá hồi. Nó sinh sống ở Ngũ Đại Hồ, trừ hồ Erie và hồ
**Cá hồi trắng Bering**, (danh pháp hai phần: **_Coregonus laurettae_**) là một loài cá thuộc chi Cá hồi trắng trong họ Cá hồi. Nó sinh sống ở Alaska và một phần của Nga. Nó thường
**Cá hồi Ohrid** (danh pháp hai phần: **_Salmo letnica_**) là một loài cá hồi nước ngọt sinh sống ở khu vực Albania và Macedonia, đặc biệt là tại hồ Ohrid, tại các độ sâu từ
**Cá hồi trắng lưng gù**, (danh pháp hai phần: **_Coregonus pidschian_**) là một loài cá thuộc Chi Cá hồi trắng, họ Cá hồi. Nó được tìm thấy ở Canada, Phần Lan, Ý, Litva, Nga, Thụy
**Cá hồi trắng hàm ngắn** (danh pháp hai phần: **_Coregonus zenithicus_**) là một loài cá thuộc chi Cá hồi trắng trong họ Cá hồi. Đây là loài đặc hữu, nơi nó sing sống ở Bắc
**Cá hồi trắng châu Âu** (danh pháp hai phần: **_Coregonus albula_**) là một loài cá thuộc chi Cá hồi trắng trong họ Cá hồi. Loài này sinh sống ở các hồ bắc châu Âu, đặc
**Cá hồi Iwame** (hay **markless trout**, _Oncorhynchus masou_ var. _iwame_), là một Họ Cá hồi nước ngọt ở Nhật Bản.
**Thịt cá hồi** là một loại thực phẩm phổ biến và bổ dưỡng. Sản phẩm từ thịt cá hồi được cho là rất bổ ích cho sức khỏe, việc nuôi cá hồi nhằm cung cấp
**Cá hồi Úc** (danh pháp khoa học: **_Arripis_**) là một chi cá thuộc họ Cá hồi Úc (**Arripidae**), theo truyền thống xếp trong bộ Cá vược (Perciformes), nhưng gần đây được phân loại lại như
thumb|right|Các miếng cá bọc giấy bạc trong máy rửa bát thumb|right|Cá hồi máy rửa bát đã sẵn sàng để phục vụ **Cá hồi máy rửa bát** () là một món cá Hoa Kỳ được nấu
nhỏ|phải|Một hồ nuôi cá hồi nhỏ|phải|Cá hồi được bày bán ở chợ nhỏ|phải nhỏ|phải nhỏ|phải **Nuôi cá hồi** là việc nuôi, thu hoạch các loại cá hồi trong điều kiện kiểm soát để lấy thịt
Thực phẩm bảo vệ sức khỏe VIÊN DẦU CÁ HỒI DR NATURAL OMEGA 3 SALMON OIL 1000MGHãy lựa chọn. Dầu cá Hồi chứa hàm lượng Omega 3 cao nhất trong các loại dầu cáTasmania là
Serum cá hồi Lanci Hàn Quốc - Serum De Saumon Lanci mẫu mới 21 lọ - Dưỡng trắng, tái tạo da, ngăn ngừa lão hóa✔ Serum cá hồi de saumon lanci Hàn Quốcđược chị em
Serum Sụn Mũi Cá Hồi DDS Richness Capsule Nhật 48 ViênVì sao nên dùng Serum sụn mũi cá hồi DDS Richness Capsule:- Phục hồi, tái tạo và nuôi dưỡng làn da hiệu quả nhất- Đang
Cá hồi nướng có hương vị thơm ngon, kích thích vị giác, món ăn này không chỉ ngon mà còn có lợi cho sức khỏe.Cá hồi nướng là một món ăn phổ biến và bổ
Cá hồi sống là một món ăn được rất nhiều người yêu thích, ăn cá hồi sống chất lượng mang lại nhiều lợi ích cho sức khỏe.Cá hồi sống là một món ăn rất có
Cá hồi là một loại cá chứa nhiều dưỡng chất, đặc biệt có hàm lượng omega 3 cao, là một thực phẩm rất có lợi cho sức khỏe.Cá hồi (hay còn gọi là salmon) có
Cá hồi là một loại cá giàu dưỡng chất, đặc biệt có hàm lượng omega 3 cao, là một thực phẩm rất có lợi cho sức khỏe.Cá hồi giàu dưỡng chất, theo cơ sở dữ
Cá hồi là một loại cá giàu omega 3 cùng nhiều dưỡng chất có lợi cho trẻ nhỏ.Cá hồi (hay còn gọi là salmon) có giá trị dinh dưỡng tốt và ít calo. Một phần
Cá hồi là một loại cá giàu dinh dưỡng, đặc biệt omega 3, loại cá này có thể chế biến nhiều món như sushi, sashimi,...Ăn cá hồi sống mang lại nhiều lợi ích cho sức
Cá hồi là một loại cá ngon, giàu dinh dưỡng, tuy nhiên liệu người bị bệnh gout có được ăn cá hồi không? Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu nhé.Bệnh gout (gút) là một dạng
Cá hồi sống là một món ăn lành mạnh, ngon và tốt cho sức khỏe. Món ăn này thường được dùng để àm sashimi, sushi...Cá hồi chứa nhiều omega 3, chất đạm, các loại vitamin
Cá hồi hoang dã và cá hồi nuôi loại cá nào tốt hơn là một thắc mắc của nhiều người. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu nhé.Cá hồi hoang dã hay cá hồi nuôi, đều
Cá hồi là một loại cá chứa nhiều chất dinh dưỡng, nó có nhiều lợi ích cho sức khỏe, bao gồm cả hệ tim mạch.Bệnh tim mạch là một bệnh nguy hiểm, nguy cơ ảnh
Trứng cá hồi là một thực phẩm được nhiều người yêu thích, vậy liệu bà bầu có ăn được trứng cá hồi không? Có lợi ích gì? Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu nhé.Trứng cá