✨Hiệp sĩ của Đức tin

Hiệp sĩ của Đức tin

Hiệp sĩ của Đức tin là một cá nhân đã đặt trọn niềm tin vào bản thân mình và Chúa trời, và có thể hành động một cách tự do và độc lập so với thế giới bên ngoài. Nhà triết học người Đan Mạch ở thế kỉ 19 Søren Kierkegaard đã thảo luận mang tính tưởng tượng về Hiệp sĩ của Đức tin trong nhiều tác phẩm mang bút danh của ông, với những phân tích chi tiết và sâu sắc nhất thể hiện cụ thể trong tác phẩm "Fear and Trembling" và "Repetition".

Tổng quan

Johannes de Silentio, một bút danh mà Søren Kierkegaard sử dụng trong tác phẩm "Fear and Trembling", tranh luận rằng Hiệp sĩ của Đức tin là một nghịch lý, là một cá nhân, không là gì khác ngoài một cá nhân, không có sự liên hệ hay sự giả tạo. Hiệp sĩ của Đức tin là một cá nhân có thể chấp nhận một cách uyển chuyển cuộc sống: Kierkegaard đề cập đến điều này trong tác phẩm "Either/Or", "Khi xung quanh một người mọi thứ đã trở nên im lặng, trang nghiêm như một màn đêm trong trẻo và đầy ánh sao, khi tâm hồn trở nên cô độc trong toàn bộ thế giới, sau đó trước khi một người xuất hiện ở đó, không phải một người xuất chúng, nhưng nguồn năng lượng bất diệt bên trong nó, sau đó cổng Thiên đường mở ra, và "cái tôi" lựa chọn chính bản thân nó hay, chính xác hơn, nhận ra chính nó. Vì vậy cá nhân nhận được sự vinh dự dành cho một hiệp sĩ cái mà được phong tặng mãi mãi." "Hiệp sĩ của niềm tin là người duy nhất hạnh phúc, người thừa kế sự hữu hạn trong khi Hiệp sĩ của sự nhẫn nhục là một người lạ và một quái nhân."

3 giai đoạn

Kierkegaard nhận thấy 3 cấp độ của một sự tồn tại của cá nhân: yêu cái đẹp, yêu đạo đức và yêu tôn giáo. Trong tác phẩm "Fear and Trembling", Silentio ám chỉ các cá nhân trong từng giai đoạn lần lượt là con người cá nhân, con người công dân và con người tôn giáo. Mỗi cấp độ tồn tại này bao bọc cấp độ trên nó: một con người đạo đức hay một con người sùng đạo vẫn có thể tận hưởng cái đẹp trong cuộc sống. Abraham biết cách để cân bằng các mối quan hệ gia đình hữu hạn với mối quan hệ vô hạn của Chúa trời. Ông buộc phải vượt qua nỗi sợ có sự lo âu về việc mất một cái gì đó. Mỗi một cá nhân trải nghiệm sự lo âu ở một mức độ khác nhau và nỗi sợ về sự lo âu theo cách của riêng mình.

Hiệp sĩ của Đức tin và Hiệp sĩ của sự nhẫn nhục vô hạn

Silentio của Kierkegaard so sánh Hiệp sĩ của Đức tin với hai hình tượng khác, Hiệp sĩ của lòng nhẫn nhục vô hạn và "Những nô lệ" của cái đẹp. Kierkegaard sử dụng câu chuyện của một công chúa và một người đàn ông yêu cô mãnh liệt, nhưng điều ngang trái là anh ta sẽ không bao giờ nhận ra tình yêu này trong thế giới mà họ đang sống. Một người yêu cái đẹp sẽ từ bỏ tình yêu này, sẽ gào khóc rằng, ví dụ, "Tình yêu này thực sự ngu xuẩn. Một người phụ nữ góa chồng của một gia đình sản xuất bia giàu có thì vừa tốt vừa đáng kính trọng". Một người tôn sùng đạo đức sẽ không từ bỏ tình yêu này mà sẽ chịu đựng một sự thật đau đớn rằng họ sẽ không thể nào sống bên nhau trong thế giới này. Hiệp sĩ của sự vô hạn có lẽ tin hoặc không tin họ có thể được ở gần nhau trong kiếp sau hay trong thế giới của các linh hồn, nhưng điều quan trọng nhất là Hiệp sĩ của sự vô hạn sẽ từ bỏ niềm tin rằng họ sẽ được sống bên nhau trong thế giới này, trong kiếp này.

Hiệp sĩ của Đức tin cũng cảm thấy những gì mà Hiệp sĩ của lòng nhẫn nhục vô hạn cảm thấy ngoại trừ việc Hiệp sĩ của Đức tin tin chắc rằng trong thế giới này, trong kiếp này, anh sẽ được sống với người mình yêu. Hiệp sĩ của Đức tin sẽ nói. "Tuy nhiên, Tôi tin tưởng rằng tôi nên ở bên cạnh cô ấy, như, cái mà là, một sự vô lý, và như một thực tế rằng với Chúa trời mọi điều là có thể". Hai hành động đôi này là một nghịch lý vì một mặt xét về cách nhìn nhận của con người thì họ không thể bên nhau nhưng mặt khác Hiệp sĩ của Đức tin sẵn sàng tin rằng họ vẫn ở bên nhau trong cái nhìn của thần thánh.

Abraham and Isaac

[[Tập tin:Anthony_vanDyck-_Abraham_andIsaac-_WGA07427.jpg|thế=Abraham and Isaac|phải|nhỏ|350x350px|Abraham và Isaac vẽ bởi Anthony van Dyck
]] Johannes de Silentio tin rằng áp-ra-Ham là một trong những hiệp sĩ của đức tin. Trong cuốn Sách của Genesis, Chúa đã nói với Abraham rằng Abraham nên hy sinh đứa con của ông là Isaac. Abraham vô cùng yêu quý đứa con của mình, nhưng dù cho gặp phải tình cảnh éo le, Abraham tuân theo mệnh lệnh mà không oán trách. Trước khi Abraham quyết định thực hiện hành động khó khăn này, một Thiên thần đã dừng Abraham và ngợi khen ông và con trai cũng như lòng tin kiên định của ông. Trong một hành động nghịch lý tương tự về việc sẵn sàng thực hiện một hành động sát nhân, tức là giết chính con trai của mình, Abraham tin rằng, thông qua một thực tế vô lý, ông vẫn có một đứa con trai hiện hữu và sống mạnh khỏe. Abraham sẵn sàng liều lĩnh mọi thứ vì Chúa. Ông sẵn sàng hành động và bởi hành động của mình ông nhận lại niềm hạnh phúc bất tận và cao quý.

Nhưng Abraham đã hành động "như thế nào"? Ông đi bộ từng bước một với niềm tin vào Chúa trời trong suốt 3 ngày liền. Đó là một ví dụ của việc luôn giữ một niềm tin về cuộc sống tốt đẹp khi mà bất kì một nhà đạo đức nào cũng có thể nói rằng nó lẽ ra đã chết khi ông ròi khỏi nhà. Chuyện gì sẽ xảy ra đối với hy vọng của ông nếu ông nói với Sarah? Hay Isaac? Ông buộc phải tự biện giải cho mình nhưng ông không thể. Vì vậy ông mạo hiểm cho niềm tin những điều ông hiểu là điều tốt nhất. Ông vẫn kiên định với cách giải quyết của mình.

Ai là Hiệp sĩ của Đức tin?

[[Tập tin:Jan Janssens - The Annunciation.jpg|thế=The Annunciation|trái|nhỏ|244x244px|The Annunciation, củaJan Janssens
]] Theo quan điểm của Silentio, chỉ có hai người từng tồn tại là Hiệp sĩ của Đức tin: đức mẹ đồng Trinh Mary và Abraham. Ông cũng cho rằng Jesus cũng có thể là Hiệp sĩ của Đức tin. Silentio cũng thừa nhận rằng có thể có những hiệp sĩ của Đức tin khác ngoài kia nhưng chúng ta không biết đến họ hay chưa từng có một người nào. Đây là vì Hiệp sĩ của Đức tin sống một mình trong cô tịch. Tuy nhiên sau này, Kierkegaard có viết trong tác phẩm "Repetition". "Những người đàn ông trẻ đều từng trải qua thử thách như Job nhưng không ai trong số họ là Hiệp sĩ của Đức tin." Abraham không thực sự cô độc và không sống ẩn dật, ông chỉ thực sự cô độc trong 3 ngày phiền muộn, ông là một người đàn ông đã có vợ và con và Chúa cũng đã hứa cho ông nhiều hơn như vậy. Mary(Đức mẹ đồng trinh) chỉ đơn độc trong một thời gian ngắn với thiên thần nhưng sau đó Bà trở thành vợ và sau đó là làm mẹ.

Để đảm bảo, Mary làm cho đứa con buồn chán một cách tài tình, tuy nhiên Bà làm điều đó "theo bản năng của một người mẹ", và đây là khoảng thời gian đầy  lo lắng, đau khổ và nghịch lý. Nói đúng hơn, Thiên thần là một linh thần bảo hộ, nhưng anh ta không phải là người thích lo chuyện bao đồng. Anh ta đến gặp những cô gái trẻ khác tại Israel và nói: Đừng có khinh miệt Mary, cô ấy đang gặp phải những điều bất thường. Người Thiên thần chỉ đến bên cạnh Mary, và không một ai có thể hiểu cô ấy. Có bất kì người phụ nữ nào đã từng phá bỏ rào cản như Mary và liệu điều này có đúng không khi một người vừa được Chúa trời ban phước lành vừa bị Chúa nguyền rủa? Fear and Trembling p. 65
Hiệp sĩ của Đức tin là một người đàn ông/phụ nữ của hành động(Xem tác phẩm "Eighteen Upbuilding Discourses" cho thể loại hành động này). Abraham trở thành Hiệp sĩ của Đức tin vì Ông sẵn sàng nâng lưỡi dao lên để hy sinh Issac. Mary là Hiệp sĩ của Đức tin vì Bà tình nguyện để có Jesus. Jesus trở thành Hiệp sĩ của Đức tin vì sẵn sàng chấp nhận bước lên thánh giá. Paul là Hiệp sĩ của Đức tin vì Ông chấp nhận(hay nói đúng hơn là quyết tâm) đến Jerusalem. Kierkegaard cũng cho rằng Diogenes là một Hiệp sĩ của Đức tin nhưng Ông không cần phải làm những kì công vĩ đại hay chinh phục vũ trụ để trở thành một Hiệp sĩ của Đức tin. Kierkegaard nhấn mạnh tính đảo lộn trong và ngoài trong cuốn sách đầu tiên của ông, tác phẩm "Either/Or". Ông có lẽ đã nghĩ rằng Mary và Joseph, Job, Abraham, Paul, Socrates, và Jesus tất cả đều hành động "hoàn toàn nội tâm" chứ không phải là thể hiện rõ ra bên ngoài. Tuy nhiên, Kierkegaard đã chỉ rõ những điểm khác biệt giữa Mary và những Hiệp sĩ Đức tin khác trong tác phẩm "The Book on Adler". Adler có những dằn vặt nội tâm nhưng lại không nghĩ rằng ông có bổn phận làm những gì mình nói mà nên nói toàn bộ nhà thờ thực hiện nó. Một hành động trong nội tâm là hoàn toàn khác biệt với hành động bên ngoài. Làm cách nào để một họa sĩ có thể vẽ được những diễn biến nội tâm? Làm sao để một diễn viên diễn tả nội tâm trên sân khấu? Làm thế nào để một người có thể nói cảm xúc của mình cho những người khác nghe

Kierkegaard nói rằng "Khi Eleatics từ chối di chuyển, Diogenes, như mọi người biết, luôn hành động như một kẻ chống đối. Nói đúng hơn, Ông luôn hành động, vì ông không nói bất kì lời nào mà chỉ đi qua đi lại một vài lần, từ đó có thể khẳng định rằng Ông đã hoàn toàn bác bỏ họ." Kierkegaard mô tả Diogenes tương tự trong tác phẩm "Philosophical Fragments" trong năm 1844. Kierkegaard có cùng một chủ đề trong các tác phẩm trước và sau này. "Những kì công anh hùng vĩ đại là những điểm nhấn của lịch sử nhưng không phải là vấn đề quan trọng trong cuộc sống hằng ngày. Mỗi cá nhân đều có thể làm nên những việc vĩ đại trong cuộc sống của mình. Mỗi chúng ta được sinh ra với những năng lực biến chúng ta trở thành những gì chúng ta muốn. "Đức tin có thể được hiểu và thực hiện một cách rất nhanh bởi những những con người đơn giản nhất mà các nền văn hóa phải khó khăn hơn mới có thể đạt được. Những điều tuyệt vời, đáng trân trọng, lòng từ bi: những điều cao cả nhất đều dành cho tất cả mọi người." Ông viết, Kierkegaard luôn hướng mọi người theo tấm gương của Abraham. Ông luôn mong muốn những điều tốt đẹp thay vì nỗi lo sợ những điều xấu xa. Ông tin tưởng vào Chúa trời. Điều này cũng giống như các cá nhân buộc phải đưa ra những lựa chọn từ bỏ những điều hữu hạn và phát hiện ra rằng những điều hữu hạn đã trở thành những điều vô hạn có giá trị.

Abraham có niềm tin, và có niềm tin trong cuộc sống này. Thực tế, nếu niềm tin của ông chỉ dành cho cuộc sống, Ông chắc chắn sẽ dễ dàng từ bỏ mọi thứ để mà thoát khỏi một thế giới mà ông không thuộc về. Fear and Trembling p. 20

Kierkegaard sử dụng ví dụ đặc biệt về Đức tin này để giúp cho những người sợ phải từ bỏ một số thứ hay cần phải liều lĩnh mà không chắc sẽ nhận lại được gì. Abraham sẵn sàng liều lĩnh mọi thứ để vâng lời Chúa và Christ sẵn sàng liều lĩnh mọi thứ để dạy cho nhân loại về tình yêu thương. Cả hai người bọn họ đều không biết điều gì sẽ xảy ra với mình. Abraham học được cách để yêu thương Chúa nhưng ông có học được cách để yêu thương những người thân thuộc và chính bản thân mình không?
Nếu tôi lo lắng về một điều không may mắn trong quá khứ, thì đó là vì điều này có thể sẽ lặp lại một lần nữa chứ không phải vì nó đã từng xảy ra, có nghĩa là trong tương lai nó có thể xảy ra một lần nữa. Nếu tôi lo lắng về một sự xúc phạm trong quá khứ, thì nó là vì tôi đã không đặt nó trong một mối quan hệ đúng nghĩa trong quá khứ và có một thủ thuật để ngăn chặn nó diễn ra trong quá khứ. Nếu nó thực sự là một việc của quá khứ, thì tôi không thể lo lắng mà chỉ có thể hối hận. Nếu như tôi không hối hận thì tôi sẽ cho phép bản thân mình tạo cho mối quan hệ của tôi đối với những tác động qua lại của sự xúc phạm, và bởi điều này sự xúc phạm tự nó đã trở thành một cái gì có thể, không còn là một cái gì của quá khứ. Nếu tôi lo lắng về sự trừng phạt thì chỉ vì điều này nằm trong sự tác động qua lại với sự xúc phạm(Nếu không thì tôi sẽ chịu hình phạt), và vì vậy tôi lo lắng cho những điều có thể xảy ra trong tương lai. Từ đây, chúng ta sẽ nhắc lại những điều đã nói trong Chương I. Nỗi lo sợ là một hiện tượng tâm lý ban đầu của tội lỗi(sin). Nó rất gần với cảm giác tội lỗi(sin) nhưng không phải là cảm giác tội lỗi, điều mà chỉ xảy ra khi co bước nhảy vọt về chất(qualitative leap). Søren Kierkegaard, The Concept of Anxiety, Nichol p. 91-92
Jacques Maritain viết trong năm 1964, "Soren Kierkegaard sống cùng thời với Marx. Nhưng chỉ trong những năm đầu của thế kỉ 20 thì tên tuổi của ông mới bắt đầu nổi tiếng và sức ảnh hưởng của ông lan mạnh. Không một ai trong số hai nhà triết học có ý định trở thành một nhà triết học thực thụ, nhưng một người nghĩ mình là một nhà tư tưởng bình dân; Không phải là một nhà thần học hay một nhà tiên tri(bị ám ảnh bởi cảm xúc của ông về yêu cầu của kinh Gospel và bởi sự vô dụng của ông, ông thừa nhận một cách miễn cưỡng mình là một tín đồ Thiên Chúa giáo), nhưng là một loại tiên tri và Hiệp sĩ của Đức tin, và, vào những năm cuối đời, "một nhân chứng của chân lý" trong niềm hưng phấn của ông đứng lên chống lại các nhà thờ đương thời, nhà thơ của tôn giáo, như ông tự gọi mình, là một người phức tạp và khó hiểu đủ sức để thay thế vị trí của các nhà diễn giải lúc bấy giờ và chỉ ra những bất đồng giữa họ." Ông cũng tuyên bố rằng Theodor Haecker là một hiệp sĩ của đức tin. thế=Theological Virtues (Faith)|phải|nhỏ|400x400px|Thần học, đạo Đức của [[Raffaello|Raphael]] Kierkegaard dùng tác phẩm của mình là "Fear and Trembling" để đưa ra một lời tuyên bố rằng "Abraham, Mary và một người thu thuế cũng là một Hiệp sĩ của Đức tin". Những người này chỉ là những con người bình thường vì vậy Đức tin không phải chỉ dành cho một thiểu số nào đó "được chọn", ông cho rằng, "Moses có thể tạo ra nước từ đá, nhưng ông không có Đức tin". ... Abraham là người được Chúa chọn lựa và chính Chúa đã tạo ra các thử thách." Ông nói rằng "Những nghệ sĩ tiến lên bằng cách thụt lùi lại" bằng cách viết về Đức tin của Abraham, Đức tin của Job, Đức tin của Paul và thậm chí Đức tin của Christ và bằng cách tạo ra những công trình tưởng tượng về các "anh hùng" của Đức tin, họ làm cho Thiên chúa giáo trở nên khó khăn hơn đối với những con người giản dị muốn trở thành tín đồ của Thiên chúa giáo. Tuy nhiên cùng lúc các nhà thờ thường biến Thiên chúa giáo thành một "môn khoa học". Đức tin chỉ có thể tự nó phát triển, nó không cần những người mong muốn có niềm tin kiểm chứng. Cuối cùng, nó sẽ được giải thích bằng những hành động bên ngoài hơn là những kiến thức bên trong của những người muốn trở thành tín đồ Thiên chúa giáo. Đức tin cao đẹp trở thành một điều không thể truyền lại trong cuộc sống hằng ngày. Chỉ những người đang sống mới có thể truyền tải Đức tin, sự hy vọng, lòng nhẫn nhục, tình yêu thương và sự tự chủ để giữ vững niềm tin bằng tất cả khả năng của mình dù cho có bất kì chuyện gì có thể xảy ra trong cuộc sống của họ. Một người có thể trở thành Hiệp sĩ của Đức tin khi dám hành động liều lĩnh. Đây là nhữn gì Abraham làm trong tác phẩm "Fear and Trembling" và người Thanh niên(The Young Man) thất bại trong tác phẩm "Repetition". Một người từng nói, tôi sẽ làm điều này vì con người trong tôi nói tôi nên làm và những người còn lại sẽ nói họ làm điều này vì những cái bên ngoài tác động vào họ. Kierkegaard phân biệt rõ ràng điều này trong tác phẩm "Either/Or.
Nếu một người muốn lột bỏ những sai lầm của con người để mà dẫn dắt họ đến với sự thật, thì như mọi khi bạn(hiện thân của điều tốt đẹp) là "người sãn sàng giúp đỡ bằng mọi cách". Trên tất cả bạn luôn cố gắng tìm ra những ảo tưởng để đập tan nó. Bạn nói rất hợp lý, với những kinh nghiệm này, đến nỗi mà những người không biết rõ về bạn sẽ nghĩ bạn là một người vững vàng. Nhưng chính bạn cũng không biết điều gì là đúng. Bạn dừng với việc phá hủy những ảo tưởng, và vì vậy bạn làm nó theo một hướng dễ hiểu, bạn thật sự đã bước vào một ảo tưởng mới mà một người có thể dừng việc này. Phải, bạn của tôi, bạn đang sống trong ảo tưởng và bạn không làm được gì trong cuộc sống. Ở đây tôi đã nói những từ khá xa lạ với bạn. Đạt được – "Vậy ai đang đạt được cái gì?" Điều đó chính xác là một trong những ảo tưởng nguy hiểm nhất. Tôi không để bản thân mình hoàn toàn bận rộn trong thế giới này. Tôi tự hài lòng với những điều tốt nhất mà tôi có thể làm và tôi hoàn toàn vui với những con người tự cho mình là đã đạt nhiều thành tựu, và một người tin như vậy không vui lắm sao? Tôi từ chối tự thiêu mình trong sự chứng tỏ phi lý như vậy". Søren Kierkegaard, Either/Or Part II, Hong, p. 78-79

Tiểu sử

Kierkegaard được nuôi dưỡng với cha mẹ mà họ hoàn toàn đối lập nhau về cách nhìn trong Đức tin. Cha của ông đọc triết học và nghiên cứu nó với những người đứng đầu tại nhà thờ Đan Mạch trong khi mẹ của ông thậm chí không đọc về triết. Ông đã trải nghiệm về sự khủng hoảng về Đức tin rất sớm. Ông không thiên về thái cực nào của quan niệm về tội lỗi, những người tin rằng họ có tội vì Adam phạm tội vì vậy dù có làm gì cũng không thể xóa bỏ được nó và những người còn lại thì tin rằng mỗi tội lỗi cũng giống như việc đóng đinh Chúa trên thập tự giá và họ có quyền tự sát nếu họ quá căm ghét bản thân mình. Một bên thì nguy hiểm vì nghĩ một cách đơn giản về tội lỗi còn một bên cũng nguy hiểm khi luôn bị kiềm chế trong nỗi sợ hãi và âu lo. Cha của Ông dạy cho Ông sự khắc khổ về Đức tin của Đạo Cơ đốc trong khi mẹ Ông thì nói lên một cách nhìn sáng sủa hơn về Đức tin. Ông tự tìm kiếm sự cân bằng cho mình giữa cha và mẹ và Ông nghĩ rằng những tác phẩm của ông về cái đẹp, chân lý và Đức tin là những tác phẩm có giá trị. Đây là cách mà ông tự lý giải nó với bản thân trong tác phẩm "Two Upbuilding Discourses, 1843," và trong những bài báo của ông(1849). Ông chết mà không biết liệu mình có đạt được bất kì thành tựu nào không nhưng ông vẫn luôn có Đức tin..

Nếu như bạn đã yêu mọi người thì thì sự khác nghiệt của cuộc sống có lẽ đã dạy bạn rằng cương nghị là chưa đủ mà còn phải biết im lặng, và khi bạn đang cảm thấy thất vọng vì bị mắc kẹt tại biển nhưng không thấy đất liền, thì điều tốt nhất bạn có thể làm là đừng lôi kéo thêm người khác vào trong đó; nó cũng dạy bạn nên mỉm cười lâu nhất có thể khi có một ai đó đang tìm kiếm một lời giải thích trên gương mặt bạn, một nhân chứng. Chúng ta không phán xét bạn vì sự nghi ngờ của bạn, vì sự nghi ngờ là một cảm xúc gian trá, nó chắc chắn là rất khó để phá hủy một ai đó bằng những cái bẫy của mình. Những gì chúng ta cần ở một người hoài nghi là anh ấy nên im lặng. Những điều anh ấy nghi ngờ không làm cho anh ấy hạnh phúc- vậy tại sao lại tiết lộ cho những người khác những gì sẽ làm cho họ không hạnh phúc. Hoài nghi là một cảm xúc dai dẳng và gian trá. Nhưng tâm hồn của một người không bị kiềm giữ bởi nó quá sâu đến nỗi mà anh ta trở nên kiệm lời thì chỉ e ngại cảm xúc này, vì vậy những gì anh ấy nói không chỉ sai về mặt bản chất mà còn lại rất thô lỗ. Sự hy vọng vào Đức tin, vì vậy, là chiến thắng. Sự hoài nghi đến từ bên ngoài không thể ảnh hưởng đến nó, vì nó sẽ xúc phạm chính nó khi nói ra ngoài. Nhưng sự hoài nghi thì gian trá, bằng những cách ám muội nó lén lút đi theo mọi người, và khi Đức tin đang kì vọng vào một chiến thắng, sự hoài nghi thủ thỉ rằng sự kì vọng này là dối trá. Sự kì vọng mà không có một thời điểm và địa điểm cụ thể là một sự dối trá; Theo diễn biến này một người có thể luôn luôn chờ đợi; sự kì vọng này là một vòng tròn lẩn quẩn, tại đó tâm hồn bị lôi cuốn và từ đó nó không thể thoát a được. Trong kì vọng của Đức tin, linh hồn bị ngăn cản rời xa bản chất đa dạng của nó; nó duy trì chính nó, nhưng nó là con ác quỷ xấu xa nhất có thể xảy ra đối với con người nếu nó thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn này.

  • Søren Kierkegaard, Two Upbuilding Discourses, ngày 16 tháng 5 năm 1843 
Khi mà tôi bắt đầu như một tác giả của "Either/Or", tôi chắc chắn có một ấn tượng rất lớn về sự khủng hoảng trong đức tin Cơ đốc so với bất kì mục sư nào trong đất nước. Tôi có những nỗi sợ và ám ảnh mà chắc có lẽ không ai có. Nhưng không phải vì vậy mà tôi muốn từ bỏ thiên chúa Giáo.. Không, tôi có một cách giải thích khác cho nó. Vì một điều mà tôi đã học trong thực tế từ rất sớm, đó là có nhiều người được lựa chọn để gánh chịu những nỗi đau đớn, và, vì một điều khác, tôi nhận ra mình mắc tội lỗi nhiều và vì vậy có thể Thiên Chúa giáo trong cái nhìn của tôi lại đau đớn đến vậy. Nhưng bằng sự hung dữ và sai lầm của bạn, tôi nghĩ, nếu bạn dùng nó để khủng bố người khác, có lẽ sẽ làm phiền những con người hạnh phúc và tràn đầy tình yêu thương của Đạo Thiên Chúa. Thật sự là quá xa cách với bản tính của tôi nếu tôi muốn khủng bố người khác, và vì vậy tôi vừa buồn vừa có phần tự hào vì đã làm vui lòng người khác lại cảm thấy bản thân mình tử tế đối với mọi người – giấu đi phần khủng hoảng bên trong mình. Vì vậy, tôi muốn gửi đến những người cùng thời của tôi(dù cho họ có muốn hiểu hay không) những lời ám chỉ mang tính hài hước(để có thể tạo nên một giọng nói bớt gay gắt) cái mà có thể tạo nên một loại chỉ trích nhẹ nhàng và chỉ như vậy thôi; tôi có ý định giữ lại phần nặng nề về phía tôi, như là một thập tự giá của chính mình. Tôi luôn luôn có những ngoại lệ đối với những người có tội theo một cách nghiêm khắc nhất và vì vậy bận rộn với việc khủng bố những người khác. Đây chính là lý do cho sự xuất hiện của tác phẩm "Concluding Postscript".
  • Søren Kierkegaard, Journal and Papers, VI 6444 (Pap. X1 A541) (1849) (Either/Or Part II, Hong p. 451-452)
  • 👁️ 4 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
    **Hiệp sĩ của Đức tin** là một cá nhân đã đặt trọn niềm tin vào bản thân mình và Chúa trời, và có thể hành động một cách tự do và độc lập so với
    Trang cuối văn bản Hiệp ước không xâm phạm Đức – Xô ngày 26 tháng 8 năm 1939 (chụp bản xuất bản công khai năm 1946) **Hiệp ước Xô – Đức**, còn được gọi là
    nhỏ|phải|Chữ thập của dòng Đền Các **Chiến hữu Nghèo của Chúa Kitô và Đền Solomon** (tiếng Latinh: _paupers commilitones Christi Templique Solomonici_), thường được gọi tắt là **Hiệp sĩ dòng Thánh**, **Hiệp sĩ dòng Đền**
    **Dòng Kỵ sĩ Mộ Thánh thành Jerusalem** (, viết tắt: **OESSH**), còn được gọi là **Dòng Hiệp sĩ Mộ Thánh** hay **Hiệp sĩ Mộ Thánh**, là một dòng hiệp sĩ Công giáo được công nhận
    **Hiệp sĩ Cứu tế** hay **Y viện Hiệp sĩ Đoàn** hay **Hiệp sĩ Y viện** (còn được gọi là _Giáo binh đoàn Tối cao của Thánh John của Jerusalem của Rhodes và của Malta, Hiệp
    **Dòng Huynh đệ Nhà Teuton Thánh Mẫu tại Jerusalem** (tên chính thức tiếng Latinh: _Ordo domus Sanctæ Mariæ Theutonicorum Hierosolymitanorum_; tiếng Đức: _Orden der Brüder vom Deutschen Haus St. Mariens in Jerusalem_), thường gọi tắt
    **Hiệp sĩ Thập tự** hay **Hiệp sĩ Thánh chiến** (tiếng Ba Lan: Krzyżacy) là một cuốn tiểu thuyết lịch sử năm 1900 được viết bởi nhà văn theo chủ nghĩa thực chứng Ba Lan và
    **Edward II của Anh** (25 tháng 4, 1284 – 21 tháng 9, 1327), còn gọi là **Edward xứ Caernarfon**, là Vua của Anh từ 1307 cho đến khi bị lật đổ vào tháng 1 năm
    **_Hiệp sĩ nữ hoàng_** (Tiếng Hàn: 여왕의 기사, Tiếng Anh: The Queen's Knight, Tiếng Đức: Ritter der Königin), do 김강원 (Kim Kang-won), tác giả của I.N.V.U. sáng tác, là một bộ manhwa (truyện tranh Hàn
    **Maximilian II** (31 tháng 7 năm 1527 – 12 tháng 10 năm 1576) là Hoàng đế La Mã Thần thánh từ năm 1564 cho đến khi ông qua đời năm 1576. Là thành viên của
    [[Họa phẩm kị sĩ Konrad von Limpurg nhận gia miện từ một quý nương trong Codex Manesse (đầu thế kỷ XIV).]] alt=A young woman in a medieval-style dress of cream satin ties a red scarf
    **Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ** (tiếng Anh: **_G**eneral **A**greement on **T**rade in **S**ervices_, viết tắt là **GATS**) là một hiệp định của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Hiệp định được
    **_Nền đạo đức Tin Lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản_** (_Die protestantische Ethik und der 'Geist' des Kapitalismus_) là tác phẩm nổi tiếng nhất và hay được bàn đến của nhà kinh
    **Ferdinand I của Bulgaria** (Tiếng Bulgaria: ; 26/02/1861 - 10/09/1948),, tên khai sinh là **Ferdinand Maximilian Karl Leopold Maria von Sachsen-Coburg und Gotha**, là vị Vương công thứ hai của Thân vương quốc Bulgaria từ
    right|thumb|Trang thứ ba và trang cuối cùng của văn bản [[đầu hàng vô điều kiện được ký tại Berlin ngày 9 tháng 5 năm 1945]] **Văn kiện Đầu hàng của Đức Quốc xã** (; ;
    **Hiệp định đình chiến Compiègne** (, ) được ký vào ngày 11 tháng 11 năm 1918 trong một khu rừng gần thành phố Compiègne, thuộc vùng Picardy của Pháp. Hiệp định này đánh dấu sự
    thumb|Bản đồ [[Đế chế La Mã Thần thánh năm 1789]] thumb|[[Bang liên Đức sau năm 1815, kết quả của hòa giải Đức trong Chiến tranh Napoléon]] **Hòa giải Đức** (; ) là quá trình tái
    Quân kỳ của Quân đội Đức quốc xã**Lịch sử quân sự Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai** bắt đầu từ quân số 100.000 do Hòa ước Versailles hạn chế, không được quyền có
    **Edward VII của Anh** (Albert Edward; 9 tháng 11 năm 1841 – 6 tháng 5 năm 1910) là Quốc vương Vương quốc Anh và các quốc gia tự trị của Anh, và Hoàng đế Ấn
    **Aleksandr I** (, Aleksandr Pavlovich; – ) là Sa Hoàng của đế quốc Nga từ 23 tháng 3 năm 1801 đến 1 tháng 12 năm 1825. Ông là người Nga đầu tiên trở thành Vua
    Dom **Pedro I** (tiếng Việt:Phêrô I; 12 tháng 10 năm 1798 – 24 tháng 9 năm 1834), biệt danh "Người Giải phóng", là người thành lập và nhà cai trị đầu tiên của Đế quốc Brasil. Với
    **William IV của Liên hiệp Anh** (William Henry; 21 tháng 8 năm 1765 – 20 tháng 6 năm 1837) là Quốc vương Vương quốc Anh và Vua của Hannover từ 26 tháng 6 năm 1830 cho
    **George VI của Liên hiệp Anh** (Albert Frederick Arthur George; 14 tháng 12 năm 1895 – 6 tháng 2 năm 1952) là Quốc vương của Vương quốc Liên hiệp Anh và các quốc gia tự
    **George V** (3 tháng 6 năm 1865– 20 tháng 1 năm 1936) là Quốc vương Vương quốc Anh và các quốc gia tự trị của Anh, và Hoàng đế Ấn Độ, từ 6 tháng 5
    **Tin Lành** (chữ Anh: _Protestantism in Vietnam_), là một tôn giáo thuộc Cơ Đốc giáo được truyền vào Việt Nam từ đầu thế kỉ XX và hiện là một cộng đồng tôn giáo thiểu số,
    **Charles I của Anh** (19 tháng 11 năm 1600 – 30 tháng 1 năm 1649) là vua của ba vương quốc Anh, Scotland, và Ireland từ 27 tháng 3 năm 1625 đến khi bị hành quyết
    **Pedro II** (tiếng Anh: _Peter II_; 02 tháng 12 năm 1825 - 5 tháng 12 năm 1891), có biệt danh là "**Người cao thượng**", là vị hoàng đế thứ 2 và cuối cùng của Đế
    **François I** (tiếng Pháp: François Ier; tiếng Pháp Trung cổ: Francoys; 12 tháng 9 năm 1494 – 31 tháng 3 năm 1547) là Quốc vương Pháp từ năm 1515 cho đến khi qua đời vào
    **Hiệp ước Hải quân Washington**, còn được gọi là **Hiệp ước Năm cường quốc** là một hiệp ước được ký kết vào năm 1922 trong số các quốc gia lớn đã thắng Thế chiến thứ
    **Karl V** (tiếng Tây Ban Nha: _Carlos_; tiếng Đức: _Karl_; tiếng Hà Lan: _Karel_; tiếng Ý: _Carlo_) (24 tháng 2 năm 1500 – 21 tháng 9 năm 1558) là người đã cai trị cả Đế
    **George IV** hay **George Đệ Tứ** (tên tiếng Anh: George Augustus Frederick; 12 tháng 8 năm 1762 – 26 tháng 6 năm 1830) là Quốc vương Vương quốc Anh và Vua của Hannover từ sau
    **Chiến tranh nông dân ở Đức** (hay **cuộc cách mạng của thường dân**) là toàn bộ các cuộc nổi dậy của nông dân, những người ở thành thị và các công nhân hầm mỏ, bùng
    **Ernst August** (sinh ngày 05 tháng 06 năm 1771 – mất ngày 18 tháng 11 năm 1851), là vua của Vương quốc Hannover từ này 02/06/1837 cho đến khi ông qua đời vào năm 1851.
    **Edward VIII của Anh** (Edward Albert Christian George Andrew Patrick David; 23 tháng 6 năm 1894 – 28 tháng 5 năm 1972) là Quốc vương Vương quốc Anh và các quốc gia tự trị của
    **Charles II của Anh** (29 tháng 5 năm 1630 – 6 tháng 2 năm 1685) là vua của Anh, Scotland, và Ireland. Ông là vua Scotland từ 1649 đến khi bị lật đổ năm 1651, và
    **George III của Liên hiệp Anh** (George William Frederick; 4 tháng 6 năm 1738 – 29 tháng 1 năm 1820) là Quốc vương Đại Anh và Ireland cho đến khi hai vương quốc hợp nhất
    Từ thời kỳ cổ đại, **Đức** (lúc đó được người La Mã gọi là vùng đất Germania) đã có các bộ lạc người German (tổ tiên trực tiếp của người Đức) chính thức cư ngụ
    **Hiệp ước München**, hoặc **Hiệp ước Munich** là một thỏa thuận được ký kết tại Munich vào ngày 30 tháng 9 năm 1938, giữa Đức Quốc xã, Anh quốc, Cộng hòa Pháp và Phát xít
    **Aleksandr III Aleksandrovich** ( – ) (, Aleksandr III Aleksandrovich) là vị Hoàng đế, hay Sa hoàng áp chót của đế quốc Nga từ ngày 13 tháng 3 năm 1881 tới khi qua đời năm
    **Mihai I của România** (tiếng România: _Mihai I al României_ ; 25 tháng 10 năm 1921 – 5 tháng 12 năm 2017) là vị vua cuối cùng của Vương quốc România, trị vì từ ngày
    **Hiệp định Genève 1954** (tiếng Việt: **Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954**) là hiệp định đình chiến được ký kết tại thành phố Genève, Thụy Sĩ nhằm khôi phục hòa bình ở Đông Dương. Hiệp định
    **Albert I của Sachsen** (tên đầy đủ: _Friedrich August Albrecht Anton Ferdinand Joseph Karl Maria Baptist Nepomuk Wilhelm Xaver Georg Fidelis_) (sinh ngày 23 tháng 4 năm 1828 tại Dresden – mất ngày 19 tháng
    **Sophie của Phổ** (tiếng Đức: _Sophie von Preußen_; tiếng Hy Lạp: Σοφία της Πρωσίας; 4 tháng 6 năm 1870 – 13 tháng 1 năm 1932) là Vương hậu Hy Lạp từ ngày 18 tháng 3
    **Karl XIV Johan**, tên khai sinh: **Jean-Baptiste Bernadotte**, về sau là **Jean-Baptiste Jules Bernadotte** (26 tháng 1 năm 1763 – 8 tháng 3 năm 1844), con trai thứ hai của luật sư Henri nhà Bernadotte,
    **Felipe V của Tây Ban Nha** (, ; 19 tháng 12 năm 1683 – 9 tháng 7 năm 1746) là Vua của Tây Ban Nha. Felipe lên ngôi hai lần. Lần thứ nhất từ ngày
    **Wilhelm, Thái tử Đức và Phổ** (tiếng Đức: _Wilhelm, Kronprinz von Deutschland und Preußen_; tiếng Anh: _Wilhelm, Crown Prince of Germany and Prussia_) (6 tháng 5 năm 1882 - 20 tháng 7 năm 1951) là
    **Viktoria Luise của Phổ** (tiếng Đức: _Viktoria Luise von Preußen_; tên đầy đủ: _Viktoria Luise Adelheid Mathilde Charlotte_; 13 tháng 9 năm 1892 – 11 tháng 12 năm 1980) là người con cuối cùng của
    **Henry VIII** (28 tháng 6 năm 1491 – 28 tháng 1 năm 1547) là Quốc vương của nước Anh từ ngày 21 tháng 4 năm 1509 cho đến khi băng hà. Ông là Lãnh chúa,
    **Henry VII** (tiếng Wales: _Harri Tudur_; tiếng Anh: _Henry VII of England_; 28 tháng 1, 1457 - 21 tháng 4, 1509) là Quốc vương của nước Anh và là Lãnh chúa của Ireland, lên ngôi
    **Wilhelm I** (tiếng Đức: _Friedrich Wilhelm Karl_; 27 tháng 9 năm 1781 – 25 tháng 6 năm 1864) là Vua của Württemberg từ ngày 30 tháng 10 năm 1816 cho đến khi ông qua đời