✨Hiệp sĩ Cứu tế

Hiệp sĩ Cứu tế

Hiệp sĩ Cứu tế hay Y viện Hiệp sĩ Đoàn hay Hiệp sĩ Y viện (còn được gọi là Giáo binh đoàn Tối cao của Thánh John của Jerusalem của Rhodes và của Malta, Hiệp sĩ Malta, Hiệp sĩ của Rhodes, và Hiệp sĩ Malta; , ) khởi đầu là bệnh viện Amalfi được thành lập ở Jerusalem vào năm 1080 nhằm chăm sóc những người hành hương nghèo và bệnh tật đến Đất Thánh. Sau cuộc chinh phục Jerusalem vào năm 1099 trong cuộc Thập tự chinh thứ nhất, nó đã được cho phép trở thành một giáo đoàn (quân đoàn), và được giao nhiệm vụ chăm sóc và bảo vệ Đất Thánh. Sau khi lãnh thổ của những người theo Kitô giáo bị mất ở Đất Thánh, Giáo đoàn tiếp tục hoạt động từ đảo Rhodes, là lãnh thổ mà họ có chủ quyền, rồi về sau từ Malta nơi họ cai trị như một thành bang chư hầu dưới quyền tổng trấn Sicilia của Tây Ban Nha.

Khi Napoléon Bonaparte chiếm Malta năm 1798, dòng tu Hiệp sĩ ngưng mối liên hệ với tất cả các tổ chức tôn giáo hay chính trị bên ngoài, và cố gắng duy trì sự tồn tại độc lập cho đến ngày nay dưới cái tên Dòng Chiến sĩ Toàn quyền Malta (Sovereign Military Order of Malta).

Lịch sử

Sự thành lập và buổi ban đầu

Năm 600, Viện phụ Probus được Giáo hoàng Grêgôriô I (còn gọi là Grêgôriô Cả) ủy nhiệm xây dựng một bệnh viện ở Jerusalem để chăm sóc những người hành hương theo Kitô giáo tới Vùng Đất Thánh. Năm 800, Hoàng đế Charlemagne mở rộng bệnh viện của Probus và xây thêm một thư viện. Khoảng 200 năm sau, năm 1005, Khalip Al Hakim cho phá hủy bệnh viện và 3000 tòa nhà khác ở Jerusalem. Năm 1023, các thương gia từ Amalfi và Salerno được vua Ai Cập là Ali az-Zahir cho phép xây dựng lại bệnh viện. Bệnh viện được xây dựng lại trên nền tu viện Thánh Gioan the Baptist, chăm sóc những người hành hương tới thăm các nơi linh thiêng của với người Kitô hữu. Bệnh viện được quản lý bởi các tu sĩ Dòng Biển Đức.

Dòng tu Cứu tế được Gerard Thom thành lập sau cuộc Thập tự chinh lần thứ nhất, ông giữ vai trò lãnh đạo và được Giáo hoàng Pascalê II ra sắc lệnh công nhận năm 1113. Gerard giành được các lãnh thổ và lợi tức cho tổ chức của mình trên khắp trong và ngoài vương quốc Jerusalem. Người kế vị ông, Raymond du Puy de Provence lập bệnh xá Hospitaller quan trọng đầu tiên ở gần nhà thờ Mộ Thánh tại Jerusalem. Ban đầu họ chăm sóc những người hành hương, nhưng nhanh chóng trở thành các đội hộ tống, rồi phát triển thành lực lượng quân sự đích thực.

Dòng tu Hiệp sĩ Cứu tế và Hiệp sĩ dòng Đền, thành lập năm 1119, trở thành những thế lực Kitô giáo hùng mạnh nhất trong khu vực. Dòng tu giành được nhiều danh tiếng trong các trận giao tranh với quân Hồi giáo, chiến sĩ của dòng tu mặc áo choàng màu đen với thập tự trắng.

Giữa thế kỷ 12, họ phân chia rõ rệt thành những lực lượng quân sự và những người chữa bệnh. Họ vẫn là một tổ chức tôn giáo được giáo hoàng ban nhiều đặc quyền, ví dụ như họ chỉ chịu dưới quyền duy nhất giáo hoàng, được miễn thuế và được phép xây dựng các công trình tôn giáo. Rất nhiều công sự của người Kitô hữu ở Vùng Đất Thánh là do họ và các Hiệp sĩ dòng Đền xây. Vào thời đỉnh cao của vương quốc Jerusalem, người của dòng tu này nắm giữ 7 thành trì lớn và 140 khu đất. Hai thành lớn nhất, nền tảng cho sức mạnh của họ ở vương quốc Jerusalem và công quốc Antioch là các thành Krak des Chevaliers và Margat. Đất đai của dòng tu được chia thành các giáo khu (tu viện), được chia nhỏ thành các địa hạt, rồi thành các trang ấp (commandery). Hoàng đế La Mã Thần thánh là Friedrich I Barbarossa ban bản hiến chương năm 1185, cam kết bảo vệ Dòng tu và các đặc quyền của họ.

Hiệp sĩ xứ Cyprus và Rhodes

nhỏ|Pháo đài của Dòng tu Hiệp sĩ tại Rhodes

Các Hiệp sĩ cuối cùng cũng bị đánh bật khỏi Jerusalem do sự bành trướng thế lực của người Hồi giáo. Sau khi Vương quốc Jerusalem mất (thành phố Jerusalem thất thủ năm 1187), các Hiệp sĩ phải dồn về Hạt Tripoli, rồi sau khi thành phố Acre bị chiếm năm 1291, dòng tu phải chạy về Vương quốc Síp để tránh nạn. Nhận thấy họ càng ngày càng bị cuốn vào cuộc tranh đấu chính trị tại Síp, Đại thống lĩnh của dòng tu là Guillaume de Villaret vạch kế hoạch bỏ đi, chọn đảo Rhodes làm quê hương mới cho họ. Người kế nhiệm ông là Fulkes de Villaret thực thi kế hoạch này, để rồi tới ngày 15 tháng 8 năm 1309, sau hơn hai năm chinh phạt, đảo Rhodes chịu khuất phục trước các hiệp sĩ của dòng tu. Họ cũng giành được quyền cai quản một số hòn đảo nhỏ lân cận, và các cảng Bodrum và Kastelorizo.

nhỏ|Đảo Rhodes và các lãnh thổ sở hữu bởi các Hiệp sĩ Hospitaller dòng Thánh John (màu xanh nước biển). Năm 1312, dòng tu Hiệp sĩ dòng Đền bị giải tán, phần lớn tài sản của dòng tu này được chuyển cho các Hiệp sĩ Cứu tế. Đất đai của họ được chia thành 8 tổng (nguyên: tounge) (một ở Aragon, tỉnh Auvergne, lãnh địa hoàng gia xứ Castile, Anh, Pháp, Đức, Ý, và xứ Provence). Mỗi tổng được cai quản bởi một tu viện trưởng, hoặc, nếu có nhiều hơn một tu viện trưởng, thì bởi một Đại tu viện trưởng. Tại Rhodes và sau này tại Malta, các Hiệp sĩ của mỗi tổng chịu dưới quyền trưởng thái ấp. Đại tu viện trưởng của Anh tại thời điểm đó là Philip Thame, người đã mang lại cho họ các lãnh địa thuộc tổng Anh quốc từ năm 1330 cho tới năm 1358.

Trên đảo Rhodes, các hiệp sĩ Cứu tế, khi đó cũng được gọi là các Hiệp sĩ đảo Rhodes, buộc phải chuyển thành một lực lượng quân sự, chiến đấu chống lại lực lượng cướp biển người Berber. Họ chống trả thành công hai cuộc xâm lăng vào thế kỷ 15, lần thứ nhất bởi vua Ai Cập năm 1444, lần thứ hai bởi vua Thổ là Mehmed II năm 1480, người sau khi hạ thành Constantinopolis, đặt việc triệt hạ Dòng tu lên mục tiêu hàng đầu của ông.

Năm 1494, họ xây dựng một thành trì mạnh trên bán đảo Halicarnassus (nay là Bodrum), sử dụng những tàn tích của Lăng mộ Maussollos, một trong bảy kỳ quan của thế giới cổ đại, để củng cố cứ điểm này.

Năm 1522, một đạo quân mới xuất hiện: 400 chiến thuyền Ottoman dưới sự chỉ huy của vua Suleiman I tung từ 100.000 đến 200.000 quân lên đảo. Để chống trả, các Hiệp sĩ, dưới quyền Đại thống lĩnh Philippe Villiers de L'Isle-Adam, có chừng 7.000 chiến binh phòng ngự trong các pháo lũy. Cuộc bao vây Rhodes (1522) kéo dài sáu tháng, kết cục là dòng tu bị đánh bại, các Hiệp sĩ sống sót được phép di tản đến Sicilia.

Hiệp sĩ xứ Malta

nhỏ|Phù hiệu của các Hiệp sĩ Cứu tế. Dòng chữ khắc trên phù điêu: "F. PETRUS DAUBUSSON M HOSPITALIS IHER". Sau bảy năm lang thang nay đây mai đó ở châu Âu, cuối cùng các Hiệp sĩ cũng tìm được chỗ trú ngụ năm 1530, khi Hoàng đế Karl V của Thánh chế La Mã, với tư cách là Vua Sicilia, ban cho họ đảo Malta, Gozo và cảng biển bắc Phi Tripoli, vĩnh viễn làm đất phong, để đổi lại vật tiến cống hàng năm là một con chim ưng Malta, mà họ sẽ phải dâng lên cho đại diện của vua, phó vương Sicilia, vào ngày Lễ Các Thánh. (Chi tiết lịch sử này được sử dụng trong cuốn sách nổi tiếng The Maltese Falcon - Chim ưng xứ Malta) của nhà văn Dashiell Hammett.

Các Hiệp sĩ Cứu tế tiếp tục các hoạt động quân sự chống lại người Hồi giáo và bọn cướp biển người Berber. Mặc dầu chỉ có trong tay vài thuyền chiến, họ đã nhanh chóng làm cho Đế quốc Ottoman phải tức giận, và không hài lòng thấy họ ổn định trở lại. Năm 1565, vua Thổ là Suleiman I đưa một đạo quân gồm 40.000 người đến để vây hãm 700 hiệp sĩ và 8.000 binh lính của Dòng tu nhằm trục xuất họ khỏi Malta.. Quân trú phòng làm việc suốt ngày đêm để sửa chữa các chỗ thành bị đánh vỡ, và khả năng chiếm Malta với quân Thổ ngày càng trở nên xa vời. Nhiều binh lính Ottoman trong các khu trại chật hẹp đổ bệnh vì thời tiết nóng nực mùa hè. Đạn dược và lương thục khan hiếm, binh sĩ Ottoman ngày càng mất tinh thần bởi các cuộc tấn công thất bại và thương vong. Một đòn nghiêm trọng nữa giáng xuống họ là việc một thủ lĩnh tài năng của họ, tướng cướp biển kiêm đô đốc Turgut Reis của hạm đội Ottoman, chết ngày 23 tháng 6 do bị thương trong khi chỉ huy pháo kích các pháo đài của Dòng tu. Các chỉ huy quân Thổ, Piyale Pasha và Mustafa Pasha hành động rất vô trách nhiệm. Dù họ nắm trong tay một hạm đội lớn, họ chỉ sử dụng hữu ích nó trong có đúng một lần. Họ sao nhãng liên lạc với Bắc Phi, và không thực hiện bất cứ biện pháp nào để đề phòng, chặn đánh viện binh từ Sicilia cho quân phòng thủ.

Ngày 1 tháng 9, quân Thổ tiến hành nỗ lực cuối cùng nhằm chiếm Malta, nhưng nhuệ khí binh sĩ của họ đã suy sụp nghiêm trọng, cuộc tấn công diễn ra hết sức hời hợt, trong khi tinh thần quân trú phòng ngày càng lên cao, vì họ có thể thấy thắng lợi đã đến gần. Khi quân Thổ nghe tin quân tiếp viện từ Sicilia đã cập cảng Mellieħa, mà không biết rằng đó chỉ là một toán quân nhỏ, họ nhổ trại và tháo lui ngày 8 tháng 9. Cuộc vây hãm Malta (1565) có lẽ là cuộc giao tranh lớn cuối cùng mà phía các Hiệp sĩ dòng tu giành được chiến thắng quyết định.

Khi quân Ottoman rút lui, phía lực lượng Hiệp sĩ Cứu tế chỉ còn 600 người còn khả năng chiến đấu. Người ta ước tính lúc đỉnh điểm, quân Thổ lên tới chừng 40 ngàn người, trong đó chừng 15 ngàn sống sót trở về Constantinopolis. Cuộc vây hãm được mô tả hết sức sinh động trong các tranh tường của Matteo Perez d'Aleccio trong đại sảnh St. Michael và St. George, cũng còn được biết đến với tên gọi Phòng Vương miện, trong lâu đài Đại thống lĩnh ở Valletta. Bốn trong các bức mẫu, được Perez d'Aleccio vẽ bằng dầu khoảng từ 1576 đến 1581, có thể tìm thấy ở Cube Room tại Queen's House, Greenwich, London. Sau đó một thành phố mới được xây lại, mang tên Valletta để ghi nhớ tới vị đại thống lĩnh đã đương đầu với cuộc vây hãm.

Năm 1607, thống lĩnh của Cứu tế được phong tước vị Reichsfürst (hoàng thân của Đế quốc La Mã Thần thánh, mặc dù lãnh thổ của Hội luôn nằm ở phái nam của Đế quốc). Năm 1630, thống lĩnh được ban quyền ngang với Hồng y Giáo chủ, cùng với tước hiệu His Most Eminent Highness.

Sau chiến thắng của Kitô giáo trước hạm đội Thổ ở trận Lepanto năm 1571, các hiệp sĩ tiếp tục tấn công cướp biển và các thuyền của người Hồi giáo, căn cứ của họ trở thành trung tâm buôn bán nô lệ vào thế kỷ 18, bán những người châu Phi và người Thổ bị bắt làm tù binh, đồng thời trả tự do cho nô lệ theo Kitô giáo.

Rối loạn ở châu Âu

Hội đã mất nhiều tài sản ở châu Âu sau sự lớn mạnh của đạo Tin Lành và chủ nghĩa quân bình của người Pháp, nhưng vẫn trụ lại được ở Malta. Tài sản của chi nhánh ở Anh bị sung công năm 1540. Năm 1577, vùng Brandenburg ở Đức theo đạo Tin Lành, nhưng vẫn đóng góp chi phí cho Hội cho đến khi vua Phổ chiếm năm 1812. Johanniter Orden được khôi phục như là tổ chức của Knights Hospitaller ở Phổ năm 1852.

Các Hiệp sĩ xứ Malta có ảnh hưởng mạnh mẽ trong Hải quân Đế quốc Nga và Hải quân Pháp thời kỳ tiền cách mạng. Khi De Poincy được bổ nhiệm làm thống đốc thuộc địa của Pháp ở St. Kitts năm 1639 thì ông ấy đã là một thành viên xuất chúng của các Hiệp sĩ, và ông ấy bố trí đoàn tùy tùng với các huy hiệu của hội. Ảnh hưởng của Hội ở vùng Caribbe bị lu mờ sau cái chết của ông năm 1660. Ông ấy cũng đã mua hòn đảo Saint Croix như là tài sản cá nhân và nhượng lại cho các Hiệp sĩ. Năm 1665, đảo St. Croix được công ty Đông Ấn ở Pháp mua lại, chấm dứt sự hiện diện của các Hiệp sĩ ở vùng Caribbe.

Năm 1789, nước Pháp nổ ra một cuộc cách mạng và phong trào chống tăng lữ, quý tộc khiến cho nhiều hiệp sĩ và quý tộc Pháp phải bỏ trốn. Rất nhiều nguồn lợi truyền thống của Hội ở Pháp đã bị mất vĩnh viễn.

Sắc lệnh bãi bỏ hệ thống phong kiến của Hội đồng lập pháp quốc gia Pháp (1789) đã thủ tiêu Hội ở Pháp. Chính quyền cách mạng Pháp đã chiếm đoạt các tài sản của Hội ở Pháp năm 1792.

Mất Malta

nhỏ|Bá tước Vassiliev, một Thủ lĩnh của các Hiệp sĩ trong thế kỷ 19

Các thành lũy của Malta bị Napoléon chiếm năm 1798, trong cuộc chinh phạt Ai Cập. Rất mưu mẹo, Napoléon đòi một cảng an toàn để tiếp tế cho các con tàu của mình, sau đó quay ra đánh úp Valletta. Thống lĩnh Ferdinand von Hompesch zu Bolheim đã không lường trước hay chuẩn bị đối phó với mối đe dọa này, không đưa ra những chỉ đạo cần thiết và dễ dàng đầu hàng Napoléon, biện minh rằng hiến chương của hội không cho phép đánh nhau với người Kitô hữu. Năm 1799, do bị chỉ trích và chịu sức ép từ triều đình Áo, ông đã từ chức và bỏ đi ở ẩn.

Các Hiệp sĩ nay phải phân tán đi các nơi, mặc dù Dòng tu vẫn tiếp tục tồn tại nhưng với quy mô nhỏ hơn, và thương thuyết với các triều đình châu Âu để khôi phục Dòng tu. Hoàng đế Nga Pavel I, thu nhận nhiều nhất các Hiệp sĩ của Dòng tu, cấp cho họ nơi cư trú tại St. Petersburg, dẫn đến việc bành trướng ảnh hưởng, uy tín và truyền thống của Dòng tu Cứu tế tại Nga trong giới Hiệp sĩ Nga. Các thành viên của Dòng tu tại St Petersburg bầu Sa hoàng Pavel làm Đại thống lĩnh của Hội, dù quyết định này không được Giáo hội Công giáo Rôma thông qua (người Nga theo đạo Chính thống giáo) – đối địch với Đại thống lĩnh von Hompesch, cho tới khi ông này từ nhiệm, khiến cho Pavel I trở thành người lãnh đạo duy nhất trên thực tế. Với vai trò là Đại thống lĩnh của Dòng tu, Pavel I thành lập thêm (ngoài Dòng Công giáo Rôma), một "Dòng tu Nga", sở hữu không dưới 118 lãnh địa, làm lu mờ tất cả các chi nhánh còn lại Dòng tu, và chấp nhận tất cả những người Kitô hữu, không phân biệt nguồn gốc giáo hội nào.

Tới đầu những năm 1800, Dòng tu bị suy yếu nghiêm trọng do để mất các tu viện trên khắp châu Âu. Cho đến năm 1810 chỉ còn 10% thu nhập của họ đến từ các nguồn truyền thống ở châu Âu, còn 90% là do chi hội ở Nga đóng góp. Điều này phản ánh một phần trong cách tổ chức của Hội, nay được đặt dưới quyền các Phó chỉ huy hơn là các Đại thống lĩnh trong thời kỳ 1805 đến 1879 khi Giáo hoàng Leo XIII phục chức một Đại thống lĩnh cho Dòng tu. Điều này báo hiệu sự thay đổi vận mệnh của hội như một tổ chức nhân đạo và tôn giáo. Bệnh viện lại trở thành công việc chính của hội. Bệnh viện và các hoạt động phúc lợi của Hội được tổ chức trên quy mô lớn trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, được mở rộng mạnh mẽ và tăng cường trong Chiến tranh thế giới thứ hai dưới thời Đại thống lĩnh Fra' Ludovico Chigi della Rovere Albani (1931-1951).

Gần đây hội thực hiện một sứ mệnh ở Malta, sau khi ký một thỏa thuận với chính phủ Malta về việc cho phép họ độc quyền sử dụng pháo đài St. Angelo trong 99 năm. Ngày nay, sau khi được sửa chữa, pháo đài là nơi tổ chức các hoạt động văn hóa và lịch sử liên quan đến Dòng.

Dòng Chiến sĩ Toàn quyền Malta

nhỏ|Lá cờ Dòng Chiến sĩ Toàn quyền Malta Năm 1834, các Hiệp sĩ thiết lập một đại bản doanh mới tại Roma. Dòng Hiệp sĩ nay được biết đến với tên gọi Dòng Chiến sĩ Toàn quyền Malta (SMOM), là một Dòng Hiệp sĩ Công giáo. Tính độc lập, có chủ quyền của Dòng Hiệp sĩ này được nhiều tổ chức quốc tế công nhận, được chấp nhận làm quan sát viên tại Liên Hợp Quốc và một số tổ chức khác. Dòng Chiến sĩ Toàn quyền Malta có quan hệ ngoại giao với chừng 100 quốc gia, với nhiều đại sứ, họ có hộ chiếu, hệ thống tiền tệ, tem thư và biển đăng ký xe cộ riêng. Thái tử và Đại thống lĩnh của Dòng phục vụ với chức trách Phó vương của Giáo hoàng, giúp đỡ các nhà ngoại giao của Vatican trong việc di chuyển, đi lại, đề xuất bổ sung luật pháp, và bỏ phiếu trong các vấn đề ngoại giao quốc tế. Tuy nhiên, một số học giả đặt vấn đề nghi vấn tính hợp pháp của tuyên bố chủ quyền của Dòng tu.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Hiệp sĩ Cứu tế** hay **Y viện Hiệp sĩ Đoàn** hay **Hiệp sĩ Y viện** (còn được gọi là _Giáo binh đoàn Tối cao của Thánh John của Jerusalem của Rhodes và của Malta, Hiệp
Dưới đây là các Đại thống lĩnh của dòng Hiệp sĩ Cứu tế và tiếp sau đó là Dòng Hiệp sĩ Toàn quyền Malta. Danh sách này bao gồm cả các phản Đại thống lĩnh
nhỏ|phải|Chữ thập của dòng Đền Các **Chiến hữu Nghèo của Chúa Kitô và Đền Solomon** (tiếng Latinh: _paupers commilitones Christi Templique Solomonici_), thường được gọi tắt là **Hiệp sĩ dòng Thánh**, **Hiệp sĩ dòng Đền**
Một kị sĩ thuộc dòng [[Black Prince đang diễu hành, tượng đồng 1850]] **Hiệp sĩ** hay **Kị sĩ** (tiếng Anh: Knight) là tầng lớp thấp nhất trong giới quý tộc ở Châu Âu thời trung
**Dòng Huynh đệ Nhà Teuton Thánh Mẫu tại Jerusalem** (tên chính thức tiếng Latinh: _Ordo domus Sanctæ Mariæ Theutonicorum Hierosolymitanorum_; tiếng Đức: _Orden der Brüder vom Deutschen Haus St. Mariens in Jerusalem_), thường gọi tắt
**Dòng Chiến sĩ Toàn quyền Malta** (tên đầy đủ là **Dòng Chiến sĩ Toàn quyền Cứu tế Thánh Gioan của Jerusalem, Rhodes và Malta**, tiếng Ý: _Sovrano Militare Ordine Ospedaliero di San Giovanni di Gerusalemme
**Krak des Chevaliers** (; ), còn được gọi là **Crac des Chevaliers**, **Ḥoṣn al-Akrād** (, nghĩa là "Lâu đài của người Kurd") và trước đây là **Crac de l'Ospital**, là một lâu đài Thập tự
**Hiệp hội Y sĩ Quốc tế Phòng ngừa Chiến tranh hạt nhân** (tiếng Anh: **International Physicians for the Prevention of Nuclear War**, viết tắt là IPPNW) là một hiệp hội gồm 63 tổ chức y
**_Hiệp sĩ nữ hoàng_** (Tiếng Hàn: 여왕의 기사, Tiếng Anh: The Queen's Knight, Tiếng Đức: Ritter der Königin), do 김강원 (Kim Kang-won), tác giả của I.N.V.U. sáng tác, là một bộ manhwa (truyện tranh Hàn
**Hiệp sĩ Thập tự** hay **Hiệp sĩ Thánh chiến** (tiếng Ba Lan: Krzyżacy) là một cuốn tiểu thuyết lịch sử năm 1900 được viết bởi nhà văn theo chủ nghĩa thực chứng Ba Lan và
**Vampire Knight** (_Hiệp sĩ ma cà rồng_) là một bộ shojo manga của Matsuri Hino. Tại Nhật Bản, Vampire Knight được xuất bản vào tháng 1 – 2005 trên tạp chí LaLa, tại Việt Nam
**Hiệp sĩ của Đức tin** là một cá nhân đã đặt trọn niềm tin vào bản thân mình và Chúa trời, và có thể hành động một cách tự do và độc lập so với
**Hiệp hội Quốc tế về Trao đổi Sinh viên Thực tập Nghề nghiệp** là một tổ chức phi lợi nhuận hoạt động vì sinh viên. Hiệp hội Quốc tế Trao đổi Sinh viên Thực tập
, tại Việt Nam được phát hành với tên **Hiệp sĩ lưu ban** là một light novel Nhật Bản sáng tác bởi Misora Riku và minh họa bởi Won. Volume đầu tiên được phát hành
thumb|Cờ hiệu của Jacques de Molay **Jacques de Molay** (; khoảng 1240-1250 là đại huynh trưởng thứ 23 và cũng là cuối cùng của Hiệp sĩ dòng Đền. Ông lãnh đạo dòng Đền từ ngày
thumb|Hình ảnh vệ tinh của Arwad, phía đông là bờ biển Tartus, [[Syria]] **Arwad**, tên trước đây là **Aradus**, là một thị trấn ở Syria trên một hòn đảo cùng tên nằm ở Địa Trung
**Christian Victor Albert Louis Ernst Anton của Schleswig-Holstein** (14 tháng 4 năm 1867 – 29 tháng 10 năm 1900) là thành viên của Hoàng gia Anh. Ông là con trai cả của Helena của Liên
**Viện Liên hợp Nghiên cứu Hạt nhân Dubna (tên viết tăt bằng tiếng Anh là JINR)** là một cơ quan nghiên cứu trong lĩnh vực hạt nhân, hạt cơ bản được thành lập năm 1956
**Qurfays** (, cũng đánh vần **Qurfeis** hoặc **Korfeis**) là một ngôi làng ở phía tây bắc Syria, một phần hành chính của quận Jableh ở thủ đô Latakia, nằm ở phía nam Latakia. Các địa
**Akko** hay **Acre** (, _ʻAkko_; , _ʻAkkā_, tiếng Hy Lạp cổ đại: Ἄκρη _Akre_) là một thành phố nhỏ ở phía Tây Galilee thuộc miền Bắc Israel, nằm ven Địa Trung Hải tại phần cực
**Arab al-Mulk** (, cũng đánh vần là **Arab al-Milk**, **Beldi al-Melek**, **Balda al-Milk** hoặc **Beldeh**) là một ngôi làng ven biển ở phía tây bắc Syria, một phần hành chính của quận Jableh ở tỉnh
**Trường Kinh tế và Khoa học Chính trị London** (tiếng Anh: _The London School of Economics and Political Science_, viết tắt **LSE**), là một cơ sở nghiên cứu và giáo dục công lập chuyên về
**Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam** (tiếng Anh: _Vietnam Women's Union_, viết tắt: **_VWU_**) là một tổ chức chính trị, xã hội của phụ nữ Việt Nam, mục đích hoạt động vì sự bình
**Napoléon Bonaparte** (tên khai sinh là **Napoleone Buonaparte**; 15 tháng 8 năm 1769 – 5 tháng 5 năm 1821), sau này được biết đến với tôn hiệu **Napoléon I**, là một chỉ huy quân sự
**Hiệp định Genève 1954** (tiếng Việt: **Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954**) là hiệp định đình chiến được ký kết tại thành phố Genève, Thụy Sĩ nhằm khôi phục hòa bình ở Đông Dương. Hiệp định
**Đế quốc Mông Cổ**, tên chính thức là **Đại Mông Cổ Quốc** ( ) là đế quốc du mục lớn nhất trong lịch sử, từng tồn tại trong các thế kỷ 13 và 14. Khởi
**Louise của Liên hiệp Anh** (tiếng Anh: _Louise of the United Kingdom_; tiếng Tây Ban Nha: _Luisa del Reino Unido_; tiếng Đức: _Louise des Vereinigtes Königreich_; tiếng Pháp: _Louise du Royaume-Uni_; tiếng Bồ Đào Nha:
Trang cuối văn bản Hiệp ước không xâm phạm Đức – Xô ngày 26 tháng 8 năm 1939 (chụp bản xuất bản công khai năm 1946) **Hiệp ước Xô – Đức**, còn được gọi là
**Suleiman I** (; ; 6 tháng 11 năm 14946 tháng 9 năm 1566) là vị Sultan thứ 10 và trị vì lâu nhất của đế quốc Ottoman, từ năm 1520 cho đến khi qua đời
nhỏ **Đại học Tài chính và Kinh tế Thượng Hải** (chữ Hán: 上海财经大学, bính âm: _ShàngHǎi Cáijìng DàXué_) được thành lập năm 1917 tại thành phố Thượng Hải. Đây là trường đào tạo chuyên ngành
**Trường Đại học Kinh tế** (tiếng Anh: _University of Economics, Hue University_) là trường đại học đào tạo khối ngành kinh tế và quản trị kinh doanh tại miền Trung Việt Nam, trực thuộc Đại
**Kinh tế học nông nghiệp** là một lĩnh vực kinh tế ứng dụng liên quan đến việc áp dụng lý thuyết kinh tế trong việc tối ưu hóa sản xuất và phân phối thực phẩm
**Helena của Liên hiệp Anh và Ireland** (tiếng Anh: _Princess Helena of the United Kingdom_; tên đầy đủ: Helena Augusta Victoria; 25 tháng 5 năm 1846 – 9 tháng 6 năm 1923), sau này là
**Vương quốc Liên hiệp Anh và Ireland** hoặc **Vương quốc Liên hiệp Đại Anh và Ireland** () là quốc gia được thành lập ngày 1 tháng 1 năm 1801 khi Vương quốc Đại Anh và
**_Võ sĩ giác đấu II_** (tựa gốc: **_Gladiator II_**) là một bộ phim điện ảnh Anh – Mỹ thuộc thể loại sử thi – hành động ra mắt vào năm 2024 do Ridley Scott làm
**Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh**, còn được gọi là **Đại học UEH** () là đại học đa thành viên chuyên khối kinh tế hệ công lập, thuộc nhóm đại học trọng
**Quốc hội Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland** là cơ quan lập pháp tối cao của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland và các lãnh thổ hải ngoại thuộc Anh. Quốc
**Dodecanese** (, _Dodekánisa_, , , nghĩa là 'mười hai đảo') là một nhóm gồm 12 đảo lớn và 150 đảo nhỏ thuộc chủ quyền của Hy Lạp tại biển Aegea, trong đó 26 đảo có
**Bác sĩ không biên giới** hay **Y sĩ không biên giới** (tiếng Pháp: _Médecins Sans Frontières_, viết tắt **MSF**; tiếng Anh: _Doctors Without Borders_) là một tổ chức phi chính phủ quốc tế do một
**Trường Đại học Kinh tế** (tiếng Anh: _Da Nang University of Economics_ – **DUE**) là trường đại học đứng đầu về đào tạo khối ngành kinh tế tại miền Trung Việt Nam, trực thuộc hệ
**Vương quốc Hai Sicilie** (tiếng Ý: _Regno delle Due Sicilie_) là một nhà nước ở miền Nam Bán đảo Ý, tồn tại từ năm 1816 đến năm 1861 dưới sự kiểm soát của một nhánh
**Cứu Thế Quân** (_Salvation Army_), hoặc **Đạo quân Cứu thế**, là một hệ phái Tin Lành (_Evangelical_) thuộc cộng đồng Kháng Cách (_Protestant_), cũng là một tổ chức xã hội với các hoạt động từ
**Chế độ quân chủ Vương quốc Liên hiệp**, thường được gọi chế độ **quân chủ Anh**, là chế độ quân chủ lập hiến của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland và Lãnh thổ
**Tế bào gốc** là các tế bào sinh học có khả năng biệt hoá thành các tế bào khác, từ đó phân bào để tạo ra nhiều tế bào gốc hơn. Chúng được tìm thấy
**Nội dung khiêu dâm hiếp dâm** là một thể loại con của nội dung khiêu dâm liên quan đến việc mô tả hoặc diễn đạt về hiếp dâm. Phim khiêu dâm kiểu này có thể
**Trận sông Nin** (còn được gọi là **Trận vịnh Aboukir**, trong tiếng Pháp là _Bataille d'Aboukir_ hoặc trong tiếng Ả Rập Ai Cập là معركة أبي قير البحرية) là một trận hải chiến lớn đã
**Bộ Y tế Việt Nam** là cơ quan của Chính phủ Việt Nam, thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân, bao gồm các lĩnh
**Vương quốc Jerusalem** (tiếng Latinh: Regnum Hierosolymitanum; tiếng Pháp cổ: Roiaume de Jerusalem; tiếng Ả Rập: مملكة القدس; tiếng Anh: Kingdom of Jerusalem) còn được gọi là **Vương quốc Hierosolymitanum** là một nhà nước Thập
**Trường phái kinh tế học Chicago** (tiếng Anh: **Chicago School of economics**) là một trường phái tư tưởng kinh tế học tân cổ điển gắn liền với công việc của giảng viên tại Đại học
**Bùi Anh Tuấn** (sinh năm 1964) là phó giáo sư, tiến sĩ kinh tế, một nhà nghiên cứu kinh tế của Việt Nam. Ông nguyên là Hiệu trưởng Trường Đại học Ngoại thương, một trường