✨Hằng số Planck

Hằng số Planck

Hằng số Planck là một hằng số vật lý cơ bản, ký hiệu bằng h, có tầm quan trọng to lớn trong cơ học lượng tử. Năng lượng của một photon bằng tần số của nó nhân với hằng số Planck. Do tương đương khối lượng–năng lượng, hằng số Planck cũng liên hệ giữa khối lượng và tần số.

Trong đo lường học, hằng số Planck, cùng những hằng số khác, được dùng để định nghĩa kilogram, một đơn vị SI. Các đơn vị SI được định nghĩa sao cho khi biểu diễn hằng số Planck trong các đơn vị SI, nó có giá trị đúng bằng

Cuối thế kỷ 19, phổ bức xạ vật đen đã được đo với độ chính xác cao, nhưng phân bố của những phép đo ở tần số cao chênh lệch đáng kể so với những tiên đoán bằng lý thuyết thời bấy giờ. Năm 1900, Max Planck bằng thực nghiệm đưa ra một công thức cho phổ quan sát được. Ông giả sử một hạt tích điện dao động trong một khoảng trống với bức xạ vật đen chỉ có thể thay đổi mức năng lượng của nó theo bước nhỏ tỷ lệ thuận với tần số của sóng điện từ tương ứng. Sau phát hiện của Planck, một giả thuyết mới xuất hiện cho rằng tác động vật lý không thể có giá trị bất kỳ, mà phải là bội số nguyên của một đại lượng rất nhỏ, "lượng tử của tác động", nay được gọi là hằng số Planck. Đây là một ý tưởng cốt yếu trong "thuyết lượng tử cũ" phát triển bởi các nhà vật lý như Bohr, Sommerfeld, và Ishiwara, trong đó tồn tại quỹ đạo hạt nhưng chúng bị ẩn đi, và chúng tuân theo các định luật lượng tử. Quan điểm này đã bị thay thế bởi thuyết lượng tử hiện đại, trong đó quỹ đạo chuyển động thậm chí không tồn tại; một hạt được biểu diễn bằng một hàm sóng trong không gian và thời gian. Cùng với đó là khái niệm lượng tử năng lượng, và cả chuyển động hạt lẫn lượng tử năng lượng đều không thể được giải thích bởi vật lý cổ điển.

Giá trị

Hằng số Planck có thứ nguyên của mômen động lượng. Trong đơn vị SI, hằng số Planck được biểu diễn bằng joule trên hertz (J⋅Hz hoặc kg⋅m2⋅s−1). Một điểm cần lưu ý trong thứ nguyên của hằng số Planck là việc đơn vị SI của tần số, hertz, biểu diễn một chu kỳ trọn vẹn, 360 độ hay radian, một giây. Tần số góc bằng radian trên giây thường tự nhiên hơn trong toán và vật lý, và nhiều công thức sử dụng hằng số Planck rút gọn. :h = 6.626\ 070\ 15\times 10^{-34}\ \text{J}{\cdot}\text{Hz}^{-1} :\hbar= = 1.054\ 571\ 817...\times 10^{-34}\ \text{J}{\cdot}\text{s} = 6.582\ 119\ 569...\times 10^{-16}\ \text{eV}{\cdot}\text{s} Các giá trị trên là chính xác và cố định sau lần định nghĩa lại đơn vị cơ bản SI năm 2019.

Cố định giá trị của h

Từ năm 2019, giá trị của hằng số Planck đã được cố định, với biểu diễn thập phân hữu hạn. Dưới định nghĩa hiện tại của kilogram, phát biểu rằng, "Kilogram [...] được định nghĩa bằng cách cố định giá trị của bằng với đơn vị J⋅s, tương đương với kg⋅m2⋅s−1, trong đó mét và giây được định nghĩa bằng tốc độ ánh sáng và tần số chuyển siêu tinh tế của trạng thái cơ bản của một nguyên tử caesi-133 ." Điều này nghĩa là giá trị của một kilogram, chứ không phải giá trị của hằng số Planck, cần phải được tìm bằng thực nghiệm, bằng những phương pháp như cân Kibble và phương pháp mật độ tinh thể tia X. Để minh họa cụ thể hơn, giả sử quyết định cố định giá trị của được đưa ra năm 2010. Khi đó, giá trị của là , và từ đó giá trị của kilogram cũng được tính từ con số này. Những thực nghiệm trong tương lai sẽ cho thấy giá trị của kilogram lúc ấy bằng lần giá trị của Nguyên mẫu Kilogram Quốc tế (IPK).

Nguồn gốc

thumb|Bảng đồng tại [[Đại học Humboldt Berlin: "Max Planck, người phát hiện lượng tử cơ bản h, dạy ở đây từ 1889 đến 1928."]] thumb|Cường độ ánh sáng phát ra từ một [[vật đen. Mỗi đường cong biểu diễn hành vi tại một nhiệt độ khác nhau. Hằng số Planck được dùng để giải thích hình dáng của những đường này.]] thumb|Sự chênh lệch giữa đường cong Rayleigh–Jeans (đen) và đường cong Planck quan sát được ở những nhiệt độ khác nhau. Hằng số Planck xuất phát từ nỗ lực của Max Planck để đưa ra một biểu thức toán học nhằm tiên đoán phổ bức xạ từ một nguồn nhiệt kín, hay bức xạ vật đen. Kết quả là một biểu thức toán học với tên gọi định luật Planck.

Cuối thế kỷ 19, Max Planck xem xét vấn đề bức xạ vật đen do Kirchhoff đưa ra khoảng 40 năm trước đó. Tất cả vật thể vật lý phát ra bức xạ điện từ tự động và liên tục. Không có biểu thức hay lời giải thích nào cho hình dạng của phổ bức xạ quan sát được. Vào lúc đó, định luật Wien khớp với dữ liệu ở bước sóng ngắn và nhiệt độ cao, nhưng sai khác hoàn toàn ở bước sóng dài. dẫn đến một công thức thực nghiệm cho bước sóng dài.

Planck tìm ra một biểu thức khớp với định luật Wien ở bước sóng ngắn và công thức thực nghiệm ở bước sóng dài. Biểu thức này có một hằng số , được cho là lấy từ Hilfsgrösse (biến phụ), và sau được biết đến là hằng số Planck. Biểu thức cho độ rọi phổ chiếu xạ của một vật đen với tần số tại nhiệt độ tuyệt đối là :B\nu(\nu, T) = \frac{ 2 h \nu^3}{c^2} \frac{1}{e^\frac{h\nu}{k\mathrm B T} - 1}

trong đó là hằng số Boltzmann, là hằng số Planck, và là tốc độ ánh sáng trong môi trường, có thể là vật liệu hoặc chân không.

Độ rọi phổ chiếu xạ (tiếng Anh: "spectral radiance") của một vật miêu tả mức năng lượng nó phát ra ở những tần số bức xạ khác nhau. Đại lượng này bằng công suất phát xạ trên một đơn vị diện tích bề mặt, trên một đơn vị góc khối, trên một đơn vị tần số. Độ rọi phổ chiếu xạ cũng có thể được biểu diễn trên một đơn vị bước sóng thay vì một đơn vị tần số. Trong trường hợp đó, công thức trên trở thành :B\lambda(\lambda, T) =\frac{2hc^2}{\lambda^5}\frac{1}{ e^{\frac{hc}{\lambda k\mathrm B T - 1},

cho thấy năng lượng bức xạ ở bước sóng ngắn tăng theo nhiệt độ nhanh hơn so với ở bước sóng dài.

Định luật Planck cũng có thể được biểu diễn theo những đại lượng khác, ví dụ như số photon bức xạ ở bước sóng nhất định, hay là mật độ năng lượng trên một thể tích bức xạ. Đơn vị SI của là , còn của là .

Planck sớm nhận ra rằng lời giải của ông không phải là duy nhất. Một số lời giải khác tồn tại, mỗi cái cho giá trị entropy của các hạt dao động khác nhau. Một trong những điều kiện của lời giải này là

Với điều kiện mới này, Planck đã lượng tử hóa năng lượng của các hạt dao động, "một giả thuyết hoàn toàn hình thức ... thực tế tôi không nghĩ nhiều về nó ..." theo lời của chính ông. Áp dụng điều kiện này cho định luật Wien cho thấy "phần tử năng lượng" phải tỉ lệ với tần số của dao động, ngày nay gọi là "liên hệ Planck–Einstein": :E = hf.

Sử dụng dữ liệu bức xạ vật đen từ thí nghiệm, Planck tính được giá trị của bằng khoảng , sai khác 1,2% so với giá trị chính thức ngày nay.

Phát triển và ứng dụng

Vấn đề vật đen được xét lại vào năm 1905, khi Rayleigh cùng với Jeans và độc lập với Einstein chứng minh rằng điện từ học cổ điện không thể giải thích phổ bức xạ đo được. Những chứng minh này thường được biết đến với tên gọi "thảm họa cực tím", do Paul Ehrenfest đặt năm 1911. Chúng, cùng với nghiên cứu của Einstein về hiệu ứng quang điện, khiến các nhà vật lý học ngày càng tin rằng việc lượng tử hóa mức năng lượng của Planck có ý nghĩa sâu hơn là một công cụ toán học đơn thuần. hội nghị Solvay đầu tiên năm 1911 có chủ đề "lý thuyết bức xạ và lượng tử".

Hiệu ứng quang điện

Hiệu ứng quang điện là sự phát xạ electron (gọi là "quang điện tử") từ một bề mặt có ánh sáng chiếu vào. Hiện tượng này lần đầu được quan sát bởi Alexandre Edmond Becquerel năm 1839, mặc dù các nguồn thường ghi nhận Heinrich Hertz, người xuất bản nghiên cứu chi tiết đầu tiên năm 1887. Một nghiên cứu khác của Philipp Lenard (Lénárd Fülöp) được xuất bản năm 1902. Năm 1905, Einstein viết bài báo thảo luận về hiện tượng này bằng lượng tử ánh sáng, một thành tựu đã cho ông giải Nobel Vật lý năm 1921,

Trước bài báo của Einstein, bức xạ điện từ như ánh sáng được coi là có hành vi của sóng: đó cũng là nguồn gốc cho các thuật ngữ "tần số" và "bước sóng" dùng để miêu tả các loại bức xạ khác nhau. Năng lượng của một sóng trên một đơn vị thời gian là cường độ. Ánh sáng từ một đèn pha sân khấu có cường độ lớn hơn ánh sáng của một bóng đèn dân dụng, tức đèn pha tỏa ra nhiều năng lượng hơn trên một đơn vị thời gian và một đơn vị không gian, ngay cả khi màu sắc của hai bóng đèn rất giống nhau. Những loại sóng khác như âm thanh hay sóng biển cũng có cường độ của chúng. Tuy nhiên, năng lượng của hiệu ứng quang điện không có tính chất giống như sóng ánh sáng.

Các quang điện tử được phát ra có động năng nhất định, và động năng của mỗi quang điện tử là độc lập với cường độ của ánh sáng, Giả sử tần số đủ cao để gây ra hiệu ứng quang điện, cường độ nguồn sáng tăng dẫn đến nhiều quang điện tử với cùng động năng được phát ra, thay vì cùng số lượng quang điện tử với động năng lớn hơn. Niels Bohr trích dẫn ông trong bài báo mô hình nguyên tử Bohr năm 1913. Ảnh hưởng của mô hình hạt nhân nguyên tử Nicholson lên mô hình của Bohr đã được nhiều nhà sử học nghiên cứu.

Năm 1913, Niels Bohr đưa ra mô hình lượng tử của nguyên tử thứ ba, nhằm giải quyết những thiếu sót của mô hình Rutherford cổ điển. Mô hình nguyên tử lượng tử đầu tiên được đề xuất bởi Arthur Erich Haas năm 1910 và được thảo luận chi tiết ở Hội nghị Solvay 1911. Trong điện từ học cổ điển, một điện tích chuyển động tròn sẽ phát ra bức xạ điện từ. Nếu điện tích đó là một electron quay quanh hạt nhân, bức xạ sẽ khiến nó mất năng lượng và rơi dần vào hạt nhân. Bohr giải quyết nghịch lý này với cảm hứng từ công trình của Planck: một electron trong nguyên tử Bohr chỉ có thể có mức năng lượng định trước , trong đó

:En = -\frac{h c R{\infty{n^2} ,

với là tốc độ ánh sáng trong chân không, là hằng số xác định từ thực nghiệm (hằng số Rydberg), và Khi electron đạt mức năng lượng thấp nhất (), nó không thể tiến gần hơn đến hạt nhân nữa. Phương pháp này cho phép Bohr tính đến công thức Rydberg, một miêu tả thực nghiệm cho phổ nguyên tử của hydro, và giải thích cho giá trị của hằng số Rydberg bằng những hằng số cơ bản khác.

Bohr cũng đề xuất đại lượng , ngày nay gọi là hằng số Planck rút gọn, làm lượng tử cho mô men động lượng. Ban đầu, Bohr cho rằng đại lượng này là mômen động lượng của mỗi electron trong nguyên tử, nhưng giả thiết này sai, và mặc cho nỗ lực của Arnold Sommerfeld và những người khác, mô hình Bohr không thể miêu tả chính xác mômen động lượng của electron. Quy luật lượng tử hóa tổng quát cho electron – trong đó mô hình Bohr là trường hợp đặc biệt cho nguyên tử hydro – được miêu tả bởi cơ học ma trận của Heisenberg năm 1925 và phương trình sóng Schrödinger năm 1926, và hằng số Planck rút gọn vẫn là lượng tử cơ bản cho mômen động lượng. Cụ thể hơn, nếu là tổng mômen động lượng của một hệ với bất biến quay và là mômen động lượng đối với một trục bất kỳ, chúng chỉ có thể mang các giá trị : \begin{align} J^2 = j(j+1) \hbar^2,\qquad & j = \frac{0}{2}, \frac{1}{2}, \frac{2}{2}, \frac{3}{2}, \ldots, \ J_z = m \hbar, \qquad\qquad\quad & m = -j, -j+1, \ldots, j. \end{align}

Nguyên lý bất định

Hằng số Planck cũng xuất hiện trong biểu thức của nguyên lý bất định của Werner Heisenberg. Với nhiều hạt ở cùng trạng thái, sự bất định về vị trí và sự bất định về động lượng thỏa mãn : \Delta x\, \Delta p_{x} \ge \frac{\hbar}{2} ,

trong đó sự bất định được định nghĩa là độ lệch chuẩn của giá trị đo được từ giá trị kỳ vọng. Có một số cặp biến liên hợp đo được khác tuân theo một nguyên lý tương tự, ví dụ như thời gian và năng lượng. Mối quan hệ tỉ lệ nghịch giữa hai độ bất định này dẫn đến một đánh đổi trong các thí nghiệm lượng tử, khi mà càng đo chính xác một đại lượng khiến đại lượng kia càng sai lệch.

Ngoài ra, một trong những nền móng của cơ học lượng tử nằm trong quan hệ giao hoán tử giữa toán tử vị trí \hat{x} và toán tử động lượng \hat{p}: :[\hat{p}_i, \hat{x}j] = -i \hbar \delta{ij} , trong đó là Kronecker delta.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Hằng số Planck** là một hằng số vật lý cơ bản, ký hiệu bằng h, có tầm quan trọng to lớn trong cơ học lượng tử. Năng lượng của một photon bằng tần số của
Trong khoa học tự nhiên, một **hằng số vật lý** là một đại lượng vật lý có giá trị không thay đổi theo thời gian. Nó đối lập với hằng số toán học, là các
Trong vật lý và toán học, một **Hằng số** (hay gọi ngắn là **Hằng**) là đại lượng có giá trị không đổi. Hằng số thường được ký hiệu là _const_, viết tắt của chữ tiếng
thumb|Tượng Sommerfeld đặt ở Đại học Ludwig-Maximilians (LMU), Theresienstr. 37, [[München, CHLB Đức. Bên dưới là công thức hằng số Sommerfeld trong hệ thống đo lường Gauß, là hệ thường dùng trong vật lý lý
**Hằng số Boltzmann**, ký hiệu kB hay k, phát hiện bởi Max Planck, lấy tên theo Ludwig Boltzmann, là 1 đại lượng chuyển đổi cơ bản giữa nhiệt độ và năng lượng.
:kB =
**Nhiệt độ Planck**, T_P, là một đơn vị đo lường trong hệ thống đo lường Planck, là nhiệt độ cao nhất có thể diễn tả được bằng các phép đo vật lý. Trong đơn vị
**Thời gian Planck**, t_P, là một đơn vị đo lường trong hệ thống đo lường Planck. Về mặt lý thuyết, nó tượng trưng cho một đơn vị thời gian nhỏ nhất mà người ta có
**Khối lượng Planck**, m_P, là một đơn vị đo lường trong hệ thống đo lường Planck. ## Định nghĩa Khối lượng Planck m_P được định nghĩa như sau: :m_P = \sqrt {\frac {\hbar c} {G}
**Max Karl Ernst Ludwig Planck** (23 tháng 4 năm 1858 – 4 tháng 10 năm 1947) là một nhà vật lý người Đức, được xem là người sáng lập cơ học lượng tử và do
**Liên hệ Planck–Einstein** hay còn gọi là **liên hệ Einstein**, **liên hệ năng lượng–tần số của Planck**, **liên hệ Planck**, và **phương trình Planck**. Đôi khi cũng gọi là 'công thức Planck' nhưng nó thường
thumb|Định luật Planck (minh họa bằng các đường cong màu) miêu tả chính xác bức xạ vật đen và giải quyết vấn đề "thảm họa cực tím" (đường màu đen). **Định luật Planck** miêu tả
**Độ dài Planck**, \ell_P, là một đơn vị trong hệ thống đo lường Planck. Nó tượng trưng cho một độ dài nhỏ nhất có nghĩa trong vật lý lý thuyết hiện đại. ## Định nghĩa
Trong phạm vi của ngành vũ trụ học, **hằng số vũ trụ** (hay **hằng số vũ trụ học**) là dạng mật độ năng lượng đồng nhất gây ra sự _giãn nở gia tốc_ của vũ
**Số lượng tử chính** là một số lượng tử, chủ yếu thể hiện mức năng lượng của electron trong nguyên tử. Mô hình nguyên tử Bohr chỉ miêu tả được trạng thái năng lượng thấp
**Số lượng tử spin** tham số hóa bản chất nội tại của mô men xung lượng của mọi hạt cơ bản. Trong cơ học lượng tử mômen xung lượng của hạt cơ bản được mô
**Max Planck** là một trong những nhà vật lý người Đức quan trọng cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 và được xem là người sáng lập thuyết cơ học lượng tử. **Planck** có
Số **pi** (ký hiệu: ****), còn gọi là **hằng số Archimedes**, là một hằng số toán học có giá trị bằng tỷ số giữa chu vi của một đường tròn với đường kính của đường
**Bán kính Bohr** (_a_0 hoặc _r_Bohr) là một hằng số vật lý, gần bằng với khoảng cách có thể giữa tâm của một nuclide và một electron của nguyên tử Hydro trong trạng thái cơ
**Hartree** (ký hiệu Eh) là năng lượng nguyên tử của năng lượng và được đặt theo tên của nhà vật lý Douglas Hartree. Năng lượng hartree bằng với giá trị tuyệt đối của điện thế
**_Bohr magneton_** (thường được ký hiệu là μB) là một đại lượng vật lý được đặt theo tên nhà vật lý Niels Bohr. Bohr magneton được dùng như một hằng số vật lý dùng làm
**Photon** hay **quang tử** (, phōs, ánh sáng; tiếng Việt đọc là _phô tông_ hay _phô tôn_) là một loại hạt cơ bản, đồng thời là hạt lượng tử của trường điện từ và ánh
right|thumb|Tòa nhà chính của MPI EVA ở [[Leipzig, Đức]] right|thumb|Nhìn từ bên ngoài **Viện nghiên cứu nhân chủng tiến hóa Max Planck** (, viết tắt là **MPI EVA**) là một viện nghiên cứu có trụ
**Hiệp hội Max Planck vì sự Phát triển Khoa học** (; viết tắt **MPG**) là một hiệp hội phi lợi nhuận và độc lập với chính phủ trong các viện nghiên cứu của Đức có
**Kilôgam** (hay **Kilogram**, ký hiệu là **kg**) là đơn vị đo khối lượng, một trong bảy đơn vị đo cơ bản của hệ đo lường quốc tế (SI). Nó được định nghĩa là "khối lượng
Trong toán học, một phép toán hai ngôi có tính **giao hoán** khi thay đổi thứ tự của hai toán hạng không làm thay đổi giá trị kết quả. Nó là tính chất cơ bản
**Vật chất** cùng với không gian và thời gian là những vấn đề cơ bản mà tôn giáo, triết học và vật lý học nghiên cứu. Vật lý học và các ngành khoa học tự
Theo thuyết Vụ Nổ Lớn, [[vũ trụ bắt nguồn từ một trạng thái vô cùng đặc và vô cùng nóng (điểm dưới cùng). Một lý giải thường gặp đó là không gian tự nó đang
thumb|upright=1.3|Các [[hàm sóng của electron trong một nguyên tử hydro tại các mức năng lượng khác nhau. Cơ học lượng tử không dự đoán chính xác vị trí của một hạt trong không gian, nó
nhỏ|Sự phân rã proton thông qua một lỗ đen ảo. Trong hấp dẫn lượng tử, một lỗ đen ảo là một lỗ đen vi mô giả định tồn tại tạm thời do sự biến động
thumb|upright|[[Wilhelm Röntgen (1845–1923), người đầu tiên nhận giải Nobel Vật lý.]] Mặt sau huy chương giải Nobel vật lý **Giải Nobel Vật lý** là giải thưởng hàng năm do Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng
Tất cả các vật chất có thể biểu hiện tính chất sóng. Ví dụ: Một chùm electron có thể được nhiễu xạ giống như một chùm sáng hoặc là một sóng nước. Các **sóng vật
Trong vật lý, **lượng tử** là số lượng tối thiểu của bất kỳ thực thể vật lý (thuộc tính vật lý) tham gia vào một sự tương tác. Khái niệm cơ bản rằng một thuộc
Sự xuất hiện của Vật lý lượng tử và thuyết tương đối là một cuộc cách mạng của Vật lý học vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX và là cơ sở khoa
**Louis-Victor-Pierre-Raymond**, đời thứ 7 trong dòng họ [https://en.wikipedia.org/wiki/House_of_Broglie Duc De Broglie], (; ; 15, Tháng 8, 1892 – 19, Tháng 3, 1987)là một nhà Vật lý người Pháp có những đóng góp đột phá trong
**Lưỡng tính sóng–hạt** là một thuộc tính cơ bản của vật chất, thể hiện ở điểm mọi đối tượng vật chất di chuyển trong không gian đều có tính chất như là sự lan truyền
**Phát xạ tự phát** là quá trình phát xạ xảy ra ở một hệ thống lượng tử đang ở trạng thái kích thích chuyển dời sang một trạng thái có năng lượng thấp hơn (hoặc
**Năng lượng photon** là năng lượng được mang bởi một photon duy nhất. Lượng năng lượng tỷ lệ thuận với tần số điện từ của photon và do đó, tương ứng, tỷ lệ nghịch với
thumb|Khi nhiệt độ vật đen giảm thì cường độ bức xạ giảm, đỉnh của nó dịch về bước sóng dài hơn. **Bức xạ vật đen** là bức xạ điện từ nhiệt, một vật ở trạng
**Phương trình Schrödinger** là một phương trình cơ bản của vật lý lượng tử mô tả sự biến đổi trạng thái lượng tử của một hệ vật lý theo thời gian, thay thế cho các
phải|Hiệu ứng quang điện nhỏ|Heinrich Rudolf Hertz nhỏ|Alexander Stoletov **Hiệu ứng quang điện** là một hiện tượng điện - lượng tử, trong đó các điện tử được thoát ra khỏi nguyên tử (quang điện trong)
**Electron** hay **điện tử**, là một hạt hạ nguyên tử, có ký hiệu là hay , mà điện tích của nó bằng trừ một điện tích cơ bản. Các electron thuộc về thế hệ thứ
**Niels Henrik David Bohr** (; 7 tháng 10 năm 1885 – 18 tháng 11 năm 1962) là nhà vật lý học người Đan Mạch với những đóng góp nền tảng về lý thuyết cấu trúc
thumb|Hệ đo lường Quốc tế SI sau định nghĩa lại: Các đơn vị cơ bản được định nghĩa dựa trên các [[hằng số vật lý với giá trị số đặt cố định và dựa trên
thumb|220x124px | right | Các quả cân với khối lượng khác nhau **Khối lượng** (Tiếng Anh: _mass_) là một đặc tính của vật thể vật lý và là thước đo khả năng chống lại gia
**Nguyên lý bất định**, gọi chính xác là **Nguyên lý về tính bất xác định** hay **Nguyên lý về tính không chắc chắn** (tiếng Anh: **Uncertainty principle**, tiếng Đức: **Unschärferelation**), là một nguyên lý quan
**Hertz** hay **héc**, ký hiệu là **Hz**, là đơn vị đo tần số (ký hiệu là _f_) trong hệ đo lường quốc tế (SI), tương đương với một chu kỳ trên giây. Hertz được lấy
**Kính hiển vi Lorentz**, hay đầy đủ là **Kính hiển vi điện tử truyền qua Lorentz**, là một loại kính hiển vi điện tử truyền qua được sử dụng để phân tích cấu trúc từ
thumb|Davisson và Germer năm 1927 **Thí nghiệm Davisson–Germer** là một thí nghiệm được thực hiện từ năm 1923 đến 1927 bởi Clinton Davisson và Lester Germer tại Western Electric (sau này là Bell Labs), trong
**Gustav Ludwig Hertz** (22 tháng 7 năm 1887 - 30 tháng 10 năm 1975) là một nhà vật lý người Đức. James Franck và Gustav Ludwig Hertz đã chứng minh hiệu ứng quang điện ngược
**James Franck** (26 tháng 8 năm 1882 – 21 tháng 5 năm 1964) là một nhà vật lý người Đức. James Franck và Gustav Ludwig Hertz đã chứng minh hiệu ứng quang điện ngược (tức