✨Đường lang quyền

Đường lang quyền

nhỏ|phải|Một động tác võ bọ ngựa Đường lang quyền (chữ Hán: ; bính âm: Táng láng quán hay còn gọi là võ bọ ngựa; dịch nghĩa tiếng Anh là Praying Mantis Form hay Praying Mantis Fist; có nghĩa là thế võ con bọ ngựa cầu nguyện) là một bộ môn quyền thuật của Thiếu Lâm, của hai phái Đường Lang cả hai miền Nam Bắc Trung Quốc.

Nguồn gốc và danh xưng

Đây là môn quyền thuật bắt chước hình thái động tác của bọ ngựa (chữ Hán: 螳螂; đọc âm là "đường lang") đang giơ hai càng và chân trước ra phía nên phái võ này có tên là phái võ con bọ ngựa cầu nguyện thông thường gọi là Đường lang quyền. Tương truyền cuối Tống đầu Nguyên ở huyện Tức Mặc tỉnh Sơn Đông có người tên là Vương Long (Wang Lang), sau khi thi võ thất bại, ngẫu nhiên thấy cảnh con bọ ngựa vồ bắt ve sầu bèn sáng tạo ra các kỹ pháp võ thuật như móc, nhấc, ngắt, gác, lừa, quấn, bổ, trượt... rồi thành môn quyền này, đó là phái Đường Lang của Bắc Thiếu Lâm lưu hành suốt một dải Sơn Đông, Sơn Tây Giao Châu, Giao Chỉ. Qua trường kỳ tập luyện mà hình thành nên các lưu phái. Sự khác biệt cơ bản giữa Sơn Tây Đường Lang Quyền và Sơn Đông Đường Lang Quyền là Sơn Tây Đường Lang Quyền có tính nhu dùng nhu chế cương, các tư thế luôn luân phiên dựa trên nội công và ngoại công để tấn công nên còn gọi là Nhuyễn Đường Lang Công; Sơn Đông Đường Lang Quyền rất nhanh, khỏe và dữ dội, cách tấn công rất mạnh mẽ nên còn gọi là Mãnh Đường Lang Quyền.

Còn hai môn Đường Lang quyền nữa sau này của Chu Á Nam (Chow Áh Naam) sáng tác gọi là Chu Gia Đường Lang quyền (Chow Gar Tanglangquan 周家螳螂拳) và Châu Phúc Đồ (Chu Fook To, Chu Fook Too, Chu Fook Tou, Chu Fook Tu),là hậu duệ của Minh Thái Tổ Châu Nguyên Chương (tiếng Việt trước đây dịch sai âm là Chu Nguyên Chương), sáng tác gọi là Châu gia Đường Lang quyền(Chu Gar Tanglangquan 朱家螳螂拳) , hai môn này còn gọi là Nam Đường Lang quyền (Southern Praying Mantis Fist) có nguồn gốc từ Nam Thiếu Lâm sau này ở Phúc Kiến.

Đặc trưng kỹ pháp

Đường Lang Quyền Có Thất Tinh Đường lang (còn gọi là La Hán Đường Lang), Lục Hợp Đường Lang (còn gọi là Mã Hầu (khỉ ngựa) Đường Lang tức Thái Cực đường lang). Các bài quyền thường có kết cấu nghiêm ngặt, quyền cước phong phú và biến ảo, nối liếp khéo léo, sẵn có cương nhu cùng nặng, cương mà không cứng đờ, nhu mà không mềm xéo, kết hợp ngắn dài... Về kỹ pháp thì nổi bật "năm nhanh" là nhanh tay, nhanh chân, nhanh bước, nhanh thân, chiêu thức nhanh, biến hóa khó lường.

Ngoài ra còn có thuyết "bảy dài", "tám ngắn", "tám đánh và tám không đánh". Dài là ý đánh dài, khí dài, kình dài, tay dài, hông dài, bước dài, gân dài (tức vươn dẻo được). Ngắn thì có đốt ngắn (tiết ngắn), thế ngắn, tâm ngắn... Cao đánh thấp không đánh, nội đánh ngoại không đánh, gần đánh xa không đánh, vươn đánh thu (về) không đánh, mở đánh đòng không đánh, hư đánh thực không đánh. Đồng thời còn cường điệu tượng hình giữ ý, để có hình tượng và đấu kình (kình lực chiến đấu) của bọ ngựa.

Còn có Nam phái Đường Lang tương truyền đời nhà Thanh ở Quảng Đông có người là châu Á Nam sáng tác ra. Về lý, pháp, thế so với Bác phái tuyệt nhiên không giống. Nhiều đòn ngắn, ít đánh dài, một bước một đòn, vẫn giữ hình tay bọ ngựa, thực phát ra kình lực của Nam quyền. Do đó cần phải quy vào hệ của Nam phái.

Các lưu phái Bắc Đường Lang quyền chủ yếu

*1.Thất tinh đường lang quyền* (còn gọi là La Hán Đường Lang) thuộc loại ngạnh (cứng) đường lang. Giá thức cơ bản thì lấy thất tinh bộ làm cơ sở. Kình lực cứng gọn, quấn ngang đâm thẳng. Luyện công chia ra làm ba phần: thứ nhất là cơ bản công, bao gồm hông, chân, vai, công, trạm trang, bá đả công v.v.. Thứ hai là kỹ thuật bài múa bao gồm các tổ hợp nhỏ các động tác múa. Về bài bản này có sáp chùy (cắm gõ), phiên xa(lật xe), bảng bộ (bước nhảy), lan tiệt (nhăn cắt), trích khôi (lấy mũ), song sáp hoa (mai hoa cắm), thập bát hoa (18 thoi), tỏa cương (đục thép), nhu linh, trích yếu, đường lang cửu chuyển thập bát diệt (9 lần chuyển, 18 lần ngã), bạch viên xuất động (vượn trắng rời hang), thâu đào (lấy trộm đào), hiến quả (dâng quả), nhập động (vào hang), sách thủ phách án (dang tay vỗ án) v.v... Thứ ba là sách luyện (luyện rộng) bao gồm tạp trang (dậm tấn), thích đả đại (đánh bao cát), báy luyện toàn thân 12 lượt gõ, tán đả. 2. Mai Hoa Đường Lang Quyền** thuộc loại ngạnh đường lang, công phu cứng rắn dương cương. Loại quyền này lấy tam hoa thủ làm chiêu số riêng, tức là khi ra tay thì ba, năm đòn ra liền một thể giống như một đóa hoa mai năm cánh nên thành tên. Về kình pháp thì coi trọng thuận kình, xảo kình, nhu công. Các bài múa có phiên xa (lật xe), băng bộ (bước nhảy), lan tiết (ngăn cắt), mai hoa lộ, bạch viên thâu đào (vượn tráng trộm đào), bát trửu (khuỷu), truyền kỹ, trích yếu v.v... *3. Lục Hợp Đường Lang còn gọi Mã Hầu Đường Lang thuộc nhuyễn đường lang, công phu mềm theo đường âm nhu. Loại quyền này hấp thu lý luận về quyền: nội tam hợp (tức tâm hợp ý, ý hợp khí, khí hợp lực) và ngoại tam hợp (tay và chân hợp, khuỷu và gối hợp, vai và háng hợp) làm yêu lĩnh cơ bản, nhấn mạnh nội ngoại tương hợp, động tác thì thường là nhu, kình lực thì dài có chia cương nhu, minh, ám, hoạt (tức cứng mềm, rõ ràng, ngầm, trơn) năm loại kình lực. Về bộ pháp có trước nâng sau kéo. Về bài bản có đoản chùy, song phong, thiết thích, tiên thủ bôn, chiếu diện đăng, tiệt thủ quyển đên lục hợp trích yếu 93 thủ v.v...

Các lưu phái Đường Lang quyền hiện hành

:Các lưu phái Bắc Đường Lang quyền - Bắc Thiếu Lâm Sơn Đông-Hà Bắc :(Branches of Bei Tanglangquan) :Các lưu phái phổ biến: *Qī Xīng Táng Láng quán 七星螳螂拳 (Chāt Sīng Tòhng Lòhng Kyùhn, Seven Star Praying Mantis Boxing): Thất Tinh Đường Lang quyền *Tài Jí Táng Láng quán 太极螳螂拳 (Taai Gihk Tòhng Lòhng Kyùhn, Taiji Praying Mantis Boxing): Thái Cực Đường Lang quyền Lìu Hé Táng Láng quán 六合螳螂拳(Luhk Hahp Tòhng Lòhng Kyùhn, Six Harmony Praying Mantis Boxing): Lục Hợp Đường Lang quyền Méi Huā Táng Láng quán 梅花螳螂拳(Mùih Fā Tòhng Lòhng Kyùhn, Plum Blossom Praying Mantis Boxing): Mai Hoa Đường Lang quyền Tài Jí Méi Huā Táng Láng quán 太极梅花 (Taai Gihk Mùih Fā Tòhng Lòhng Kyùhn, Taiji Plum Blossom Praying Mantis Boxing): Thái Cực Mai Hoa Đường Lang quyền

:Các lưu phái ít phổ biến: Eight Step Praying Mantis Boxing (Bā Bù Tángláng Quán八步螳螂拳): Bát Bộ Đường Lang quyền Shiny Board Praying Mantis Boxing (Guāng Bǎn Tángláng Quán 光板螳螂拳): Quang Bản Đường Lang quyền Long Fist Praying Mantis Boxing (Cháng Quán Tángláng Quán 長拳螳螂拳): Trường quyền Đường Lang quyền Throwing Hand Praying Mantis Boxing (Shuāishǒu Méihuā Tángláng Quán 摔手梅花螳螂拳): Suất Thủ Mai Hoa Đường Lang quyền Secret Gate Praying Mantis Boxing (Mì Mén Tángláng Quán 秘門螳螂拳): Bí Môn Đường Lang quyền Seeking Leg Praying Mantis Boxing (Tàn Tuǐ Tángláng Quán: 探腿螳螂拳): Đàn Thối Đường Lang quyền

:Các lưu phái Nam Đường Lang quyền – Nam Thiếu Lâm Phúc Kiến :(Branches of Nan Tanglangquan – Fukien Nan Shaolin) Chow Gar Tanglangquan(周家; Chow family Praying Mantis Boxing): Chu gia Đường Lang quyền của Chu Á Nam (Chow Áh Nàam) Chu Gar Tanglangquan (朱家; Chu family Praying Mantis Boxing): Châu gia Đường Lang quyền của Châu Phúc Đồ (Chu Fook-To, Chu Fook-Too, Chu Fook Tou, Chu Fook Tu) hậu duệ của Minh Thái Tổ Châu Nguyên Chương Kwong Sai Jook Lum Tanglangquan (江西竹林; Jiangxi Bamboo Forest Praying Mantis Boxing): Giang Tây Trúc Lâm Đường Lang quyền Iron Ox Tanglangquan (鐵牛; Iron Ox Praying Mantis Boxing): Thiết Ngưu Đường Lang quyền

Thái Cực Đường Lang tại Việt Nam

Triệu Trúc Khê 趙竹溪 (1900-1991) là người đầu tiên đưa Đường Lang Quyền vào Việt Nam và truyền bá môn võ thuật này đến đông đảo quần chúng. Hiện nay, các câu lạc bộ Thái cực quyền dưỡng sinh không đâu không biết đến bài Thái Cực Chưởng (Triệu thức Thái cực quyền) và Đơn Nhân Thôi thủ (Ma Vân Chưởng) do Triệu Trúc Khê truyền dạy từ năm 1959. Thái Cực Đường Lang quyền (太极螳螂拳) họ Triệu cũng nổi danh trên thế giới(được truyền dạy chủ yếu ở Việt Nam, Hồng Kông, Macao, Mỹ, Úc, Pháp, brazil...), người ta thường gọi là Trúc Khê Thái Cực Đường Lang, hoặc là Thái Cực Đường Lang Việt Nam, do đa phần học trò của Triệu Trúc Khê theo về Việt Nam luyện tập hoặc là người Hoa sinh ra ở Việt Nam, sau này mới tản đến các nước khác truyền dạy, nên mới gọi là Thái Cực Đường Lang Việt Nam để phân biệt với Thái Cực Đường Lang nguyên gốc của Tôn Nguyên Xương (孫元昌 - sư công của Triệu Trúc Khê) được dạy ở Trung Quốc.

Triệu Trúc Khê 趙竹溪 Ông tên là Văn Tu (文修) , Tự Trúc Khê, hiệu Trường Thanh(長清), Pháp hiệu Ngộ Tu (悟修) sinh năm Quang Tự thứ 26 (1900, tài liệu tiếng Việt ghi năm 1894) tại trấn Sa Hà, huyện Dịch, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc.

Khi lên 5 tuổi, mẹ mất, cha đang công tác xa nên ông sống tạm ở nhà bà nội, ngỡ rằng 2 năm trở lại với cha nhưng vì người cha cứ biền biệt quanh năm suốt tháng, và họ hàng chú bác không ai giúp đỡ, may là một bà lão hàng xóm thương tình nên cho ông nương tựa. Hơn 3 tháng trôi qua, một ngày nọ, ông và bà lão đi ngang một ngôi chùa thì ông được một lão sư trụ trì giữ ông ở lại để dạy cho ông võ nghệ, khi ông 12 tuổi thì ông hay tin cha mất. Sau đó, lão sư dẫn ông lên núi Đại Trạch (大澤山), chùa Trí Tàng (智藏寺), ông được hai vị đại sư là Thanh Tuyền và Giác Đông dạy cho võ công, trong vòng 10 năm ở đây, ông chỉ học về môn Thiếu Lâm Thái Tổ (少林太祖門), những cách đánh ngắn gọn của Trường Quyền, những thuật chiến đơn lẻ. Dần dần ông lại ước muốn được rèn luyện võ thuật thêm tinh túy, chẳng hạn như : ông muốn trước tiên phải thành thạo trong 12 cách đánh của võ thuật : bát thế, thủ pháp, cách phá, biến hoá, cách đánh, cách nhào, khí công, cương công, binh khí, cử tạ, cưởi ngựa và bắn tên; tiếp sau đó thì học cách bố trận và chiến lược, có như thế mới đạt được thành quả lớn. Ngoài ra, ông còn luyện thêm bài Thất Tiết Mai Hoa Tiên (sợi xích dài 7 tất) và Phi đà (còn gọi thừng tiêu, là sợi dây dài một đầu dây có buộc một quả tạ) đến mức thượng thừa.

Ông dự tính là sẽ ở đây học võ nghệ lâu dài, nhưng hai vị đại sư lần lượt qua đời, từ đó, ông xuống núi trở về quê nhà vào tiêu cục Đức Thắng,ông chủ tên là Dư Thông Hải với đại sư Giác Đông quen biết nhau, nên ông được Chủ cục cho đi theo làm nghề bảo tiêu (nghề áp tải hàng hoá)

Một lần đi bảo tiêu, xe hàng bị bọn sơn tặc tấn công, tên đầu lĩnh giao đấu với ông sử dụng một loại võ công lạ với chiêu thức cương mãnh, hiểm ác mà ông chưa từng gặp, không thể dùng quyền hóa giải được, đành dùng tuyệt kỹ Phi đà mới ném hạ được hắn.

Làm bảo tiêu hơn 1 năm thì chủ cục qua đời, nên ông lên núi Lai Châu Cổ(萊州崮山) , quán Tử Hà(紫霞觀)theo ông đạo sĩ Trương Vạn Thu học Thái Cực chưởng. Trương Vạn Thu là truyền nhân đời thứ 11 của Trương Tam Phong - Tổ sư phái Võ Đang, một hôm, 2 thầy trò đang tập Thái cực chưởng trên núi, mây mù dày đặc giăng giăng đến bủa vây khiến 2 thầy trò cảm giác như bàn tay họ đang xoa vào làn mây mù nên Trương đạo sĩ buộc miệng nói :"Thái cực Ma (xoa) vân chưởng". Từ đó, bài Thái cực chưởng được gọi là Thái cực Ma vân chưởng (摩雲掌). Sau này có thêm bài thứ 2 là Đơn Nhân Thôi Thủ (单人推手) - 2 bài này đều là 2 bài đặc sắc của môn phái "Trúc Khê Thái cực Đường lang"(竹溪太極螳螂).

Cũng tại thời điểm đó, ông tới thành phố Yên Đài (煙台) tìm người cậu làm nghề kinh doanh, người cậu có ý muốn ông ở lại nối nghiệp, nhưng vì không muốn rời bỏ giới võ thuật nên ông đã không nhận lời.

Sau đó ông theo thầy Nhậm Phong Thụy (任豐瑞) học ba năm và theo sư huynh của Nhậm Phong Thụy là Trì Thủ Tiến (遲守進) học thêm ba năm rưỡi nữa,hai thầy này đều là đệ tử đời thứ 6 của môn phái Mai Hoa Đường Lang quyền. Cho nên từ đó võ nghệ của ông đã bước vào 1 giai đoạn khác và tiến bộ hơn nhiều. Ông am tường các tuyệt kỹ của Đường Lang quyền với những bài tập theo trình độ từ thấp đến cao: Bát Đại Mã Bộ (八大馬步), Băng Bộ (蹦步), Đơn Trích Mai Hoa, Lan Triết (拦截), Thượng hạ bát trửu (上下八肘), Âm thủ côn (阴手棍)…

Trước khi đại chiến thế giới thứ 2 bùng nổ, ông đã từng tổ chức hội võ thuật quốc gia, ở Quảng Châu, ông đã huấn luyện 1 quân đội đại đao(大刀隊_không phải đại đao của Quan Công mà chỉ là đơn đao bình thường nhưng to và dài hơn).

Sau đó, ông đã nhận lời mời một người bạn đi qua Hồng Kông , ở đó được 2 năm thì ông sang Ma Cao mở võ đường dạy võ và ông đã tạo cho mình một môn phái riêng đó là THÁI CỰC ĐƯỜNG LANG , trong thời gian này ở đây, ông đã hòa nhập vào giới võ thuật một cách thuận lợi.

Sau khi đại chiến thế giới thứ 2 kết thúc, ông muốn võ thuật của mình phát triển ra nước ngoài, nên ông đã cùng đệ tử Khương Mật Linh rời Ma Cao sang Việt Nam. Ông có người anh em kết nghĩa là Bàng Thuần Lễ, là hội trưởng Tổng Thương hội người Hoa tại Hải Phòng _Việt Bắc, nên ông đã mở võ đường ở đây dạy Thái cực Đường Lang.

Chín năm sau, ông dời võ đường tới Tinh Võ Thể Dục Hội ở miền Nam _Chợ Lớn Quận 5 (nay là câu lạc bộ Tinh Võ _trung tâm thể dục thể thao Q5). Ngay sau khi buổi đầu tiên ông biểu diễn bài Thất Tinh Mai hoa Biên (sợi xích dài 7 tất), với 1 cú dậm chân làm sập võ đài của Tinh Võ, ông đã làm trấn động giới võ thuật ở Chợ Lớn.

Chẳng bao lâu thì tiếng tăm của ông lừng lẫy khắp nơi, ông được mời làm huấn luyện viên trưởng thay cho thầy Tạ Lâm Tường, nhiều người Hoa ở Chợ Lớn đã mời ông tới dạy ở những hội quán, những câu lạc bộ thể dục thể thao ... Thậm chí cả những khóa học riêng ở nhà, lúc này, cả gia đình ông cư trú tại đường Nguyễn Trãi, sát bên Chùa Bà Thiên Hậu. Có lần, võ sư Trần Tử Long đến khiêu chiến, học trò Triệu sư phụ là Lý Hỏa Yên muốn thay thầy tiếp đấu nhưng ông không chịu. Ngày quyết đấu, do người hâm mộ kéo đến quá đông và cá độ quá lớn nên bị cảnh sát lấy lý do trị an giải tán võ đài.

Tháng 4-1959, Triệu Trúc Khê đi truyền dạy Thái cực Đường Lang ở các công hội Thánh Tâm, Biên Hòa, Hội ký giả Hoa văn, các hội quán như Sùng Chính, Nghĩa An, Lệ Chí, Quảng Triệu…Ông cũng là người sáng lập ra Đội Việt kịch (tuồng cổ Quảng Đông) lừng danh một thời ở Sài Gòn.

Hơn 20 năm sống ở Việt Nam, học trò của ông vô số kể, và đây là một số đệ tử đã và đang tiếp tục truyền dạy võ nghệ của ông cho người đời sau: Trần Thế Quang, Ngô Thu, Trịnh Hoa Thu, Tạ Vinh, Lý Yên, Trương Phương, [https://sites.google.com/view/tohacphuong/home-page Tô Thúy Phương (cô Thu)], Lương Kỳ, Trần Minh, Trần Tùng bách, Tưởng Diệu Huy, Lâm Tử Cường, Diệp Quốc Lương...v.v.

1968 ông quay lại Hồng Kông và tiếp tục nghề võ thuật cho đến khi ông lìa đời vào ngày 04 tháng 8 (tức âm lịch 24 tháng 6) năm 1991

Ngày nay trong giới võ thuật gọi  ông là "sư tổ" của Thái Cực Đường Lang, tiếng Anh thường dùng "Chuck_kai tai Chi Praying Mantis" có nghĩa là " Trúc - Khê Thái cực Đường lang"

Hiện tại Thái Cực Đường Lang vẫn còn tiếp tục được dạy ở Lệ Chí duy trì từ thời của Triệu Trúc Khê đến nay, từ 5g30 đến 7g sáng hằng ngày tại sân chùa Ông Bổn ở đường Hải Thượng Lãn Ông đều tụ tập già trẻ lớn bé luyện tập Thái Cực quyền và Thái Cực Đường Lang.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|phải|Một động tác võ bọ ngựa **Đường lang quyền** (chữ Hán: ; bính âm: _Táng láng quán_ hay còn gọi là **võ bọ ngựa**; dịch nghĩa tiếng Anh là _Praying Mantis Form_ hay _Praying Mantis
thế=Một thế trong Ngũ hình quyền.|nhỏ|Một thế trong Ngũ hình quyền. **Ngũ hình quyền** hay **Ngũ hình** (tiếng Trung Quốc: 五形; bính âm: wǔ xíng) là một thuật ngữ võ công truyền thống của Trung
nhỏ|phải|Thủ pháp mô phỏng các động vật nhỏ|phải|Ưng quyền **Tượng hình quyền** (chữ Hán: 象形拳) là một loại quyền thuật rất phổ biến trong các võ phái khắp miền Nam Bắc Trung Hoa được sáng
**Đường Túc Tông** (chữ Hán: 唐肃宗; 21 tháng 2, 711 - 16 tháng 5, 762), tên thật **Lý Hanh** (李亨), là vị Hoàng đế thứ 8, hay thứ 10 của nhà Đường trong lịch sử
**Bạch Mi quyền**, tên đầy đủ là **Thiếu Lâm Bạch Mi quyền** là tên của một võ phái miền nam Trung Hoa có nguồn gốc từ Nam Thiếu Lâm Phúc Kiến do Bạch Mi đạo
**An Dương Vương** (), tên thật là **Thục Phán** (蜀泮), là người lập nên nước Âu Lạc, nhà nước thứ hai trong lịch sử Việt Nam sau nhà nước Văn Lang. Niên đại trị vì
**Bình Dương** là một tỉnh cũ thuộc vùng Đông Nam Bộ, Việt Nam. Ngày 12 tháng 6 năm 2025, tỉnh Bình Dương được sáp nhập vào Thành phố Hồ Chí Minh. Tỉnh lỵ của tỉnh
**Lý Bí** (; 722 – 1 tháng 4, 789), tự là **Trường Nguyên** (), tước phong **Nghiệp huyện hầu** (), là quan viên dưới thời nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. Ông là người
**Linh dương đầu bò** là linh dương thuộc chi **_Connochaetes_** và là động vật bản địa ở Đông Phi và Nam Phi. Chúng thuộc về họ Bovidae, bộ Artiodactyla, trong đó bao gồm linh dương,
Son dưỡng Bambi màu 28 - đỏ cam GấcSố CBMP: 1269/19/CBMP-LAGiá bán:160.000đ/thỏiThành phần:Sáp Candelilla, Dầu Gấc,Dầu Hạt Jojoba,Sáp Ong,Bơ Xoài,Dầu Thầu Dầu,Vitamin E,Vitamin CThời hạn bảo quản:TRANG ĐIỂM TỰ NHIÊN VỚI CÔNG THỨC SON DƯỠNG
Sữa Tắm Dưỡng Da Hương Nước Hoa - SẮC HƯƠNG WHITENING “ Ướp Hương Hoa Vào Người “ Công dụng : Sữa tắm dưỡng ẩm SẮC HƯƠNG WHITENING với công nghệ cảm biến chuyển hoá
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Lion**_ bao gồm hai tàu chiến-tuần dương được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Mang biệt danh "Splendid Cats", Nó đã đánh
VCU Beauty đã có mặt trên ShopeeHương đầu: Quả quýt hồng Sicili. Hương giữa: Hoa mẫu đơn hồng, Hoa hồng Đan Mạch, Quả mơ, Quả đào. Hương cuối: Xạ hương trắng. Nhà thiết kế thời
**Viện Đại học Đông Dương** (tiếng Pháp: _Université Indochinoise_) là một viện đại học công lập ở Liên bang Đông Dương do chính quyền bảo hộ Pháp thành lập vào năm 1906. Viện đại học
**Tuyến 2A:** **Cát Linh – Hà Đông – Xuân Mai** là một tuyến metro thuộc hệ thống mạng lưới Đường sắt đô thị Hà Nội, được đầu tư xây dựng bởi Bộ Giao thông Vận
**Mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương 2021** là một sự kiện mà theo đó các xoáy thuận nhiệt đới hình thành ở vùng phía Tây Bắc của Thái Bình Dương trong năm 2021, chủ
**Khu vực chính quyền địa phương** (, viết tắt: _LGA_) là một phân cấp hành chính ứng với cấp chính quyền cơ sở ở một số quốc gia trên thế giới. Quy mô và diện
**_Max điên: Con đường tử thần_** (tiếng Anh: **_Mad Max: Fury Road_**) là một bộ phim hành động 2015 do George Miller đạo diễn và sản xuất, các biên kịch gồm Miller, Brendan McCarthy và
thumb|upright=1.2|Lạc Dương **Lạc Dương** () là một thành phố trực thuộc tỉnh (địa cấp thị) nằm ở phía tây tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. Thành phố này giáp tỉnh lỵ Trịnh Châu về phía đông,
**Tôn Quyền** (; 5 tháng 7 năm 182– 21 tháng 5, 252), tự là **Trọng Mưu** (仲谋), thụy hiệu **Ngô Đại Đế** (吴大帝, tức là "Hoàng đế lớn của Ngô"), là người sáng lập của
**Đường Đức Tông** (chữ Hán: 唐德宗; 27 tháng 5, 742 - 25 tháng 2, 805), húy **Lý Quát** (李适), là vị Hoàng đế thứ 10 hay thứ 12 của nhà Đường trong lịch sử Trung
**Đường Thái Tông** (chữ Hán: 唐太宗, 28 tháng 1 năm 598 – 10 tháng 7 năm 649), tên thật **Lý Thế Dân** (李世民), là vị Hoàng đế thứ hai của triều đại nhà Đường trong
**Đường Huyền Tông** (chữ Hán: 唐玄宗, bính âm: Xuánzōng ; 8 tháng 9, 685 tên thật là **Lý Long Cơ**, có thời điểm gọi là **Võ Long Cơ** () trong giai đoạn 690 - 705,
**Đường Cao Tông** (chữ Hán: 唐高宗, 21 tháng 7 năm 628 - 27 tháng 12 năm 683) là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc, trị vì
**Hải Lăng** (chữ Hán phồn thể: 海陵區, chữ Hán giản thể:海陵区) là một quận thuộc địa cấp thị Thái Châu, tỉnh Giang Tô, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Quận Hải Lăng có diện tích
nhỏ|Hạc hình quyền **Bạch Hạc quyền** (_Bai He quan_) còn được gọi _Thiếu Lâm Bạch Hạc quyền_ (_Shaolin Bai He quan_), tên phổ biến ở Trung Quốc là **Phúc Kiến Vĩnh Xuân Bạch Hạc quyền**
**Lý Cảnh** (李璟, sau đổi thành Lý Cảnh 李景) (916 – 12 tháng 8, 961), nguyên danh **Từ Cảnh Thông** (徐景通), còn gọi là **Từ Cảnh** (徐璟) giai đoạn 937 - 939, tự là **Bá
**Đường Lâm** là một xã thuộc thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội, Việt Nam. ## Địa lý Đường Lâm nằm bên hữu ngạn sông Hồng (bờ phía Nam), cạnh đường Quốc lộ 32,
Chiêu thức _Đơn tiên_ trong Quyền lộ [[Trần thức Thái cực quyền|Trần gia Thái cực quyền]] **Thái cực quyền** (chữ Hán phồn thể: 太極拳; chữ Hán giản thể: 太极拳; bính âm: Taijiquan; Tiếng Anh: Tai
**Tế Nhĩ Cáp Lãng** (; ; 19 tháng 11, 1599 - 11 tháng 6, 1655), Ái Tân Giác La, là một quý tộc, lãnh đạo chính trị và quân sự Mãn Châu vào đầu thời
**Nhà Đường** là một hoàng triều cai trị Trung Quốc từ năm 618 đến năm 907. Thành lập bởi gia tộc họ Lý, nhà Đường là triều đại kế tục nhà Tùy (581–618) và là
**Đường Duệ Tông** (chữ Hán: 唐睿宗, 22 tháng 6, 662 - 13 tháng 7, 716), húy **Lý Đán** (李旦), là vị Hoàng đế thứ năm và thứ bảy của nhà Đường trong lịch sử Trung
**Đường Đại Tông** (chữ Hán: 唐代宗; 11 tháng 11, 726 - 10 tháng 6, 779), húy **Lý Dự** (李豫), là vị Hoàng đế thứ 9 hay thứ 11 của nhà Đường trong lịch sử Trung
**Cựu Đường thư** (tiếng Trung phồn thể: 舊唐書, giản thể: 旧唐书; bính âm: Jiù táng shū) là bộ sách lịch sử nằm trong 24 bộ chính sử Trung Quốc do sử quan Lưu Hú triều
**Vụ án cưỡng chế đất đai tại Tiên Lãng** là vụ án về tranh chấp đất đai giữa ông Đoàn Văn Vươn ở Cống Rộc, Vinh Quang cùng gia đình và Ủy ban nhân dân
**Vũ Lệ Quyên** (sinh ngày 2 tháng 4 năm 1981), thường được biết đến với nghệ danh **Lệ Quyên**, là một nữ ca sĩ người Việt Nam. Sinh ra tại Hà Nội trong một gia
thumb|Lăng [[Ngô Quyền ở thôn Cam Lâm trong Làng cổ Đường Lâm, thuộc thị xã Sơn Tây (Hà Nội, Việt Nam).]] **Lăng Ngô Quyền** (898 - 944) hay **Tiền Ngô Vương Lăng** (前吳王陵) là quần
**Trường Đại học Văn Lang** (English:**_Van Lang University**,_ Latin: _Universitas Vanlangensis_), thường được gọi tắt là **VLU** là một trường đại học tư thục đa ngành ở Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Thành
**Dương Thu** (chữ Hán: 杨收, 816 – 870), tự **Tàng Chi**, là tể tướng vãn kỳ đời Đường trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế Nhà họ Dương tự nhận là hậu duệ của
**Vụ tai nạn tàu E1 tại Lăng Cô 2005** là một vụ tai nạn giao thông đường sắt xảy ra vào 11 giờ 49 phút (UTC+07:00) ngày 12 tháng 3 năm 2005 tại địa phận
**Đường Trung Tông** (chữ Hán: 唐中宗, 26 tháng 11 năm 656 - 3 tháng 7 năm 710), là vị Hoàng đế thứ tư và thứ sáu của nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc, từng
**Đường Thuận Tông** (chữ Hán: 唐順宗; 21 tháng 2, 761 - 11 tháng 2, 806), tên thật **Lý Tụng** (李誦), là vị Hoàng đế thứ 11 hay 13 của nhà Đường trong lịch sử Trung
**Đường Ý Tông** (chữ Hán: 唐懿宗; 28 tháng 12 năm 833 - 15 tháng 8 năm 873), húy **Lý Thôi** (李漼), là vị hoàng đế thứ 18 hay 20 của triều đại nhà Đường trong
**Thẩm Dương** (tiếng Trung giản thể: 沈阳市, _Shenyang_) là một thành phố ở Đông Bắc Trung Quốc. Đây là tỉnh lỵ của tỉnh Liêu Ninh, nằm ở phía trung-bắc của tỉnh. Thẩm Dương là thành
**Vương Lãng** (chữ Hán: 王朗, bính âm: Wang Lang; ?-228) tự là **Cảnh Hưng** là tướng cuối thời Đông Hán, công thần khai quốc nhà Tào Ngụy thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc.
là một bộ phim điện ảnh hoạt hình Nhật Bản thuộc thể loại lãng mạn – khoa học viễn tưởng – chính kịch ra mắt vào năm 2022, dựa trên cuốn light novel cùng tên
**Đường Cao Tổ** (chữ Hán: 唐高祖, hiệu là **Lý Uyên** (李淵), biểu tự **Thúc Đức** (叔德), 8 tháng 4, 566 – 25 tháng 6, 635), là vị hoàng đế khai quốc của triều Đường trong
[[Caspar David Friedrich, _Kẻ lãng du trên biển sương mù,_ 38.58 × 29.13 inches, 1818, tranh sơn dầu, Kunsthalle Hamburg]] [[Eugène Delacroix, _Nữ thần Tự do dẫn dắt nhân dân_ 1830]] Théodore Géricault, _[[Chiếc bè
**Vịnh Xuân quyền** (詠春拳, Wing Chun, ving tsun, Wing Tsun, Wing Chun kuen, Wingchun-kuen) còn được biết đến dưới tên gọi **Vĩnh Xuân quyền** (永春拳) và những biến thể khác về tên như **Vịnh Xuân
**Thanh Tây lăng** (; ) là một quần thể lăng mộ triều đại nhà Thanh nằm cách về phía tây nam Bắc Kinh, thuộc Huyện Dịch, Hà Bắc. Đây có khu lăng tẩm kết hợp