✨Diplodocus

Diplodocus

Diplodocus (, , nhằm chỉ đến cặp xương chữ V giống dầm đỡ ở mặt dưới cái đuôi, khi đó được coi là khá độc đáo.

Diplodocus thuộc hàng những chi khủng long dễ nhận biết nhất, bởi kiểu dáng của chúng giống khủng long chân thằn lằn điển hình, đuôi và cổ dài, cùng hai cặp chân trụ vững vàng. Trong quá khứ, chúng từng được coi là loài khủng long dài nhất được biết.

Mô tả

thumb|left|279x279px|Kích thước Diplodocus carnegii (cam) và D. hallorum (lục) so sánh với người trưởng thành. Trong số những loài khủng long chân thằn lằn nổi tiếng, Diplodocus là động vật to lớn, có cổ dài, đi đứng bằng bốn chân, với một cái đuôi dài, giống cái roi. Chi trước của chúng thấp hơn chi sau, tạo nên một dáng đứng ngang song song với đất. Cấu trúc xương của những con vật này thường được ví như là những cây cầu treo. Trên thực tế, D. carnegii hiện là loài khủng long dài nhất dựa trên bộ xương hóa thạch khá hoàn chỉnh, Khối lượng của D. carnegii được ước tính nằm trong khoảng .

D. hallorum, chỉ mới được biết đến thông qua một số mảnh xương, còn khổng lồ hơn, và các ước tính cho rằng loài này to bằng bốn con voi cộng lại. Khi mới được mô tả vào những năm 1991, David Gillette tính toán chiều dài của mẫu vật là 33 m (110 ft) bằng phương pháp chiếu đẳng cự (isometric scaling) lấy D. carnegii làm quy chiếu. Tuy nhiên, ông về sau đính chính lại và cho rằng nó có lẽ dài khoảng , qua đây ngụ ý rằng một số cá thể có thể dài tận 52 m (171 ft) và nặng từ 80 tới 100 tấn, biến nó trở thành loài khủng long dài nhất từng được khám phá (tất nhiên là ngoại trừ những mẫu vật sơ sài của Amphicoelias hoặc Maraapunisaurus).

Da thịt

Phát hiện năm 1990 về vết hằn da của một loài diplodocid đã cho thấy rằng một số loài sở hữu các gai keratin mỏng và nhọn, giống gai cự đà. Những gai này có thể dài đến , hiện diện trên phần đuôi "quật" của chúng, và có lẽ trải dài từ cổ xuống lưng, giống các hadrosaurid. Một số phiên bản phục dựng Diplodocus ngày nay cũng bắt đầu biểu diễn các gai nhọn kiểu đó, ví dụ như trong chương trình Walking with Dinosaurs.

Phát hiện và lịch sử nghiên cứu

Chiến tranh Xương và Diplodocus longus

Dấu ấn đầu tiên của Diplodocus được phát hiện tại mỏ đá của Marshall P. Felch ở Garden Park gần Thành phố Cañon, Colorado, vào năm 1877, sau khi Benjamin Mudge và Samuel Wendell Williston thu thập hàng chục hóa thạch tại đó. Bộ mẫu vật đầu tiên (YPM VP 1920) rất sơ sài, chỉ bao gồm hai đốt đuôi hoàn chỉnh, một xương chữ V, và hàng chục mảnh đốt đuôi. Chúng được chuyển tới Bảo tàng Peabody Yale và được đặt danh pháp Diplodocus longus ('hai dầm đỡ dài') bởi nhà cổ sinh vật học Othniel Charles Marsh vào năm 1878. Marsh đề ra cái tên này trong thời kỳ Chiến tranh Xương, một cuộc thi thu thập hóa thạch giữa ông và nhà cổ sinh vật học gốc Philadephia Edward Drinker Cope. Các thành viên trong họ này, tuy cũng to lớn như các khủng long chân thằn lằn khác, lại sở hữu thể hình thon thả hơn các họ như titanosaur và brachiosaur. Tất cả thành viên Diplodocidae đều có đặc trưng là cổ và đuôi dài, cùng tư thế thân nằm ngang, chi trước thấp hơn chi sau. Diplodocid sinh sôi nảy nở ở Bắc Mỹ và Châu Phi vào thế Jura muộn. Loài Dinheirosaurus ở Bồ Đào Nha và Tornieria ở Châu Phi cũng đã được một số tác giả xác định là có quan hệ mật thiết với Diplodocus. Diplodocoidea bao gồm các diplodocid, cũng như các dicraeosaurid, các rebbachisaurid, Suuwassea, và/hoặc các nemegtosaurid. Nhánh này là nhóm chị em với Macronaria (các camarasaurid, các brachiosaurid và các titanosauria). Đây được coi là loài điển hình của chi Diplodocus. Vì tên riêng của loài này vinh danh hai nhân vật là Jim và Ruth Hall (của Ghost Ranch), George Olshevsky đã đề xuất đổi danh pháp thành S. hallorum, sử dụng dạng số nhiều sở hữu cách bắt buộc; Gillette theo đó mà tu chỉnh tên loài, Luận đề này được tiếp nối bởi một nghiên cứu chi tiết hơn vào năm 2006, theo đó các tác giả không chỉ trả lại tên cũ Diplodocus hallorum cho loài, mà còn khơi gợi giả thuyết cho rằng loài này và D. longus thực chất là một. Lập trường cho rằng D. hallorum nên được coi là D. longus cũng nhận được sự ủng hộ của đội ngũ các tác giả tái mô tả loài Supersaurus, bác bỏ giả thuyết trước đó cho rằng SeismosaurusSupersaurus là đồng nghĩa. Một phân tích năm 2015 về các mối quan hệ diplodocid đã bình chú rằng các ý kiến này dựa trên cơ sở các mẫu vật hoàn chỉnh hơn của D. longus. Các tác giả của nghiên cứu này đồng tình rằng những mẫu vật ấy đúng là D. hallorum, còn bản thân danh pháp D. longusnomen dubium.

  • D. lacustris là một nomen dubium được Marsh đặt danh pháp vào năm 1884, dựa trên mẫu vật YPM 1922 được tìm thấy bởi Arthur Lakes, trong đó bao gồm một xương mõm và hàm trên của một con vật nhỏ hơn ở Morrison, Colorado. Vào năm 2013, Mossbrucker et al. phỏng đoán rằng hàm dưới và răng của Diplodocus lacustris thực chất thuộc về loài Apatosaurus ajax. Sau này vào năm 2015, mõm của mẫu vật này được phát hiện là thuộc về chi Camarasaurus.

Marsh và sau là Hatcher cho rằng Diplodocus là loài thủy sinh, bởi vì họ quan sát thấy lỗ mũi của chúng nằm trên đỉnh sọ. Điều này cũng được suy rộng cho các loài khủng long chân thằn lằn khác, chẳng hạn như BrachiosaurusApatosaurus. Nghiên cứu của Kenneth A. Kermack (1951) đã chứng minh rằng khủng long chân thằn lằn không thể thở dưới nước ngay cả khi có lỗ mũi trên đỉnh đầu, bởi lẽ áp lực nước lên ngực chúng rất lớn. Kể từ những năm 1970, đồng thuận chung cho rằng khủng long chân thằn lằn là loài chỉ sống trên cạn, ăn lá cây, dương xỉ, và bụi cây.

Các nhà khoa học hiện vẫn đang tiếp tục suy đoán cách thức hít thở của những con khủng long khổng lồ cổ dài này, đặc điểm mà đáng lẽ là sẽ tạo ra nhiều khoảng chết. Chúng có lẽ sở hữu một hệ hô hấp giống chim, vốn hiệu quả hơn hệ thống của thú và của thằn lằn. Phục dựng cổ và ngực của Diplodocus đã phát lộ nhiều xoang chứa khí bên trong xương, đặc điểm mà có lẽ đã tham gia vào quá trình hô hấp giống ở chim.

Tư thế

thumb|Minh họa lỗi thời của Oliver P. Hay (1910), mô tả sai lầm rằng chân của Diplodocus doãi sang hai bên Minh họa về đáng đi đứng của Diplodocus đã thay đổi rất nhiều kể từ những phát hiện ban đầu. Ví dụ, phục dựng của Oliver P. Hay vào năm 1910 khắc họa hai con Diplodocus có tư thế chân doãi ra hai bên. Hay cho rằng Diplodocus có dáng đi giống thằn lằn với chân doãi ra hai bên, và ý kiến đó được Gustav Tornier ủng hộ. Giả thuyết này bị thách thức bởi William Jacob Holland, người mà đã chỉ ra rằng nếu điều này đúng thì Diplodocus sẽ cần một cái rãnh bên dưới để kéo lê bụng của nó. Những phát hiện dấu chân vào thập niên 1930 rốt cuộc đã làm sụp đổ giả thuyết của Hay. Một dây chằng gáy có lẽ đã đảm nhiệm chức năng đó.

Cũng như các chi thân cận như Barosaurus, cái cổ siêu dài của Diplodocus đã và đang là đề tài gây nhiều tranh cãi trong giới cổ sinh vật học. Một nghiên cứu năm 1992 của Đại học Columbia về cấu trúc cổ của diplodocid chỉ ra rằng một cái cổ dài như vậy sẽ cần một trái tim nặng 1,6 tấn – tương đương một phần mười khối lượng của con vật. Nghiên cứu đề xuất rằng chúng sẽ cần "những quả tim" phụ trợ ở cổ, mục đích nhằm bơm máu lên các trạm tim liên tiếp cho đến khi tới được não. tới 146,8 triệu năm trước ở lớp đỉnh, tức là nằm trong kỳ Oxford, Kimmeridge, và Tithon Sớm của thế Jura Muộn. Thành hệ này trước kia có khí hậu nửa khô hạn với mùa mưa và mùa khô phân biệt rõ rệt. Bồn địa Morrison trải dài từ New Mexico tới Alberta và Saskatchewan, thuở xưa là nơi sinh sống của nhiều loài khủng long đa dạng, đã được khai sinh khi Dãy Front thuộc Mạch núi Rocky đùn lên phía tây. Các lớp lắng đọng từ các lưu vực hướng đông của chúng sau được các mạch sông và suối thải vào các vùng đất lầy, ao hồ, kênh sông, và bãi bồi. Thành hệ này có niên đại gần như Thành hệ Lourinha ở Bồ Đào Nha và Thành hệ Tendaguru ở Tanzania.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_Diplodocus_** (, , nhằm chỉ đến cặp xương chữ V giống dầm đỡ ở mặt dưới cái đuôi, khi đó được coi là khá độc đáo. _Diplodocus_ thuộc hàng những chi khủng long dễ nhận
Rất lâu về trước, khủng long tồn tại trên Trái Đất của chúng ta. Stegosaurus và diplodocus là những loài khủng long ăn thực vật to lớn hiền lành. Bé hãy cùng khám phá nhé
Rất lâu về trước, khủng long tồn tại trên Trái Đất của chúng ta. Stegosaurus và diplodocus là những loài khủng long ăn thực vật to lớn hiền lành. Bé hãy cùng khám phá nhé
**_Amphicoelias_** (, là một từ bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp, có nghĩa là "hai mặt lõm", αμφι, _amphi_: " ở hai bên", và κοιλος, _koilos_: "rỗng, lõm"; tạm dịch là: _Khủng long hai khoang
**_Stegosaurus_** (phát âm tiếng Anh: ; ) là một chi khủng long phiến sừng thuộc cận bộ Stegosauria, sống từ Jura muộn (giai đoạn Kimmeridgia đến tiền Tithonia) ở miền Tây Bắc Mỹ ngày nay.
**Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên** () tại Luân Đôn là một bảo tàng trưng bày một số lượng lớn các mẫu vật từ rất nhiều thời kì trong lịch sử tự nhiên. Nó mà
**_Maraapunisaurus_** là một chi trong siêu họ Diplodocoidea, phân thứ bộ Khủng long chân thằn lằn (_Sauropoda_), là một chi khủng long ăn thực vật và bao gồm _M. fragillimus_, được coi là con khủng
**_Allosaurus_** (phát âm tiếng Anh: ) là một chi khủng long chân thú carnosauria lớn sống vào kỷ Jura Muộn cách đây 155 - 145 triệu năm (tầng Kimmeridge - tầng Tithon). Danh pháp "Allosaurus"
thumb|alt=montage of four birds|[[Lớp Chim được xếp vào nhóm Dinosauria theo hệ thống phân loại sinh học áp dụng phương pháp phát sinh chủng loại.]] **Khủng long** là một nhóm bò sát thuộc nhánh **Dinosauria**,
**Kỷ Jura** là một kỷ trong niên đại địa chất kéo dài từ khoảng 200 triệu năm trước, khi kết thúc kỷ Tam điệp (_Trias_) tới khoảng 146 triệu năm trước, khi bắt đầu kỷ
**_Barosaurus_** ; là một chi khủng long khổng lồ, đuôi dài, cổ dài, là loài khủng long ăn thực vật liên quan chặt chẽ và là họ hàng với _Diplodocus_. Vẫn có thể tìm thấy
Dưới đây là **danh sách toàn bộ các chi khủng long** **đã biết** thuộc liên bộ Dinosauria, trừ lớp Aves (chim). Danh sách này bao gồm cả những chi mà bây giờ không được xem
nhỏ|260x260px|Công viên Wrocławski ở Lubin **Công viên Wrocławski ở Lubin** (tiếng Ba Lan: _Park Wrocławski w Lubinie_) là một trong những công viên tự nhiên lâu đời nhất ở thị trấn Lubin, thuộc tỉnh Dolnośląskie,
**Thung lũng Viñales** () là một vùng trũng carxtơ ở Cuba. Thung lũng này có diện tích 132 km² và nằm ở _Sierra de los Organos_, phía bắc Viñales trong tỉnh Pinar del Río. Thung lũng
**Sauropoda** là một nhánh khủng long hông thằn lằn. Chúng đáng chú ý vì kích thước to lớn của một số loài, và là nhóm bao gồm các loài động vật lớn nhất từng sống
**Họ Uyển long** (danh pháp khoa học: **_Brachiosauridae_**) là một họ khủng long Sauropda thuộc siêu họ Macronaria, có các chi như _Brachiosaurus_, _Giraffatitan_, v.v. Chúng ăn cỏ, cổ dài, có các chân trước dài
**Siêu họ Lương long** (danh pháp khoa học: **Diplodocoidea**) là một siêu họ của khủng long sauropod, trong đó bao gồm một số loài động vật dài nhất của mọi thời đại, bao gồm cả
nhỏ|300x300px| [[Cá sấu sông Nin|Cá sấu sông Nile (Crocodylus niloticus). ]] **Polyphyodont** - **động vật đa bộ răng** là bất kỳ động vật có răng liên tục được thay thế. Ngược lại, động vật hai
_Phân loại học động vật có xương sống_' được trình bày bởi John Zachary Young trong quyển sách_ The Life of Vertebrates_ (1962) là hệ thống phân loại tập trung vào nhóm động vật này.
**Diplodocidae** là một họ khủng long sauropod từng sinh sống từ kỷ Jura muộn đến đầu kỷ Phấn trắng, với hóa thạch được tìm thấy tại châu Âu, châu Phi và châu Mỹ ngày nay.
**Jura Muộn** là thế thứ ba trong kỷ Jura, ứng với niên đai địa chất từ 161.2 ± 4.0 to 145.5 ± 4.0 triệu năm trước (Ma),được lưu giữ trong các địa tầng **Thượng Jura**.
nhỏ|trái|Bộ xương lắp ráp của _[[Plateosaurus engelhardti_ từ thành hệ Trossingen ở miền nam Đức, đặt tại Viện Khoa học Trái Đất Tübingen.]] **Plateosauridae** là một họ thuộc khủng long dạng chân thằn lằn (Sauropodomorpha)
**Othniel Charles Marsh** (1831 – 1899) là nhà cổ sinh vật học người Mỹ. Ông là đối thủ của Edward Drinker Cope. ## Cuộc đối đầu không nhân nhượng Othniel Charles Marsh và Edward Drinker