✨Amphicoelias

Amphicoelias

Amphicoelias (, là một từ bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp, có nghĩa là "hai mặt lõm", αμφι, amphi: " ở hai bên", và κοιλος, koilos: "rỗng, lõm"; tạm dịch là: Khủng long hai khoang rỗng) là một chi trong siêu họ Diplodocoidea, phân thứ bộ Khủng long chân thằn lằn (Sauropoda), là một chi khủng long ăn thực vật và bao gồm A. fragillimus, được coi là con khủng long lớn nhất mọi thời đại từng được phát hiện. Dựa trên mô tả còn sót lại từ một xương hóa thạch duy nhất, A. fragillimus có thể là loài động vật có xương sống dài nhất được biết đến nay với chiều dài từ , và có khối lượng lên đến 122 tấn. Tuy nhiên, vì những hóa thạch còn lại đã bị thất lạc ngay tại di chỉ khảo cổ sau khi được nghiên cứu và công bố trong những năm 1870, bằng chứng duy nhất còn sót chỉ là một bản vẽ và ghi chú thực địa. Amphicoelias có mặt trong khu vực địa tầng 6 ở hệ địa chất Morrison.

Miêu tả

nhỏ|trái|Một minh họa của [[Carl Dahlgren, 1892]] Loài điển hình của Amphicoelias, A. altus, được đặt tên bởi nhà cổ sinh vật học Edward Drinker Cope trong tháng 12 năm 1877 (mặc dù không công bố cho đến năm 1878), bao gồm một bộ xương không hoàn chỉnh gồm hai đốt sống, một xương mu (xương chậu), và xương đùi (xương chân trên). Cope cũng đặt tên cho loài thứ hai, A. latus, trong cùng bài báo này. Tuy nhiên, tất cả các nhà nghiên cứu sau này đã coi A. latus là tên đồng nghĩa của A. altus. Năm 1921, Osborn và Mook đã gán các xương bổ sung cho A. altus —xương bả vai, xương vai, xương trụ, và răng. Henry Fairfield Osborn và Charles Craig Mook ghi nhận sự tương đồng tổng thể chặt chẽ giữa AmphicoeliasDiplodocus, cũng như một vài khác biệt quan trọng, chẳng hạn như chân trước của Amphicoelias dài hơn của Diplodocus. Xương đùi của Amphicoelias dài và mỏng một cách bất thường. Trong khi hầu hết các nhà khoa học đang cố gắng sử dụng các chi tiết để phân biệt AmphicoeliasDiplodocus là hai chi riêng biệt, nhưng ít nhất có một ý kiến khác (John Foster, trong cuốn sách Jurassic West năm 2007 của ông) cho rằng Amphicoelias có lẽ là từ đồng nghĩa sớm hơn của Diplodocus.

Loài thứ ba của Amphicoelias, A. fragillimus, chỉ được biết đến từ một mẫu vật hình cung cao 1,5 m (một phần của một đốt xương sống có gai), hoặc là cuối cùng hoặc là thứ hai từ cuối lên theo chuỗi các đốt sống lưng, tức là đốt D (lưng) 10 hay D9, đo được 2,7 m (8,8 ft). Bên cạnh đốt sống duy nhất này, ghi chú thực địa (tại chỗ) của Cope còn ghi chép về "một xương đùi khổng lồ" đặt cách đốt sống này vài chục mét và rất có thể đoạn xương đùi (mà không được miêu tả này) cũng thuộc về cùng một con vật.

Trong năm 2010, một tài liệu chuyên khảo đã được đưa ra nhưng không được công bố chính thức, bởi Henry Galiano và Albersdorfer Raimund, trong đó họ gọi một loài thứ tư của Amphicoelias, là "A. brontodiplodocus" dựa trên một số mẫu vật đầy đủ được tìm thấy trong mỏ Dana vùng núi Big Horn Basin, Wyoming và được lưu lại trong một bộ sưu tập tư nhân. Giả thuyết của họ dựa trên các mẫu xét nghiệm là gần như tất cả các loài Diplodocus hệ tầng Morrison hoặc là trong giai đoạn phát triển hoặc là đại diện cho tính lưỡng hình giới tính (nghĩa là trong cùng một loài, hình dáng con đực lại hoàn toàn khác con cái) giữa các loài trong chi Amphicoelias, nhưng những phân tích này đã bị đặt nghi vấn và sự công bố này đã bị phủ nhận bởi ngay chính tác giả của nó, họ đã giải thích rằng đó là "rõ ràng chỉ là một bản thảo với các lỗi chính tả,.v.v. và đây không phải là bài báo cáo hoàn chỉnh. Thực tế, cũng không có ý định xuất bản hay phân phối văn bản này" (xem bình luận về tài liệu tham khảo trước đó).

Hóa thạch biến mất

Những đốt xương khổng lồ được cho là của A. fragillimus thường bị phớt lờ trong những bản ghi chép tổng quát về những con khủng long lớn nhất, một phần vì theo những báo cáo khác nhau sau đó, không ai rõ nơi lưu trữ đốt xương sống và xương đùi, và mọi nỗ lực để tìm chúng đều thất bại. Năm 2006, Kenneth Carpenter đưa ra một giả thuyết về sự biến mất của những mẫu vật của A. fragillimus. Như theo lưu ý trong mô tả của Cope, nguyên liệu cấu trúc xương rất mỏng mảnh dễ hư hỏng, và kỹ thuật làm cứng và bảo quản hóa thạch vào thời gian này chưa được phát minh (đối thủ của Cope, nhà cổ sinh vật học O. C. Marsh, là người đầu tiên đã sử dụng hóa chất như vậy vào những năm đầu thập niên 1880). Carpenter cho ý kiến, mẫu hóa thạch A. fragillimus sau khi phát hiện từ mỏ đá được bảo quản trong đá bùn đã phong hóa mà có thể hỏng một cách dễ dàng và vỡ thành những mảnh nhỏ bất cứ lúc nào. Vì vậy, mẫu hóa thạch có thể đã bị hỏng và Cope loại bỏ ngay sau khi ông đã vẽ lại mặt sau cho bản báo cáo của ông (Carpenter cho rằng điều này có thể giải thích lý do tại sao Cope đã chỉ vẽ các đốt xương theo một góc cạnh, chứ không phải là từ nhiều góc độ như ông đã làm cho những phát hiện khác của ông).

Năm 1994, một nỗ lực đã được thực hiện để tái định vị mỏ đá, nơi mà A. fragillimus và nhiều loài khác đã được tìm thấy. Họ đã sử dụng radar xuyên đất (thiết bị GPR) trong một nỗ lực để chụp hình những khúc xương vẫn đang còn bị chôn vùi trong lòng đất. Cố gắng này không thành công vì đá bùn hóa thạch đã bị phong hóa này đều có mật độ tương tự như đất đá xung quanh, làm cho hai loại đất không thể phân biệt. Một nghiên cứu về địa hình địa phương cũng cho thấy địa tầng đá chứa hóa thạch đã bị xói mòn, và có lẽ là tại thời điểm mà Lucas khám phá ra A. fragillimus, ông đã chỉ ra rằng một phần lớn của bộ xương đã bị biến mất theo thời gian, duy chỉ có một đốt xương sống và xương đùi đã được phát hiện mà thôi.

Trong năm 1994, sau khi sử dụng loài liên quan, Diplodocus làm tham chiếu, Gregory S. Paul ước tính chiều dài xương đùi của A. fragillimus là 3,1–4 m (10–13 ft).

Trong khi thân hình A. fragillimus tương đối mỏng thì kích thước khổng lồ của nó vẫn làm cho nó trở thành đồ sộ. Việc xác định trọng lượng của một con khủng long chân thằn lằn khó khăn hơn nhiều so với việc xác định chiều dài của nó, do các phương trình phức tạp hơn cần thiết để tính toán lại dễ tạo ra sai số lớn hơn khi dựa trên các biến đổi nhỏ trong các tỷ lệ tổng thể của con vật. Carpenter đã sử dụng ước tính năm 1994 của Paul về khối lượng của Diplodocus carnegii (11,5 tấn) để suy đoán ra rằng A. fragillimus có thể nặng tới 122,4 tấn.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_Amphicoelias_** (, là một từ bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp, có nghĩa là "hai mặt lõm", αμφι, _amphi_: " ở hai bên", và κοιλος, _koilos_: "rỗng, lõm"; tạm dịch là: _Khủng long hai khoang
**_Bruhathkayosaurus_** (; có nghĩa là "thằn lằn rất lớn") có thể là loài khủng long lớn nhất từng sống trên trái đất. Tuy nhiên, tính chính xác của tuyên bố này đã bị sa lầy
**_Maraapunisaurus_** là một chi trong siêu họ Diplodocoidea, phân thứ bộ Khủng long chân thằn lằn (_Sauropoda_), là một chi khủng long ăn thực vật và bao gồm _M. fragillimus_, được coi là con khủng
thumb|alt=montage of four birds|[[Lớp Chim được xếp vào nhóm Dinosauria theo hệ thống phân loại sinh học áp dụng phương pháp phát sinh chủng loại.]] **Khủng long** là một nhóm bò sát thuộc nhánh **Dinosauria**,
**_Diplodocus_** (, , nhằm chỉ đến cặp xương chữ V giống dầm đỡ ở mặt dưới cái đuôi, khi đó được coi là khá độc đáo. _Diplodocus_ thuộc hàng những chi khủng long dễ nhận
**Siêu họ Lương long** (danh pháp khoa học: **Diplodocoidea**) là một siêu họ của khủng long sauropod, trong đó bao gồm một số loài động vật dài nhất của mọi thời đại, bao gồm cả
**_Argentinosaurus_** ( nghĩa là "thằn lằn Argentina") là một chi của khủng long _Sauropoda_ sống ở Argentina. Tên chi (_Argentinosaurus_) chỉ đến quốc gia mà chúng được phát hiện. Chi khủng long này sinh sống
Dưới đây là **danh sách toàn bộ các chi khủng long** **đã biết** thuộc liên bộ Dinosauria, trừ lớp Aves (chim). Danh sách này bao gồm cả những chi mà bây giờ không được xem
**Diplodocidae** là một họ khủng long sauropod từng sinh sống từ kỷ Jura muộn đến đầu kỷ Phấn trắng, với hóa thạch được tìm thấy tại châu Âu, châu Phi và châu Mỹ ngày nay.
Những **sinh vật lớn nhất** trên Trái Đất được xác định theo những tiêu chí khác nhau: khối lượng, thể tích, diện tích, chiều dài, chiều cao hoặc thậm chí là kích thước của bộ