✨Điện ảnh Triều Tiên

Điện ảnh Triều Tiên

Hình:Unified Korea film clapperboard.svg Điện ảnh bán đảo Triều Tiên (tiếng Triều Tiên: 한국의 영화) là tên gọi ngành công nghiệp điện ảnh của Triều Tiên (tính cho đến trước năm 1945) hoặc hai nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên và Đại Hàn Dân Quốc (kể từ năm 1945 đến nay). Chịu ảnh hưởng từ nhiều biến cố chính trị xảy ra trong suốt thế kỷ XX, từ giai đoạn Nhật Bản chiếm đóng Triều Tiên, Chiến tranh Triều Tiên đến giai đoạn chia cắt hai miền từ năm 1953 đến hiện tại, điện ảnh Triều Tiên cũng có nhiều thăng trầm.

Điện ảnh Triều Tiên trước Chiến tranh thế giới thứ hai

Giai đoạn sơ khai: Trước năm 1926

Người đưa kỹ thuật điện ảnh vào Triều Tiên là một nhà du hành người Mỹ tên là Burton Holmes. Vào năm 1899, ông đã trình chiếu trước Hoàng gia Triều Tiên những thước phim đầu tiên. Buổi trình chiếu phim rộng rãi đầu tiên trước công chúng Triều Tiên diễn ra vào tháng 6 năm 1903, là một đoạn phim quảng cáo cho việc xây dựng tuyến tàu điện ở Seoul do một công ty Mỹ thực hiện, tháng 11 năm 1907 một rạp phim khác, rạp Dansung-sa được mở tại Seoul và vẫn còn hoạt động đến ngày nay. Trong giai đoạn đầu, phần lớn các bộ phim trình chiếu được nhập từ châu Âu hoặc Hoa Kỳ, trong đó có một số phim rất được công chúng Hàn Quốc đón nhận như hai tác phẩm của đạo diễn huyền thoại D. W. Griffith, Broken Blossoms (1919) và Way Down East (1920), bộ phim Robin Hood (1922) của Douglas Fairbanks và hai bộ phim của đạo diễn Đức Fritz Lang, Nibelungen SiegfriedKriemhilds Rache (đều sản xuất năm 1924). Hình quảng cáo phim Arirang của Triều Tiên năm 1926 Sự ra đời của ngành công nghiệp điện ảnh nội địa Triều Tiên gắn với ông chủ của rạp Dansung-sa Park Sung-pil, người đã bỏ tiền thực hiện bộ "phim" Triều Tiên đầu tiên, một vở kịch trên sân khấu có tựa đề Uirijeok Guto (의리적구토) được thu lại bằng kỹ thuật điện ảnh, và bộ phim tài liệu Phong cảnh thành phố Kyoungsoung, cả hai cùng được công chiếu tại rạp Dansung-sa ngày 27 tháng 10 năm 1919. Bộ phim điện ảnh thực sự đầu tiên của điện ảnh Triều Tiên có lẽ là một chuyển thể của Xuân Hương truyện (춘향전) được thực hiện vào năm 1921. Xuân Hương truyện là một tiểu thuyết khuyết danh nổi tiếng của Triều Tiên và cũng là tác phẩm được chuyển thể điện ảnh nhiều nhất, tính cho tới bộ phim chuyển thể của đạo diễn Im Kwon-taek năm 2000 thì đã có 14 bộ phim được xây dựng dựa trên cuốn tiểu thuyết này. Theo một số nguồn khác thì bộ phim thực sự đầu tiên được thực hiện ở Triều Tiên lại là một tác phẩm của đạo diễn Yun Baek-nam, bộ phim Ulha ui Mengse, được công chiếu tháng 4 năm 1923.

Kỷ nguyên vàng của phim câm: 1926-1930

Do là thuộc địa của Nhật Bản từ năm 1910, các hãng phim Triều Tiên chủ yếu do người Nhật điều hành. Một thương gia người Nhật tên là Orajo Yodo đã bỏ vốn thành lập hãng phim Choson Kinema Productions, hãng phim tiên phong của điện ảnh Hàn Quốc thời kì này. Năm 1926, Choson Kinema giao cho diễn viên trẻ Na Woon-gyu thực hiện bộ phim Nongjungjo (농중조), trong đó Na đảm nhiệm cả vai trò biên kịch, đạo diễn và thủ vai chính. Sau Nongjungjo, Na thực hiện bộ phim tiếp theo của ông, Arirang (아리랑, lấy theo tên bài hát phổ biến nhất ở nước này), đây là bộ phim đánh dấu kỉ nguyên vàng của các bộ phim câm Triều Tiên. Giống như nhiều phim Nhật Bản cùng thời, Arirang có thêm một người đọc thoại và lời dẫn, một byeonsa (변사, hay benshi trong tiếng Nhật) để thuyết minh cho các bộ phim câm.

Những năm cuối thập niên 1920, phim câm Triều Tiên đạt đến thời kì cực thịnh với hơn 70 tác phẩm ra đời trong thời kì này với chất lượng ngày một được nâng cao. Trong số đó phải kể tới các bộ phim khác của Na Woon-gyu như Punguna (1926) và Deuljwi (1927). Na vào năm 1927 cũng hợp tác cùng Park Sung-pil mở một hãng phim độc lập với tiêu chí người Triều Tiên sản xuất phim cho người Triều Tiên. Tuy tồn tại trong thời gian ngắn, nhưng hãng này cũng cho ra đời được một số phim đáng chú ý như Jalitgeola (1927), Beongeoli Sam-ryong (1929) và Salangeul chajaseo (1929).

Phim có tiếng ra đời: 1930-1945

Nửa đầu thập niên 1930 chứng kiến sự sa sút của ngành công nghiệp điện ảnh phim câm Triều Tiên vì sự kiểm duyệt và đàn áp ngày một ngặt nghèo của chính quyền chiếm đóng. Số lượng phim ra đời trong thời gian này giảm xuống chỉ còn khoảng 2 hoặc 3 phim mỗi năm, trong khi nhiều tài năng của điện ảnh Triều Tiên lại rời sang làm việc tại Thượng Hải, trung tâm điện ảnh của châu Á thời đó. Bộ phim câm đáng chú ý duy nhất có lẽ là Imjaeobtneun naleutbae (1932) của đạo diễn Lee Gyu-hwan.

Bộ phim có tiếng đầu tiên của điện ảnh Triều Tiên được sản xuất năm 1935, đó là một chuyển thể khác của Xuân Hương truyện do Lee Myeong-woo đạo diễn. Trong nửa cuối thập niên 1930, số lượng phim có tăng trở lại và nghệ sĩ điện ảnh đi đầu vẫn là Na Woon-gyu, trước khi đột ngột qua đời năm 1937, ông đã cho ra đời các bộ phim đáng chú ý như Kanggeonneo maeul (1935) hay Oh Mong-nyeo (1937). Tuy vậy giai đoạn này cũng không kéo dài được lâu khi sự kiểm soát của chính quyền đối với các phim có tiếng còn trở nên gay gắt hơn so với các phim câm, từ năm 1938 toàn bộ các phim sản xuất tại Triều Tiên đều do người Nhật thực hiện và từ năm 1942 sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, việc sử dụng tiếng Triều Tiên bị cấm tuyệt đối trong điện ảnh. Hai trong số này được sản xuất trong khoảng thời gian từ khi Triều Tiên được giải phóng khỏi quân đội Nhật Bản (năm 1945) đến khi Chiến tranh Triều Tiên nổ ra (năm 1950), đó là Uri Geonseol (1946) và Tổ quốc (내 고향, 1949). Trong thời gian chiến tranh (1950-1953) có 5 bộ phim được sản xuất, phần lớn tập trung vào đề tài khơi dậy lòng yêu nước.

Sau khi chiến tranh kết thúc, nền điện ảnh Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên được khôi phục khá nhanh với những bộ phim chiến tranh hoặc phản ánh công cuộc khôi phục đất nước Triều Tiên bị tàn phá.

Thập niên 1960 và 1970

Năm 1966 lãnh đạo Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên Kim Nhật Thành đưa ra học thuyết về tư tưởng Chủ thể (Juche - 주체) trong nghệ thuật, theo đó các tác phẩm nghệ thuật phải là những tác phẩm cách mạng phản ánh chủ nghĩa xã hội trong công cuộc xây dựng đất nước Triều Tiên. Tư tưởng này sau đó đã được con trai của Kim Nhật Thành là Kim Chính Nhật (lãnh tụ tương lai của Triều Tiên) cụ thể hóa trong chuyên luận "Lý thuyết nghệ thuật điện ảnh".

Bộ phim tiêu biểu nhất cho tư tưởng nghệ thuật này là Bể máu (피바다, 1969), được chuyển thể từ tiểu thuyết kể về câu chuyện của một người phụ nữ nông dân trở thành anh hùng trong cuộc kháng chiến chống Nhật của người Triều Tiên. Bộ phim này sau đó đã được chuyển thể thành nhiều loại hình nghệ thuật khác như nhạc kịch hay vũ kịch. Một tác phẩm đáng chú ý khác là Cô gái bán hoa (꽃파는 처녀, 1972) của Choe Ik-kyu (người sau này là Bộ trưởng Bộ Văn hóa), bộ phim này đã đoạt Giải đặc biệt tại Liên hoan phim quốc tế (International Film Festival) lần thứ 18 và là một trong các tác phẩm điện ảnh được biết đến nhiều nhất của Triều Tiên thập niên 1970.

Thập niên 1980 cho đến nay

Trong những năm 1980, các bộ phim mang tính tư tưởng và tuyên truyền được giảm bớt, thay vào đó là những tác phẩm có đề tài gần gũi với cuộc sống hơn. Có thể kể tới một chuyển thể tiếp theo của Xuân Hương truyện năm 1980 hay bộ phim Hồng Cát Đồng (홍길동, 1986). Bộ phim đáng chú ý nhất thập niên 1980 của điện ảnh Triều Tiên là một phim khoa học giả tưởng về một quái vật khổng lồ có tên Pulgasari (불가사리, 1985), bộ phim này được thực hiện bởi Shin Sang-ok, một nhà điện ảnh không mấy tiếng tăm của Hàn Quốc bị bắt cóc sang Triều Tiên.

Trong thập niên 1990, IMDb chỉ thống kê được 4 bộ phim mà Triều Tiên được sản xuất, trong đó có bộ phim truyền hình dài tập mang tên Tổ quốc và số phận (민족과 운명) được thực hiện từ năm 1992 đến năm 1999. Thập niên 2000 chứng kiến những thay đổi theo hướng cởi mở hơn của điện ảnh nước này khi lần đầu tiên có bộ phim hoạt hình Thẩm Thanh Vương hậu là sản phẩm hợp tác của hai miền Nam - Bắc Triều. Năm 2006, lần đầu tiên có một bộ phim Triều Tiên được bán cho các nhà phân phối phương Tây, đó là bộ phim Nyeohaksaengeui Ilgi (한 녀학생의 일기).

Điện ảnh Hàn Quốc

Tập tin:KoreaSfilm.svg

Giai đoạn hình thành: 1945-1955

Cùng với sự đầu hàng của quân đội Nhật Bản năm 1945, nền điện ảnh của Hàn Quốc cũng bắt đầu được xây dựng với bộ phim Jayu Manse (자유만세, 1946) của đạo diễn Choi In-gyu. Tuy vậy công nghiệp điện ảnh Hàn Quốc phát triển khá chậm chạp do chịu ảnh hưởng của chiến tranh, từ năm 1950 đến năm 1953 mỗi năm chỉ có chừng 5 hoặc 6 bộ phim được sản xuất, thêm vào đó những bộ phim được lưu trữ thời gian trước đó cũng lại bị chiến tranh phá hủy ít nhiều.

Giai đoạn hoàng kim: 1955-1962

Sau khi hiệp định đình chiến được ký kết năm 1953, tổng thống Hàn Quốc Lý Thừa Vãn đã góp phần khôi phục nền điện ảnh nước này bằng việc miễn thuế cho mọi bộ phim sản xuất trong nước. Quá trình hồi phục và phát triển này được đánh dấu bằng một chuyển thể điện ảnh khác của Xuân Hương truyện do Lee Kyu-hwan thực hiện năm 1955. Bộ phim này đã thành công vang dội khi chỉ trong vòng 2 tháng nó đã thu hút 10% dân số Seoul (khoảng trên 200.000 người) đến rạp, góp phần thúc đẩy mạnh mẽ công nghiệp điện ảnh Hàn Quốc.

Chất lượng và số lượng các bộ phim Hàn Quốc được cải thiện nhanh chóng, năm 1956 bộ phim Sijibganeun nal (시집가는 날) của Lee Byeong-il đã bắt đầu đem về cho nước này những giải thưởng quốc tế. Đến năm 1959 sản lượng phim của công nghiệp điện ảnh Hàn Quốc đã lên tới 111 phim một năm, tức là gấp hơn 20 lần sản lượng trung bình 10 năm trước đó. Năm 1961, điện ảnh Hàn Quốc có hai tác phẩm xuất sắc là Hanyeo (하녀) của Kim Ki-young và Obaltan (오발탄) của Yu Hyun-mok, cả hai đều được đánh giá là nằm trong số những bộ phim hay nhất trong lịch sử điện ảnh nước này.

Khủng hoảng: 1962-1979

Giai đoạn hoàng kim của điện ảnh Hàn Quốc chấm dứt sau khi Park Chung-hee lên nắm chính quyền năm 1962. Chính phủ Park Chung-hee đã ngay lập tức tăng sự kiểm soát của nhà nước đối với công nghiệp điện ảnh. Theo Luật điện ảnh năm 1963, một loạt các biện pháp kiểm duyệt khắc nghiệt được áp dụng đối với số lượng và nội dung các phim sản xuất trong nước. Chỉ trong vòng 1 năm, số lượng phim sản xuất giảm từ 71 xuống còn 16.

Sự kiểm soát của nhà nước lên đến đỉnh cao vào giữa và cuối thập niên 1970 đã phá hủy gần như toàn bộ những giá trị nghệ thuật điện ảnh Hàn Quốc xây dựng được trong những năm trước đó. Thêm vào đó điện ảnh cũng phải chịu sự cạnh tranh quyết liệt của một loại hình giải trí mới, truyền hình, vốn phát triển đột ngột từ cuối thập niên 1960. Năm 1979, lượng khán giả đến rạp phim giảm chỉ còn 1/3 so với 10 năm trước đó (65 triệu lượt người xem năm 1979 so với 173 triệu lượt người xem năm 1969.

Năm 1988, tổng thống Roh Tae-woo chính thức gỡ bỏ sự kiểm duyệt nội dung chính trị cho điện ảnh Hàn Quốc, giúp cho các đạo diễn có thể khai thác các đề tài xã hội gai góc và gần gũi với cuộc sống hơn. Tuy vậy thị trường phim Hàn Quốc tiếp tục đạt doanh thu thấp và lại bị các bộ phim Hollywood và Hồng Kông thống trị, năm 1993 chỉ có 16% số phim chiếu rạp là phim nội địa.

Đột phá và phát triển mạnh mẽ: Từ năm 1999 đến nay

Bước đột phá của nền công nghiệp điện ảnh Hàn Quốc đến năm 1999 với bộ phim bom tấn Shiri (쉬리), bước cách mạng về thương mại hóa điện ảnh. Tuy bộ phim đầu tiên do tư nhân (hãng Samsung) tài trợ đã được thực hiện từ năm 1992 nhưng phải chờ đến Shiri điện ảnh Hàn Quốc mới thực sự tìm được hướng đi mới thu hút khán giả. Đó là những tác phẩm kinh phí lớn (kinh phí Shiri khoảng 8 triệu USD, lớn nhất trong lịch sử điện ảnh Hàn Quốc cho đến thời điểm đó), đề tài hấp dẫn (Shiri đề cập đến xung đột hai miền Nam - Bắc Triều trong cuộc rượt đuổi giữa các điệp viên Triều Tiên ở Seoul với những sĩ quan tình báo Hàn Quốc) và sự góp mặt của những ngôi sao điện ảnh (Shiri có một giàn diễn viên tên tuổi gồm Han Suk-kyu, Choi Min-sik, Kim Yoon-jin và Song Kang-ho). Với công thức như vậy, Shiri đã thành công vang dội về mặt thương mại khi bán được tới 2 triệu vé chỉ tính riêng ở Seoul và trở thành bộ phim ăn khách nhất lịch sử điện ảnh Hàn Quốc, vượt qua các bộ phim bom tấn nổi tiếng của Hollywood như Titanic hay Ma trận (The Matrix). Thành công của Shiri được tiếp nối ngay trong các năm tiếp theo bằng những bộ phim bom tấn về đề tài xung đột Nam-Bắc khác như Khu vực an ninh chung (2000) hay Cờ Thái cực giương cao (태극기, 2004).

Một bước tiến nữa về thể loại của điện ảnh Hàn Quốc là bộ phim Cô nàng ngổ ngáo (엽기적인 그녀, 2001), một bộ phim tình cảm - hài (rom-com) không chỉ ăn khách ở Hàn Quốc mà còn được ưa thích ở nhiều nước châu Á. Bộ phim này đã mở đầu cho trào lưu phim tình cảm hài vốn là thế mạnh của điện ảnh Hàn Quốc trong việc xâm nhập các thị trường điện ảnh khác (vốn không mặn mà với đề tài xung đột Nam - Bắc Triều). Những bộ phim tình cảm của Hàn Quốc cũng bắt đầu được Hollywood chú ý và một số phim đã được mua bản quyền để làm lại (remake), trong số này bộ phim Il Mare (시월애, 2000) đã được làm lại thành một tác phẩm Hollywood có tựa đề Ngôi nhà bên hồ (The Lake House, 2006) với sự góp mặt của 2 ngôi sao là Sandra Bullock và Keanu Reeves.

Không chỉ thành công về mặt thương mại, các bộ phim Hàn Quốc còn bắt đầu thành công tại các liên hoan phim lớn trên thế giới. Năm 2002 bộ phim Oasis (오아시스) của đạo diễn Lee Chang-dong (sau này trở thành Bộ trưởng Bộ Văn hóa và Du lịch Hàn Quốc) đã giành giải hai tại Liên hoan phim Venezia. Cũng tại liên hoan phim này, bộ phim 3-Iron (빈집, 2004) của đạo diễn Kim Ki Duk đã giành giải Sư tử bạc. Kim Ki Duk là đạo diễn phim nghệ thuật nổi tiếng của Hàn Quốc, với bộ phim Samaria (사마리아, 2004) ông đã giành giải Đạo diễn xuất sắc nhất tại Liên hoan phim Berlin. Bộ phim đạt giải cao nhất trong số các liên hoan phim cho đến nay có lẽ là Oldboy (올드보이, 2003) của đạo diễn Park Chan-wook, tác phẩm này đã đoạt Giải thưởng lớn (Grand Prix) tại Liên hoan phim Cannes, tức là chỉ xếp sau bộ phim đoạt giải Cành cọ vàng năm đó là Fahrenheit 9/11. Trong Liên hoan phim Cannes năm 2007, nữ diễn viên Hàn Quốc Jeon Do-yeon cũng đã giành giải Nữ diễn viên xuất sắc nhất (Prix d'interprétation féminine).

Các bộ phim ăn khách nhất

Các bộ phim này được xếp theo số lượng khán giả đến rạp chứ không theo tổng doanh thu. Danh sách được cập nhật đến tháng 8 năm 2007:

Các nhân vật nổi tiếng

Nhà làm phim

  • Kim Il-sung

  • Kim Jong-il

  • Choe Ik-gyu

  • Kim Se-ryun

  • Shin Sang-ok

  • Bong Joon-ho

  • Im Kwon-taek

  • Kang Je-gyu

  • Kim Ji-Woon

  • Kim Ki-duk

  • Kwak Jae-yong

  • Lee Chang-dong

  • Lee Jun-ik

  • Park Chan-wook

  • Shin Sang-ok

Diễn viên

Diễn viên Jang Dong-gun

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Hình:Unified Korea film clapperboard.svg **Điện ảnh bán đảo Triều Tiên** (tiếng Triều Tiên: 한국의 영화) là tên gọi ngành công nghiệp điện ảnh của Triều Tiên (tính cho đến trước năm 1945) hoặc hai nước
Danh sách theo trình tự thời gian của các bộ phim được sản xuất tại bán đảo Triều Tiên khi bán đảo này vẫn còn là một phần của Nhật Bản và kể cả khi
**Thể chế chính trị nhà Triều Tiên** được vận hành theo chế độ quan liêu tập quyền, dựa trên lý tưởng Nho giáo Tính Lý Học (성리학) làm nền tảng. Về lý thuyết, vua Triều
**Điện ảnh 2016** tổng quan về các sự kiện điện ảnh, bao gồm các phim điện ảnh đạt doanh thu cao nhất, các lễ trao giải, liên hoan phim cùng danh sách các phim điện
liên_kết=https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%ADp tin:2018_inter-Korean_summit_01.jpg|nhỏ|Tổng thống Hàn Quốc [[Moon Jae-in (phải) và Chủ tịch Triều Tiên Kim Jong-un (trái), tháng 4/2018.]] **Quan hệ Nam-Bắc Triều Tiên**, **Quan hệ Nam-Bắc Hàn** hay **Quan hệ Liên Triều** (Quan hệ Đại
thumb|[[Jean Gabin, Louis de Funès, Jeanne Moreau, Alain Delon, Brigitte Bardot, Jean-Paul Belmondo, Isabelle Huppert, Jean Dujardin, Gérard Depardieu.]] **Điện ảnh Pháp** là nền nghệ thuật và công nghiệp điện ảnh của Pháp, nền điện
:_Bài này về lịch sử của Triều Tiên cho tới cuộc phân chia Triều Tiên vào ở cuối thập niên 1940. Xem thêm Lịch sử Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên và Lịch
**Điện ảnh Việt Nam** hay **phim điện ảnh Việt Nam** (tức **phim lẻ Việt Nam**) là tên gọi ngành công nghiệp sản xuất phim của Việt Nam từ 1923 đến nay. Điện ảnh Việt Nam
**Điện ảnh 2017** tổng quan về các sự kiện điện ảnh, bao gồm các phim điện ảnh đạt doanh thu cao nhất, các lễ trao giải, liên hoan phim cùng danh sách các phim điện
thumb|Du khách chụp ảnh với người dân Triều Tiên **Du lịch ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên** được tổ chức bởi một trong số các cơ quan du lịch quốc doanh, bao
nhỏ|261x261px|[[Thành Hwaseong]] **Triều Tiên Chính Tổ** (chữ Hán: 朝鮮正祖; Hangul: 조선정조, 28 tháng 10 năm 1752 – 28 tháng 6 năm 1800) là vị quốc vương thứ 22 của nhà Triều Tiên. Ông trị vì
**Triều Tiên thuộc Nhật** (, Dai Nippon Teikoku (Chōsen)) là giai đoạn bán đảo Triều Tiên trong thời kỳ Đế quốc Nhật Bản cai trị, được bắt đầu kể từ khi Nhật Bản ép vua
**Điện ảnh Hồng Kông** (tiếng Trung Quốc: 香港電影 / _Hương Cảng điện ảnh_, tiếng Anh: _Cinema of Hong Kong_) hay **phim điện ảnh Hồng Kông** (tức **phim lẻ Hồng Kông**) là tên gọi ngành công
**Điện ảnh Việt Nam Cộng hòa** () là thuật ngữ mô tả ngành kĩ nghệ chế tác phát hành và phê bình điện ảnh tại Việt Nam Cộng hòa thời kì từ 1955 đến 1975.
Tập tin:China film clapperboard.svg **Điện ảnh Trung Quốc** hay **phim điện ảnh Trung Quốc** (tức **phim lẻ Trung Quốc**) tính cho đến trước năm 1949 là nền văn hóa và công nghiệp điện ảnh nói
nhỏ|300x300px|Nhà máy Nhiệt điện Pyongchon cung cấp điện cho trung tâm [[Bình Nhưỡng.]] **Năng lượng ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên** mô tả tình hình sản xuất, tiêu thụ và nhập khẩu
nhỏ|phải|[[Anh em nhà Lumière, cha đẻ của nghệ thuật điện ảnh]] **Điện ảnh** là một loại hình nghệ thuật tổng hợp thể hiện bằng hình ảnh kết hợp âm thanh, đôi khi là một số
[[Auguste và Louis Lumière, "cha đẻ" của nền điện ảnh]] **Lịch sử điện ảnh** là quá trình ra đời và phát triển của điện ảnh từ cuối thế kỉ 19 cho đến nay. Sau hơn
**Điện ảnh Thái Lan** khởi nguồn từ nền điện ảnh những ngày đầu, khi chuyến viếng thăm đến Bern, Thụy Sĩ của vua Chulalongkorn vào năm 1897 được François-Henri Lavancy-Clarke ghi hình lại. Bộ phim
**Trung tâm Máy tính Triều Tiên** (**KCC**) là trung tâm nghiên cứu công nghệ thông tin hàng đầu của chính phủ Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên. Thành lập vào ngày 24 tháng
**Trung tâm Quốc gia Điện ảnh** (, **CNC**; , **NBC**) là cơ quan đặc trách các vấn đề điện ảnh trực thuộc Nha thông tin - Bộ văn hóa Việt Nam Cộng hòa, tồn tại
**Điện ảnh Telugu**, hay còn được biết đến với tên gọi **Tollywood**, là một phân khúc của điện ảnh Ấn Độ chuyên sản xuất phim ảnh bằng tiếng Telugu, một ngôn ngữ được sử dụng
**Kinh tế Bắc Triều Tiên** phản ánh những quan hệ sản xuất, cơ cấu kinh tế và tình hình kinh tế, đời sống tại CHDCND Triều Tiên. Nhìn chung, nền kinh tế CHDCND Triều Tiên
**Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên** (), gọi ngắn là **Triều Tiên** (, MR: Chosŏn) hay **Bắc Triều Tiên** (, MR: Puk-chosŏn) là một quốc gia ở Đông Á, tạo thành nửa phía
**Nhà Triều Tiên** (; tiếng Hàn trung đại: 됴ᇢ〯션〮 **Dyǒw syéon** hoặc 됴ᇢ〯션〯 **Dyǒw syěon**) hay còn gọi là **Triều Tiên Lý Thị** (), Bắc Triều Tiên gọi là **Triều Tiên Phong kiến Vương triều**
**Triều Tiên** (theo cách sử dụng tại Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên: Chosŏn'gŭl: 조선, Hanja: 朝鮮, McCune–Reischauer: Chosǒn), **Hàn Quốc** (theo cách sử dụng tại Đại Hàn Dân Quốc: ), **liên Triều**
nhỏ|_[[Dancheong_, họa tiết trang trí ở Gyeongbokgung.]] nhỏ|Lễ hội đèn lồng hoa sen. Sự phân tách Triều Tiên thành hai chính thể: Đại Hàn Dân Quốc (còn gọi là Hàn Quốc hoặc Nam Hàn) và
**Chiến tranh Triều Tiên** là cuộc chiến xảy ra trên bán đảo Triều Tiên giữa Bắc Triều Tiên (với sự hỗ trợ của Trung Quốc, Liên Xô cùng các nước xã hội chủ nghĩa) và
**Đào thoát khỏi Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên** là hiện tượng những người mang quốc tịch CHDCND Triều Tiên vượt biên khỏi quốc gia này để sang một quốc gia khác, thường
thumb|Người dân Triều Tiên viếng tượng [[Kim Nhật Thành (trái) và Kim Jong-il ở Đài tưởng niệm Mansu Hill Grand, Bình Nhưỡng.]] nhỏ|phải|Khải Hoàn môn Bình Nhưỡng **Văn hóa Bắc Triều Tiên** chỉ về nền
**Chiến tranh Nhật Bản – Triều Tiên**, còn gọi là **Chiến tranh Triều - Nhật** (hangul: 조일전쟁, hanja: 朝日戰爭, _Joil jeonjaeng_) hay **Chiến dịch Văn Lộc - Khánh Trường** (kanji: 文禄・慶長の役, hiragana: ぶんろく・けいちょうのえき, _Bunroku・Keichō no
**Triều Tiên Cao Tông** (Hangul: 조선 고종; Hanja: 朝鮮高宗; RR: Gojong; MR: Kojong, 1852 - 1919) là vị vua thứ 26 và cũng là vị vua đầu tiên của nhà Triều Tiên xưng danh hiệu
**Triều Tiên Anh Tổ** (chữ Hán: 朝鮮英祖; Hangul: 조선 영조, 31 tháng 10 năm 1694 – 22 tháng 4 năm 1776) là vị quốc vương thứ 21 của nhà Triều Tiên. Ông trị vì từ
**Triều Tiên Thế Tông** (, Hanja: 朝鮮世宗, sinh ngày 15 tháng 5 năm 1397 – mất ngày 8 tháng 4 năm 1450) là vị quốc vương thứ tư của nhà Triều Tiên, Miếu hiệu Thế
**Triều Tiên Trung Tông** (chữ Hán: 朝鮮中宗; Hangul: 조선중종; 16 tháng 4, 1488 – 29 tháng 11, 1544) là vị Quốc vương thứ 11 của nhà Triều Tiên. Trị vì từ năm 1506 đến năm
**Ẩm thực Triều Tiên** là truyền thống nấu ăn thông thường và cách thức chế biến thành nghệ thuật ẩm thực Triều Tiên. Ẩm thực Triều Tiên đã phát triển qua nhiều thế kỷ thay
Vấn đề **nhân quyền tại Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên** rất khó để đánh giá toàn diện vì nó bị xem là vấn đề bí mật và nhạy cảm ở quốc gia
**Hội nghị thượng đỉnh Triều Tiên–Hoa Kỳ tại Hà Nội 2019** (tên chính thức: **DPRK–USA Hanoi Summit Vietnam** theo tiếng Anh, hoặc **Hội nghị thượng đỉnh CHDCND Triều Tiên–Hoa Kỳ tại Hà Nội, Việt Nam**,
thumb|Nông dân Triều Tiên trên đồng thumb|Một trang trại của Triều Tiên, 2008. thumb|Trang trại gà Hungju, 2007. thumb|Một máy kéo ở Triều Tiên. thumb|Cây trồng ở [[Pyongan Bắc, Triều Tiên.]] thumb|Thực phẩm được trồng
**Khu phi quân sự Triều Tiên** (tiếng Anh: _Korean Demilitarized Zone_; tiếng Triều Tiên: 조선반도 비무장지대 (theo cách gọi của phía Triều Tiên) hay 한반도비무장지대 (theo cách gọi của phía Hàn Quốc), Hanja: 朝鮮半島非武裝地帶 _Triều
**Triều Tiên Tuyên Tổ** (chữ Hán: 朝鮮宣祖; Hangul: 조선 선조; 26 tháng 11, 1552 - 16 tháng 3 năm 1608), là vị quốc vương thứ 14 của nhà Triều Tiên. Ông trị vì từ năm
**Nạn đói tại Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên**, **Nạn đói tại Bắc Triều Tiên** (tiếng Triều Tiên: 조선기근) hay còn được gọi là **Hành quân gian khổ**, **Hành quân khổ nạn** (고난의
**Triều Tiên Túc Tông** (chữ Hán: 朝鲜肃宗, Hangul: 조선 숙종; 7 tháng 10 năm 1661 – 8 tháng 6 năm 1720) là Quốc vương thứ 19 của nhà Triều Tiên. Trị vì từ năm 1674
**Quốc huy của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên** là một trong những biểu tượng quốc gia của Triều Tiên. Các đặc điểm nổi bật trên quốc huy là Đập Thủy Phong, Núi
nhỏ|[[Donald Trump (phải) và Kim Jong-un gặp nhau tại Khách sạn Capella.]] **Hội nghị thượng đỉnh Hoa Kỳ-CHDCND Triều Tiên** là một cuộc họp giữa hai nhà lãnh đạo của hai nước là Hoa Kỳ
right|thumb|Diễu hành nhạc truyền thống ở Seoul. **Nhạc truyền thống Triều Tiên** bao gồm nhạc dân tộc, thanh nhạc, tôn giáo và phong cách âm nhạc nghi lễ của người Triều Tiên. Nhạc Triều Tiên,
Tập tin:Germany film clapperboard.svg **Điện ảnh Đức** là nền nghệ thuật và công nghiệp điện ảnh của Đức. Ra đời từ cuối thế kỉ 19, cho đến nay điện ảnh Đức đã có nhiều đóng
**Triều Tiên Thành Tông** (chữ Hán: 朝鮮成宗; Hangul: 조선 성종, 20 tháng 8, 1457 - 20 tháng 1, 1495), là vị quốc vương thứ 9 của nhà Triều Tiên. Ông ở ngôi từ năm 1469
**Bính Tý Hồ loạn** hay còn được gọi là **Cuộc xâm lược Triều Tiên lần thứ hai của Mãn Châu** diễn ra vào năm 1636 là sự tiếp nối lần xâm lược thứ nhất năm
nhỏ|phải|Phù hiệu của Đặc công Triều Tiên **Lực lượng tác chiến đặc biệt của Quân đội Nhân dân Triều Tiên** (tiếng Triều Tiên: 조선인민군 특수작전군; Hán tự: 朝鮮人民軍 特殊作戰軍; _Chosŏn-inmin'gun teugsujagjeongun_, tiếng Anh: _Korean People's