Di dân Việt Nam sau năm 1975 là một sự kiện trong lịch sử Việt Nam hiện đại, là hệ quả của cuộc Chiến tranh Việt Nam. Những người di dân này rời Việt Nam và đã tạo ra nhiều cộng đồng người Việt hải ngoại ở các nước họ đến, đặc biệt là Mỹ và các nước tư bản. Hầu hết người Việt di dân sau năm 1975 vì những lý do kinh tế lẫn chính trị.
Cuộc di dân này có thể được phân thành ba giai đoạn với ba khái niệm: "tị nạn" sau chiến tranh là dòng người đi ra khỏi lãnh thổ Việt Nam xung quanh trước và sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975; "vượt biên" là dòng người tiếp tục rời Việt Nam bất hợp pháp bằng đường biển hoặc đường bộ trong những năm sau đó; và dòng người rời Việt Nam theo Chương trình Ra đi có Trật tự (chỉ dành cho người đến Hoa Kỳ).
Dù không có định nghĩa rõ ràng nào về khoảng thời gian của cuộc di dân sau 1975 nhưng có thể nói, kể từ sau mốc sự kiện bình thường hóa quan hệ ngoại giao Hoa Kỳ - Việt Nam (1995) và khi Chương trình Ra đi có Trật tự kết thúc thì việc người Việt Nam rời nước này đến sinh sống tại Hoa Kỳ hay một quốc gia nào khác trên thế giới từ đây được coi là vì lí do kinh tế (chẳng hạn xuất khẩu lao động) hoặc là nhập cư đơn thuần. Về sau cũng có các trường hợp người rời Việt Nam vì lí do chính trị nhưng thường không được xem là di dân Việt Nam sau năm 1975.
Di dân Việt Nam ra hải ngoại
Ngày 30 tháng 4 năm 1975 là ngày Việt Nam Cộng hòa sụp đổ, chiến tranh Việt Nam chấm dứt. Sau đó là hai đợt di dân lớn từ Việt Nam đến Hoa Kỳ và các nước phương Tây. Hơn 125.000 người Việt Nam đến Hoa Kỳ vào cuối xuân 1975 vì sợ chính quyền mới trả thù . Ngoài ra khoảng 20.000 người đến Châu Âu và các nước khác.
Năm 1977 bắt đầu đợt thứ hai khi phong trào vượt biển tỵ nạn xảy ra. Làn sóng di dân này kéo dài cho đến giữa thập niên 1980 một phần vì vấn đề kinh tế khó khăn tại Việt Nam do chính sách của chính phủ và các thông tin bên ngoài nước.
Số liệu người tỵ nạn Việt Nam từ sau ngày 30 tháng 4/1975
-
Tháng 6-1975 đến 1979: 311.400. Đường bộ có 14.600 qua ngả Campuchia, Thái Lan. Tổng cộng 326.000.
-
1980 đến 1984: 242.000 thuyền nhân và 11.000 tỵ nạn đường bộ. Tổng cộng đợt 2 là 253.100.
-
1985 đến 1989: 186.500 thuyền nhân và đường bộ 10.500. Tổng cộng 197.000.
-
1990 đến 1995: 56.400 thuyền nhân và đường bộ 6.700. Tổng cộng 63.100.
Cộng chung 4 đợt ghi nhận được 796.300 thuyền nhân tỵ nạn và 42.900 đi đường bộ. Tổng kết từ cuối năm 1975 đến năm 1995 trải qua 20 năm đã có 839.200 người dân Việt rời bỏ Việt Nam đến các trại tỵ nạn. Con số những người chết trong biển Đông và núi rừng biên giới Thái Lan – Campuchia là các số thống kê không bao giờ ghi lại được. Con số ước lượng là từ 400.000 đến 500.000 người.
Người định cư tại các trại tỵ nạn
Tổng cộng thống kê ghi được trong suốt 20 năm từ 1975 đến 1995 các trại tỵ nạn Đông Nam Á đã tiếp nhận và chuyển tiếp định cư các con số như sau:
Malaysia 254.000.
Hồng Kông 195.000.
Thái Lan 160.200.
Indonesia 121.700.
Philippines 51.700.
Singapore 32.500.
Nhật Bản 11.100.
Macao 7.100.
Hàn Quốc 1.400
Các nơi khác 3.200.
Tổng cộng cũng là con số 839.200 người của 4 đợt kể trên.
Định cư tại các quốc gia
Hoa Kỳ 424.000.
Úc 111.000.
Canada 103.000.
Pháp 27.100.
Anh 19.300.
Tây Đức 16.800.
Hà Lan 7.600.
Nhật 6.500.
Thụy Sĩ 6.200.
Na Uy 6.100.
Thụy Điển 6.000.
New Zealand 4.900.
Đan Mạch 4.700.
Vương quốc Bỉ 2.000.
Phần Lan 1.900
Các nước khác 7.100.
Tổng cộng tính đến 1995 quốc tế đã nhận tổng số 754.800 tỵ nạn Việt Nam
Chương trình Ra đi có trật tự
Kể từ 1990 đến nay, các chương trình đoàn tụ, đón tù cải tạo, con lai, tái định cư, tỵ nạn tình nguyện trở về đã đưa vào Mỹ và nhiều nước phương Tây các đợt di dân mới. Những người này không qua các trại tỵ nạn Đông Nam Á. Riêng tại Hoa Kỳ, con số này tính đến 2005 lên đến 700.000 người và cộng với đợt di tản 1975 (130.000) và thuyền nhân (424.600).
Theo thống kê dân số năm 2000, hiện đang có 1.223.736 người Mỹ gốc Việt. Họ là người gốc Á lớn thứ năm sau các nhóm di dân Trung Hoa, Philippines, Ấn Độ và Hàn Quốc.
Xuất khẩu lao động
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Di dân Việt Nam sau năm 1975** là một sự kiện trong lịch sử Việt Nam hiện đại, là hệ quả của cuộc Chiến tranh Việt Nam. Những người di dân này rời Việt Nam
Khoảng một triệu người dân miền Bắc (khoảng 800 ngàn trong đó là người Công giáo) di cư đến miền Nam Việt Nam trong những năm 1954–1955 theo những chuyến tàu do Pháp và Mỹ
**Lực lượng Không quân Cường kích** là một binh chủng thuộc Quân chủng Phòng không-Không quân - Quân đội nhân dân Việt Nam, có chức năng sử dụng các máy bay cường kích nhằm thực
**Không quân nhân dân Việt Nam** (**KQNDVN**), được gọi đơn giản là **Không quân Việt Nam** (**KQVN**) hay **Không quân Nhân dân**, là một bộ phận của Quân chủng Phòng không – Không quân, trực
**Binh chủng Pháo Phòng không** là một binh chủng thuộc Quân chủng Phòng không-Không quân, Quân đội nhân dân Việt Nam. Đây là binh chủng có bề dày lịch sử chiến đấu lớn nhất trong
**Binh chủng Hải quân Đánh bộ** là một binh chủng thuộc Quân chủng Hải quân Việt Nam có nhiệm vụ đóng quân bảo vệ các đảo, đá hoặc tấn công, đổ bộ bằng đường biển
**Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam** là quá trình hình thành, phát triển của lực lượng Quân đội nhân dân Việt Nam. Nhà nước Việt Nam xem đây là đội quân từ nhân
**Sư đoàn 5** là đơn vị chủ lực của quân khu 7, Quân đội nhân dân Việt Nam, một phiên bản phía tây của sư đoàn 9 Quân đội nhân dân Việt Nam. ## Quá
**Sư đoàn 2 Quảng - Đà**, còn gọi là "**Sư đoàn 2 Thép**" thời chiến tranh Việt Nam là sư đoàn bộ binh cơ động nổi tiếng của Quân đội nhân dân Việt Nam. Được
**Lữ đoàn công binh 550** hay **Đoàn Công binh N50** tiền thân là **Lữ đoàn Công binh 25** là một Lữ đoàn công binh của Quân đội nhân dân Việt Nam. Trụ sở của Lữ
**Công an nhân dân Việt Nam** là một lực lượng vũ trang trọng yếu của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và là lực lượng
**Sư đoàn 341** là một sư đoàn bộ binh của Quân đội nhân dân Việt Nam, còn có tên gọi **Sư đoàn Sông Lam**. Sư đoàn này đã tham gia Chiến tranh Việt Nam, và
**Binh chủng Đặc công** là binh chủng chiến đấu đặc biệt tinh nhuệ của Quân đội nhân dân Việt Nam, do Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam trực tiếp quản lý
**Sư đoàn 316**, còn gọi là **Sư đoàn Bông Lau**, là sư đoàn chủ lực của Quân khu 2, Quân đội nhân dân Việt Nam. Sư đoàn được thành lập ngày 1 tháng 5 năm
**Sư đoàn 968** là một sư đoàn bộ binh của Quân đội nhân dân Việt Nam, được thành lập ngày 28 tháng 6 năm 1968 với nhiệm vụ ban đầu là bảo vệ tuyến hành
**Sư đoàn 320**, còn gọi là **Sư đoàn Đồng Bằng**, là một sư đoàn chủ lực thuộc Quân đoàn 34, Quân đội nhân dân Việt Nam. Ban đầu có tên Đại đoàn, thành lập từ
nhỏ|Các binh sĩ của [[Quân đội nhân dân Việt Nam đang duyệt binh trong bộ quân phục mới.]] **Hiện đại hóa** trong Quân đội nhân dân Việt Nam là một trong những mục tiêu theo
**Lữ đoàn 125 Hải quân** là một đơn vị vận tải biển chủ lực của Hải quân Nhân dân Việt Nam, tiền thân là **Đoàn 759**. ## Lịch sử hình thành * Ngày 23 tháng
Huy hiệu của Không quân Nhân dân Việt Nam **Lực lượng Không quân Vận tải** là một binh chủng thuộc Quân chủng Phòng không-Không quân, Quân đội nhân dân Việt Nam có chức năng lập
**Sư đoàn 308** hay **Đại đoàn Quân Tiên phong** trực thuộc Quân đoàn 12 là Sư đoàn bộ binh chủ lực được thành lập đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam. Thành lập
**Đại tá Quân đội nhân dân Việt Nam** là quân hàm sĩ quan cao cấp dưới cấp tướng lĩnh và là cấp bậc sĩ quan cấp tá cao nhất trong Quân đội nhân dân Việt
**Sư đoàn 304**, mật danh là **Đoàn Vinh Quang**, Sư đoàn 304 là 1 trong 6 đại đoàn chủ lực đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam, thuộc biên chế của Quân khu
nhỏ|88x88px|Binh chủng Tên lửa-Pháo bờ biển,Quân đội nhân dân Việt Nam **Binh chủng Tên lửa - Pháo bờ biển** là một binh chủng thuộc Quân chủng Hải quân, Quân đội nhân dân Việt Nam, có
**Lực lượng Không quân Tiêm kích** là một Binh chủng thuộc Quân chủng Phòng không-Không quân, Quân đội nhân dân Việt Nam có nhiệm vụ và chức năng sử dụng các loại máy bay tiêm
**Sư đoàn Bộ binh 325** là một trong 6 đại đoàn chủ lực đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam, hiện nay là một sư đoàn bộ binh đủ quân thuộc biên chế
**Tổng cục Kỹ thuật** trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam thành lập ngày 10 tháng 9 năm 1974 là cơ quan quản lý kỹ thuật đầu ngành của Bộ Quốc phòng có chức năng
**Xung đột biên giới Việt Nam–Campuchia (1975–1978)** để chỉ những xung đột quân sự và những cuộc tấn công vào thường dân giữa Việt Nam và Campuchia trong giai đoạn 1975 - 1978. Hậu quả
**Sư đoàn 7** hay **Sư đoàn Chiến thắng** là một sư đoàn bộ binh trực thuộc Quân khu 7. Sư đoàn 7 thành lập ngày 13/6/1966 tại Phước Long. ## Lịch sử ### Hình thành
**Lữ đoàn Đặc công 5** là lực lượng đặc biệt tinh nhuệ, được huấn luyện để tiến công các mục tiêu thủy của đối phương như: bến cảng, tàu thủy,... và các mục tiêu chỉ
nhỏ|Một chiến sĩ [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đang đứng dưới cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam, tay cầm khẩu AK47.]] **Quân Giải phóng miền Nam Việt
**Công giáo tại Việt Nam** là một bộ phận của Giáo hội Công giáo, dưới sự lãnh đạo tinh thần của các giám mục tại Việt Nam, hiệp thông với giáo hoàng. Với số tỉ
**Địa điểm căn cứ Cục hậu cần Quân giải phóng miền Nam Việt Nam (1973–1975)** là một di tích quốc gia nằm cạnh hồ Cầu Trắng, ấp Hiệp Hoàn, xã Lộc Hiệp, huyện Lộc Ninh,
nhỏ|175|phải|Một nhóm người vượt biển trên một con thuyền nhỏ Bà mẹ và 3 đứa con được đưa lên tàu chở dầu Wabash **Thuyền nhân Việt Nam** là hiện tượng gần một triệu người, vượt
**Kiểm duyệt ở Việt Nam** rất phổ biến và được thực hiện bởi Đảng Cộng sản Việt Nam với mọi loại phuơng tiện truyền thông – báo chí, văn học, tác phẩm nghệ thuật, âm
**Bộ Quốc phòng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam**, thường được gọi ngắn gọn hơn là **Bộ Quốc phòng Việt Nam** hay đơn giản là **Bộ Quốc phòng** (**BQP**), là cơ quan
**Bảo tàng Pháo binh** trực thuộc Cục Chính trị, Binh chủng Pháo binh, Quân đội nhân dân Việt Nam thành lập ngày 08/05/1981 theo Quyết định số: 182/QĐ-TM của Bộ Tổng Tham mưu Quân đội
**Đoàn cố vấn quân sự Liên Xô tại Việt Nam** () là một đội hình quân sự tổng hợp của Lực lượng Vũ trang Liên Xô được đưa đến Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
**Viện phát triển khoa học và công nghệ quốc phòng** (viết tắt **AMST** theo tên tiếng Anh của đơn vị là _Academy of Military Science and Technology_) là một viện nghiên cứu khoa học đa
**Luật Quốc tịch Việt Nam** là quy định pháp lý về Quốc tịch Việt Nam do Quốc hội Việt Nam thông qua. Người có quốc tịch Việt Nam là công dân Việt Nam. Quốc tịch
Ở Việt Nam, **nghĩa vụ quân sự** là nghĩa vụ của công dân phục vụ trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Thực hiện nghĩa vụ quân sự bao gồm phục vụ tại ngũ và
**_Yêu tiếng hát Việt Nam_**, hay **_Ái nhân đồng chí_** (tiếng Trung: 愛人同志, bính âm: _Ài rén tóng zhì_; tiếng Anh: _Stars and Roses_) là một bộ phim chính kịch Hồng Kông phát hành năm
**Trung tâm Phát thanh - Truyền hình Quân đội** là đơn vị trực thuộc Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, công bố thành lập và ra mắt ngày 19 tháng 5
**Trần Văn Thanh** (sinh ngày 25 tháng 10 năm 1953) là một tướng lĩnh của lực lượng Công an nhân dân Việt Nam với quân hàm Thiếu tướng. Ông từng là Giám đốc Công an
**Lịch sử của Giáo hội Công giáo Việt Nam từ năm 1975 đến năm 1990** có nhiều điểm đặc thù riêng. Đây là giai đoạn 15 năm thứ hai kể từ khi thiết lập hàng
Tiền giấy mệnh giá 500 [[đồng Việt Nam Cộng hòa|đồng phát hành năm 1966]] **Kinh tế Việt Nam Cộng hòa** (1955-1975) là một nền kinh tế theo hướng thị trường, đang phát triển, và mở
**Chiến tranh biên giới Việt Nam – Campuchia**, hay còn được gọi là **Chiến tranh biên giới Tây Nam**; , UNGEGN: _Sângkréam Kâmpŭchéa-Viĕtnam_; Những người theo chủ nghĩa dân tộc Khmer gọi là **Việt
nhỏ|Một nữ y tá và những trẻ em tị nạn trong chiến dịch Không vận Trẻ em Việt Nam **Chiến dịch Không vận Trẻ em** (tiếng Anh: **Operation Babylift**) là một chiến dịch di tản
nhỏ|326x326px|Trụ sở của [[Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh.]] **Truyền hình ở Việt Nam** bắt đầu xuất hiện từ giữa những năm 1960 tại Sài Gòn (thuộc Việt Nam Cộng hòa trước đây),
**Tin Lành** (chữ Anh: _Protestantism in Vietnam_), là một tôn giáo thuộc Cơ Đốc giáo được truyền vào Việt Nam từ đầu thế kỉ XX và hiện là một cộng đồng tôn giáo thiểu số,
**Quan hệ ngoại giao giữa Tòa Thánh và Việt Nam** trong lịch sử chưa bao giờ được thiết lập chính thức mặc dù Việt Nam là một quốc gia có số lượng giáo dân Công