✨Luật quốc tịch Việt Nam

Luật quốc tịch Việt Nam

Luật Quốc tịch Việt Nam là quy định pháp lý về Quốc tịch Việt Nam do Quốc hội Việt Nam thông qua. Người có quốc tịch Việt Nam là công dân Việt Nam. Quốc tịch Việt Nam thể hiện quyền và nghĩa vụ của một người với Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và ngược lại. Quốc tịch Việt Nam về cơ bản được trao cho một người (tự động hoặc qua thủ tục pháp lý) theo quan hệ huyết thống, tuy nhiên vẫn có nhiều trường hợp ngoại lệ. Nhà nước Việt Nam công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam (trừ một số ngoại lệ đặc biệt) nhưng cũng đồng thời không cấm công dân được mang thêm các quốc tịch khác nghĩa là công dân Việt Nam nhập quốc tịch nước ngoài thì không mất quốc tịch Việt Nam.

Lịch sử

Quốc tịch Việt Nam chỉ được mặc định tồn tại nhưng chưa từng được công nhận và quy định trong lịch sử trung đại Việt Nam dù việc đăng ký hộ tịch đã có từ thời Trần. Việc quản lý hộ tịch được thực hiện một cách đầy đủ, khoa học chỉ được bắt đầu từ thời kỳ Pháp thuộc. Dưới thời Pháp thuộc, người dân Việt Nam (được coi như) có quốc tịch Đông Dương thuộc Pháp (Fédération indochinoise). Quốc tịch Việt Nam chỉ thực sự tồn tại kể từ khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập. Sắc lệnh số 53 năm 1945 của Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Chủ tịch Hồ Chí Minh kí ban hành là quy định chính thức đầu tiên về quốc tịch Việt Nam, trong đó quy định:

Sắc lệnh này ban hành ngày 20/10/1945 khi đất nước còn chưa bị chia cắt do vậy nó có giá trị pháp lý trên toàn lãnh thổ Việt Nam và là căn cứ pháp lý gốc duy nhất được các nước thừa nhận. Tất cả các "quốc tịch" do các chế độ khác quy định sau thời điểm này đến nay đều không có giá trị pháp lý và được hiểu chung là Quốc tịch Việt Nam. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thể chế thừa kế hợp pháp của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được quốc tế công nhận nên có quyền và nghĩa vụ quy định và quản lý quốc tịch Việt Nam.

Quốc hội nước Việt Nam thống nhất đã lần đầu ban hành Luật Quốc tịch Việt Nam vào năm 1988. Từ đó đến nay đã có tất cả những văn bản sau quy định về quốc tịch:

Luật Quốc tịch Việt Nam 1988 Luật Quốc tịch Việt Nam 1998 (Số: 07/1998/QH10) Luật Quốc tịch Việt Nam 2008 (Số: 24/2008/QH12) Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam (Số: 56/2014/QH13)

Nguyên tắc một hay nhiều quốc tịch

Một quốc tịch

Ngay từ sắc lệnh 53 năm 1945 của Chính phủ Hồ Chí Minh đã có xu hướng quy định một quốc tịch. Pháp luật Việt Nam cũng được xây dựng theo hướng quy định một quốc tịch. Điều 3, Luật quốc tịch 1988 quy định:

Do xu hướng mở cửa và kêu gọi người Việt Nam ở nước ngoài đóng góp xây dựng quê hương, Nhà nước Việt Nam đã sử dụng phương pháp linh hoạt trong quy định quốc tịch để có lợi cho kiều bào, nghĩa là không chính thức công nhận hai hay nhiều quốc tịch (song tịch, đa tịch) nhưng cũng không cấm công dân có thêm quốc tịch khác trong nhiều trường hợp. Sau 10 năm đưa vào sử dụng Luật quốc tịch, Điều 3 của Luật quốc tịch 1998 đã bỏ bớt từ chỉ, còn lại:

Luật quốc tịch 2008 đã quy định rõ ràng nhất:

Đăng ký giữ quốc tịch

Điều 13, Luật quốc tịch 2008 quy định rằng người Việt Nam định cư ở nước ngoài mà chưa mất quốc tịch Việt Nam phải đăng ký với cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài để giữ quốc tịch Việt Nam trước ngày 1/7/2014. Tuy nhiên đến đầu năm 2014 chỉ khoảng 6.000 kiều bào đăng ký trên tổng số 4,5 triệu người Việt ở nước ngoài do quy định này không được phổ biến rộng rãi và bất hợp lý. Sau ngày 1/7/2014 hàng triệu người Việt Nam ở nước ngoài có thể bị mất quốc tịch nếu hộ chiếu đã hết hạn. Do phản ứng của dư luận trong nước và nhiều cộng đồng người Việt ở nước ngoài, Quốc hội đã ban hành Luật mới vào tháng 6/2014 để bỏ quy định phải đăng ký giữ quốc tịch, sửa lại điều 13 của Luật quốc tịch 2008 thành: Một số khác sau khi hoàn thành thời gian thường trú 5 năm ở Việt Nam và từ bỏ quốc tịch nước ngoài thì tiến hành thủ tục nhập tịch. Các cầu thủ đã nhập quốc tịch là những công dân Việt Nam nên phải được đối xử bình đẳng theo Hiến pháp và pháp luật. Vì vậy, báo chí đã từng phản ánh việc Liên đoàn bóng đá Việt Nam hạn chế số lượng cầu thủ gốc ngoại tham gia thi đấu là không hợp lý.

Nhập tịch do không có quốc tịch

Người không quốc tịch là người không có quốc tịch Việt Nam và cũng không có quốc tịch nước ngoài. Ở Việt Nam hiện nay có hàng chục nghìn người không quốc tịch thuộc những nhóm người sau:

Người di cư tự do từ Lào sang Việt Nam Người tị nạn từ Campuchia dưới thời Khmer Đỏ và Việt kiều Campuchia hồi hương *Người thôi quốc tịch Việt Nam để nhập quốc tịch nước ngoài nhưng không nhập được nên trở thành không quốc tịch. Đó là những cô dâu Việt Nam bỏ quốc tịch Việt Nam để nhập quốc tịch Đài Loan nhưng rồi ly hôn hoặc chồng chết nên không được cấp quốc tịch Đài Loan và trở thành người không quốc tịch.

Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam muốn hạn chế tối đa tình trạng không quốc tịch nên đã tạo điều kiện cho trẻ em sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam đều có quốc tịch và những người không quốc tịch thường trú ở Việt Nam được vào quốc tịch Việt Nam. Người không có quốc tịch phải "cư trú ổn định trên lãnh thổ Việt Nam từ 20 năm trở lên" theo điều 22 Luật quốc tịch. Chính sách quốc tịch Việt Nam được đánh giá là tốt nhất trong khu vực dù vẫn còn rất nhiều khó khăn trong việc xác minh quốc tịch.

Nhập tịch theo diện đặc biệt

Diện cuối cùng và đặc biệt nhất là Nhập tịch do có công lao đặc biệt đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam được Chủ tịch nước ký quyết định. Ông Hồ Cương Quyết (tên khai sinh: Menras André Marcel) là người đầu tiên được Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết kí quyết định trao quốc tịch theo diện này vào năm 2009. Sau đó có thêm một số trường hợp như ông Nguyễn Văn Lập (tên khai sinh: Kostas Sarantidis) trao quốc tịch theo diện này vào năm 2010.

Mất quốc tịch Việt Nam

Điều 26 của Luật quốc tịch 2008 quy định những căn cứ để xác định một người đã mất quốc tịch Việt Nam:

  • Được thôi quốc tịch Việt Nam.
  • Bị tước quốc tịch Việt Nam.
  • Theo quy định tại khoản 2 Điều 18 và Điều 35 của Luật này. Khoản 2 điều 18: Trẻ sơ sinh bị bỏ rơi, trẻ em được tìm thấy trên lãnh thổ Việt Nam mà không rõ cha mẹ là ai sẽ mất quốc tịch Việt Nam nếu tìm cả cha và mẹ hoặc chỉ tìm thấy cha hoặc chỉ tìm thấy mẹ mà họ chỉ có quốc tịch nước ngoài. Khoản 2 điều 35: Khi chỉ cha hoặc mẹ thôi quốc tịch Việt Nam thì con chưa thành niên sinh sống cùng với người đó cũng mất quốc tịch Việt Nam, nếu có sự thỏa thuận bằng văn bản của cha mẹ.
  • Theo điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.

Trong quá khứ, vào thời kỳ chiến tranh và trước Đổi mới, khi pháp luật về quốc tịch chưa hoàn thiện thì có nhiều người Việt Nam bị mất quốc tịch theo cách này hay cách khác và trở thành những người không quốc tịch sống ở nước ngoài. Tại miền Bắc, các trường hợp mất quốc tịch điển hình là do kết hôn với người nước ngoài mà không được sự cho phép của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Trước khi khối Đông Âu tan rã, có hàng nghìn lưu học sinh Việt Nam được gửi đi học tại các nước Xã hội chủ nghĩa và Liên Xô. Những sinh viên này chịu sự quản lý và giám sát chặt chẽ của các cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam, đặc biệt là không được phép có tình cảm và kết hôn với công dân của các nước tiếp nhận. Việc kết hôn với công dân các nước này phải được sự đồng ý bằng văn bản của Chính phủ hai nước, trên thực tế là gần như không thể. Có những trường hợp vì tình yêu và muốn tiến đến hôn nhân với người bản xứ mà các công dân Việt Nam này phải trốn đi, không có giấy tờ tùy thân và từ đó trở thành không quốc tịch. Ví dụ như bà Lệ Tân Sitek (tức Bùi Lý Lệ Tân) đã kết hôn với người chồng Ba Lan dưới danh nghĩa một người không quốc tịch, sau đó bà cũng không nhập quốc tịch Ba Lan nên đã sử dụng hộ chiếu Nansen để đi lại quốc tế. Bà đã viết lại câu chuyện cuộc đời mình (giai đoạn từ khi đi học tại Ba Lan) thành cuốn tiểu thuyết ‘’Ngã ba đường’’ (Nhà xuất bản Trẻ, 2013). Một trường hợp khác là ông Nguyễn Duy Dinh, du học sinh Liên Xô, phải bí mật trốn về quê vợ ở Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Kirghizia (nay là Cộng hòa Kyrgyzstan) và sống suốt 30 năm không quốc tịch. Tại miền Nam, chế độ Việt Nam cộng hòa thường sử dụng biện pháp không cấp hộ chiếu hoặc hủy hộ chiếu của công dân Việt Nam ở nước ngoài có hành vi hoặc thái độ không ủng hộ chế độ như một biện pháp tước quốc tịch của họ. Một ví dụ là Giáo sư Trần Văn Khê. Năm 1960, ông Khê bị sứ quán của Việt Nam cộng hòa ở Paris thu lại hộ chiếu (sổ thông hành) và không cấp mới vì ông không nhận lời làm việc cho chính quyền. Ông phải xin chính phủ Pháp cấp cho giấy thông hành thay hộ chiếu (titre de voyage) để đi các hội thảo quốc tế và trở thành một người không quốc tịch. Đến cuối năm 1962, Phạm Duy Khiêm (anh trai Phạm Duy) làm Đại sứ của Việt Nam cộng hòa tại Pháp cấp lại hộ chiếu cho ông Khê nhưng vì ông từng tham gia các hoạt động văn nghệ của khối Cộng sản nên dù có hộ chiếu nhưng vẫn không được phép hồi hương (trừ một lần năm 1974 được cấp thị thực "quá cảnh" Sài Gòn 3 tuần với sự bảo lãnh của 2 bạn học cũ là bác sĩ Nguyễn Lưu Viên và Bùi Văn Nhu). Sau khi Việt Nam cộng hòa sụp đổ, ông không nhập quốc tịch Pháp mà xin trở lại quốc tịch Việt Nam với hộ chiếu do Việt Nam Dân chủ Cộng hoà cấp năm 1975. Hay như ông Vũ Tất Thắng (Ủy viên Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Thành phố Hà Nội nhiệm kỳ 2009 - 2014) từng đi du học Nhật Bản năm 1961 và tham gia biểu tình chống chiến tranh Việt Nam tại Tokyo nên đã bị Việt Nam cộng hòa hủy hộ chiếu và trở thành người không quốc tịch. Sau khi hoàn thành chương trình học, ông đã nhập quốc tịch Nhật Bản.

Hiện nay, nếu một người không làm thủ tục xin thôi quốc tịch Việt Nam thì rất hiếm khi có trường hợp bị mất quốc tịch (ví dụ: bị tước quốc tịch), trừ khi phạm những tội liên quan đến an ninh quốc gia. Năm 2017, ông Phạm Minh Hoàng, một người có hai quốc tịch Việt Nam và Pháp, đã bị tước quốc tịch Việt Nam do có hành vi xâm hại an ninh quốc gia của Việt Nam và đã bị kết án vì hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân. Ngày 1/6/2017, Tổng lãnh sự quán Pháp tại TP Hồ Chí Minh thông báo cho ông, Chủ tịch nước Trần Đại Quang đã ký văn bản tước quốc tịch đối với ông vào hôm 17/5 .

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Luật Quốc tịch Việt Nam** là quy định pháp lý về Quốc tịch Việt Nam do Quốc hội Việt Nam thông qua. Người có quốc tịch Việt Nam là công dân Việt Nam. Quốc tịch
**Quốc hội Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam**, gọi ngắn gọn hơn là **Quốc hội Việt Nam** hay đơn giản là **Quốc hội**, là cơ quan thực hiện quyền lập pháp cao nhất
**Quốc hội Việt Nam khóa XIV** (nhiệm kỳ 2016-2021) là nhiệm kỳ thứ 14 của Quốc hội Việt Nam, được bầu vào ngày 22 tháng 5 năm 2016 với 496 đại biểu. ## Kết quả
**Bầu cử Quốc hội Việt Nam khóa XIV** diễn ra vào ngày 22 tháng 5 năm 2016 thông qua biểu quyết trước đó của Quốc hội vào ngày 24 tháng 11 năm 2015. Qua đó,
**Quốc hội Việt Nam khóa XV** (nhiệm kỳ 2021-2026) là nhiệm kỳ thứ 15 của Quốc hội Việt Nam, được bầu vào ngày 23 tháng 5 năm 2021 với 499 đại biểu. ## Kết quả
**Quốc hội Việt Nam khóa I** (nhiệm kì 1946-1960) là khóa Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhiệm kỳ hoạt động của Quốc hội khóa I kéo dài 14
**Dự án Luật Chuyển đổi giới tính** là một dự án luật trong nhiệm kỳ Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khóa XV nhằm quy định cụ thể việc chuyển
**Đại biểu Quốc hội Việt Nam** là thành viên của Quốc hội Việt Nam, được cử tri Việt Nam trực tiếp bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu
**Quốc hội Việt Nam khóa VIII** (1987-1992) là Quốc hội nhiệm kỳ thứ tám của nước Việt Nam, và là nhiệm kỳ Quốc hội thứ 3 sau thống nhất. Quốc hội khóa tám được bầu
**Bộ trưởng Bộ Quốc phòng nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam** thường gọi tắt là **Bộ trưởng Bộ Quốc phòng** là thành viên của Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ
**Bộ Quốc phòng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam**, thường được gọi ngắn gọn hơn là **Bộ Quốc phòng Việt Nam** hay đơn giản là **Bộ Quốc phòng** (**BQP**), là cơ quan
**Quốc hội Việt Nam khóa II** (nhiệm kỳ 1960–1964) là Quốc hội nhiệm kỳ thứ hai của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và là Quốc hội đầu tiên hoạt động trong thời kỳ
**Ủy ban Quốc phòng, An ninh và Đối ngoại** là cơ quan chuyên trách của Quốc hội Việt Nam, cơ quan giám sát pháp lệnh liên quan tới An ninh và Quốc phòng. Thành viên
**Quốc hội Việt Nam Cộng hòa** là cơ quan lập pháp cao nhất của chính thể Việt Nam Cộng hòa. Cơ quan này dựa trên công thức tam quyền phân lập của các nước cộng
**Bộ luật Dân sự Việt Nam** là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật Việt Nam, bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh các quan hệ tài
**Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam** (gọi rút ngắn là **Chủ tịch Quốc hội Việt Nam** hay **Chủ tịch Quốc hội**) là người đứng đầu cơ quan lập
**Lịch sử Bộ Quốc phòng Việt Nam** tính từ ngày 2 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
**Ủy ban thường vụ Quốc hội Việt Nam khóa XIV** nhiệm kì 2016-2021 được Quốc hội Việt Nam khóa XIV bầu lên trong Kỳ họp thứ nhất diễn ra từ ngày 20 đến ngày 29
Chiều ngày 17 tháng 11 năm 2020, trong phiên bế mạc kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XIV, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Nghị quyết về Ngày **bầu cử đại biểu Quốc
Ngày 22 tháng 5 năm 2011, các cử tri Việt Nam đã tham gia cuộc Bầu cử Đại biểu Quốc hội để chọn 500 đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIII từ 827 ứng
**Ủy ban Pháp luật của Quốc hội** là cơ quan cũ thảo luận, đóng góp ý kiến về các nội dung của dự thảo sửa đổi Luật, Hiến pháp, Pháp lệnh của Quốc hội. Trong
**Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội** là cơ quan đối ngoại cũ của Quốc hội với nhiệm vụ thực thi ngoại giao với Quốc hội các nước. Đồng thời là cơ quan nghiên cứu,
Quyển hộ chiếu Brazil **Luật quốc tịch Brasil** chủ yếu dựa trên hệ thống luật Jus soli. Chiếu theo luật, bất kỳ thể nhân nào sinh tại Brasil đều được hưởng đầy đủ quyền công
**Ủy ban Tư pháp của Quốc hội** ở Việt Nam là cơ quan thảo luận, đóng góp ý kiến về các nội dung dự án pháp lệnh về hình sự, tố tụng hình sự, tố
**Ủy ban Dân nguyện và Giám sát của Quốc hội** là một trong những ủy ban của Quốc hội Việt Nam, phụ trách các vấn đề về hoạt động dân nguyện và giám sát. Ủy
**Ủy ban Kinh tế của Quốc hội** là cơ quan giám sát kinh tế của Quốc hội, đồng thời thảo luận sửa đổi về các bộ Luật, Nghị quyết liên quan đến Kinh tế trước
Di tích quốc gia đặc biệt đền Hùng ở Phú Thọ Di tích văn hóa [[Miếu Bà Chúa Xứ ở An Giang]] Thánh địa [[Mỹ Sơn]] Di tích kiến trúc nghệ thuật [[nhà thờ đá
**Phó Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam** (gọi rút ngắn là **Phó Chủ tịch Quốc hội Việt Nam** hay **Phó Chủ tịch Quốc hội**) là chức vụ cao
**Cảnh sát Dã chiến Quốc gia Việt Nam Cộng hòa** (, viết tắt _CSDC_) cũng được người Pháp gọi là **Police de Campagne** và có nhiều tên gọi khác nhau là **Cảnh sát Dã chiến
**Ủy ban Tài chính - Ngân sách Quốc hội** là cơ quan giám sát về tình hình thực hiện dự toán ngân sách và một số vấn đề liên quan đến lĩnh vực tài chính
**Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Quốc hội** là cơ quan chuyên trách của Quốc hội Việt Nam, cơ quan giám sát các lĩnh vực liên quan tới khoa học, công nghệ
**Ủy ban Xã hội Quốc hội Việt Nam** là cơ quan chuyên trách của Quốc hội Việt Nam, cơ quan giám sát các lĩnh vực liên quan tới lao động, y tế, xã hội, tôn
**Quốc hội Việt Nam khóa VI** (1976-1981) là Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam thống nhất (lần đầu kể từ năm 1954) được bầu vào ngày 25 tháng 4 năm 1976 với 492
**Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng** (**TCCNQP**), cũng được biết đến dưới tên thương mại tiếng Anh là **Vietnam Defence Industry** (**VDI**; ), là cơ quan trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam thành lập
**Đội tuyển bóng đá trong nhà quốc gia Việt Nam** hay **Đội tuyển futsal quốc gia Việt Nam** đại diện Việt Nam thi đấu futsal quốc tế và do Liên đoàn Bóng đá Việt Nam
phải|nhỏ|Mặt tiền của trụ sở Ngân hàng Quốc gia Việt Nam được in trên tờ tiền giấy mệnh giá 1000 đồng phát hành năm 1971 **Ngân hàng Quốc gia Việt Nam** là ngân hàng trung
**Quốc hội Việt Nam khóa XII** (nhiệm kỳ 2007-2011) có 493 đại biểu, được bầu vào ngày 20 tháng 5 năm 2007. Kỳ họp đầu tiên được tổ chức vào 19 tháng 7 đến 5
**Ủy ban Thường vụ Quốc hội Việt Nam khóa XIII** nhiệm kì 2011-2016 được Quốc hội Việt Nam khóa XIII bầu vào kì họp thứ nhất. ## Thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội
Ngày 22 tháng 5 năm 2016, các cử tri Việt Nam tham gia cuộc bầu cử Đại biểu Quốc hội để chọn đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIV nhiệm kì 2016-2021 từ các
**Quốc hội Việt Nam khóa IV** (nhiệm kỳ 1971 - 1975) là Quốc hội nhiệm kỳ thứ tư của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Quốc hội thứ tư được bầu cử vào ngày
**Tổng Thư ký Quốc hội** là người đứng đầu Văn phòng Quốc hội Việt Nam. Theo Luật Tổ chức Quốc hội (sửa đổi năm 2014), Tổng Thư ký có trách nhiệm tham mưu, phục vụ
**Cảnh lực Quốc gia Việt Nam Cộng hòa** (Tiếng Anh: _The Republic of Vietnam National Police_ / **RVNP**, tiếng Pháp: _Police Nationale de la République du Vietnam_ / **PNRVN**) hay **Cảnh sát Quốc gia Việt
**Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực** là cơ quan trực thuộc Bộ Tư pháp có chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp thực hiện quản lý nhà nước, tổ chức thi
**Tập đoàn Công nghiệp - Năng lượng Quốc gia Việt Nam** (tiếng Anh: **Vietnam National Industry - Energy Group,** tên giao dịch: **Petrovietnam**, tên viết tắt: **PVN**), là một tập đoàn năng lượng quốc gia
**Không quốc tịch**, **vô quốc tịch** hay **không quốc gia** (tiếng Anh: _statelessness_) là tình trạng một cá nhân "không được coi là công dân của bất kỳ quốc gia nào xét về mặt luật
nhỏ|phải|Khẩu hiệu phản đối Trung Quốc ở Vũng Tàu **Các cuộc biểu tình phản đối Trung Quốc lắp đặt giàn khoan thăm dò dầu khí HD-981** đã diễn ra trong tháng 5 năm 2014 (gần
**Hội đồng bầu cử Quốc gia Việt Nam** là cơ quan có vị trí, vai trò quan trọng trong các cuộc bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp được thành lập
**Chính phủ Liên hiệp Quốc dân** được thành lập ngày 3 tháng 11 năm 1946 tại kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa I, nhằm thay thế cho Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến. Chính
**Luật Đất đai** của nước CHXHCN Việt Nam được ban hành lần đầu tiên vào năm 1987. Luật này quy định về quản lý và sử dụng đất đai. Luật đã được sửa đổi và
**Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam** (tiếng Anh: Vietnam International Arbitration Centre, viết tắt là VIAC) được thành lập vào ngày 28/04/1993 theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hoà