✨Đảo Ambon

Đảo Ambon

phải|quần đảo Maluku Ambon là một hòn đảo thuộc quần đảo Maluku tại Indonesia. Hòn đảo có diện tích , và có địa hình đồi núi, đất đai phì nhiêu và điều kiện tưới tiêu tốt. Đảo Ambon gồm có hai lãnh thổ: thành phố chính và hải cảng là Ambon (dân số năm 2009 là 284.809 người), cũng là thủ phủ của tỉnh Maluku và huyện Maluku Tengah (dân số năm 2009 là 370.931 người). Ambon có một sân bay, có đại học Pattimura và đại họ Mở (Universitas Terbuka), các đại học nhà nước, và một vài đại học tư nhân, trong đó bao gồm đại học Darussalam (Universitas Darussalam, UNDAR) và Universitas Kristen Indonesia Maluku (UKIM).

Địa lý

Đảo Ambon nằm ngoài khơi bờ biển tây nam của một hòn đảo Seram lớn hơn nhiều. Ambon nằm ở phần phía bắc của biển Banda, và là một phần của chuỗi đảo núi lửa bao quanh biển này. Đảo có chiều dài và có hình dạng rất bất thường, gần như bị chia làm hai. Phần đông nam và một phần nhỏ hơn là một bán đảo (gọi là Leitimor) liên kết với phần phía bắc (Hitoe) bằng một dải đất hẹp. Thành phố Ambon nằm ở tây bắc của Leitimor, đối diện với Hitoe, và có một bến cảng an toàn ở vịnh Amboina.

Các đỉnh núi cao nhất là Wawani và Salahutu , chúng có các suối nước nóng và cá miệng núi lửa phun khí sulfide dioxide. Đá hoa cương và đá serpentine chiếm ưu thế, song vùng bờ biển quanh vịnh Amboina có cấu tạo đá phấn, và có các hang động thạch nhũ.

Rừng mưa nhiệt đới bao phủ các khu vực hoang dã trên đảo Ambon, chúng là một phần của hệ sinh thái rừng mưa nhiệt đới Seram, cùng với đảo Seram lân cận. Seram, Ambon, và hầu hết quần đảo Maluku là một phần của Wallacea, một nhóm các hòn đảo của Indonesia tách biệt với lục địa châu Á và châu Úc bằng các vùng nước sâu, và chưa từng được kết nối bằng cầu lục địa với hai lục địa.

Do sự cô lập này, Ambon có một vài loài động vật có vú bản địa; các loài chim phong phú hơn. Tuy nhiên, hòn đảo lại có sự đa dạng về côn trùng, đặc biệt là các loài bướm. Các vỏ sò, vỏ hến thu được có số lượng lớn và đa dạng. Mai rùa cũng là một mặt hàng xuất khẩu.

Dân số trên toàn đảo (về mặt hành chính là Kota Ambon, Kecamatan Leihitu, Kecamatan Leihitu Barat, và Kecamatan Salahutu) bao gồm một hòn đảo nhỏ bé có dân cư thưa thớt ở phía bắc, là dưới 441.000 theo điều tra năm 2010.

Khí hậu

Nhiệt độ trung bình của đảo là 27 °C, hiếm khi xuống dưới 22 °C. Các cơn mưa có thể khá lớn, đặc biệt là sau các cơn gió mùa phía đông, và hòn đảo sẽ bị ảnh hưởng trước các cơn bão nhiệt đới hung dữ. Mùa khô (tháng 10 đến tháng 4) trung với thời kỳ gió mùa phía tây.

Kinh tế

Sắn và sago là các loài cây trồng chính, các cây trồng khác gồm có xa kê, mía, cà phê, ca cao, hồ tiêu và cây bông. Ngoài ra, săn bắn và đánh cá cũng bổ sung nguồn thực phẩm cho người dân địa phương. Nhục đậu khấu và đinh hương từng là các cây trồng chính phục vụ cho mục đích xuất khẩu, song nay chỉ còn lại với số lượng hạn chế. Cùi dừa khô cũng là một mặt hàng xuất khẩu. Gỗ Amboina, thu được từ cây Dáng hương mắt chim được đánh giá cao trong ngành đồ gỗ trang trí, nay chủ yếu được trồng ở Seram. Các chủ sử dụng lao động chính trên đảo Ambon là văn phòng chính quyền (PEMDA), văn phòng thị trưởng (PEMKOT), đơn vị đột kích 733 của Indonesia, và Ambon City Center (trung tâm mua sắm duy nhất của đảo Ambon). Toàn bộ kinh tế của đảo Ambon bắt đầu thay đổi từ "Old Towne" (Kota Lama) hướng về Passo, khu trung tâm thương mại mới được hoạch định của khu vực đảo. Kinh tế của đảo Island gần đây được thúc đẩy mạnh mẽ từ Ciputra Group với việc tạo ra một thành phố vệ tinh mới tại Lateri, Kotamadya Ambon, Maluku: Citraland Bay View City. Hơn nữa, trung tâm mua sắm tiêu chuẩn quốc tế mới, Ambon City Center, được Bliss Group xây dựng tại Passo.

Nhân khẩu

Người Ambon có nguồn gốc pha trộn Mã Lai-Papua. Họ hầu hết là những Ki-tô hữu hoặc tín đồ Hồi giáo. Ngôn ngữ chính của hòn đảo là tiếng Mã Lai Ambon, cũng gọi là tiếng Ambon. Ngôn ngữ này được phát triển với vị thế một ngôn ngữ giao thương ở miền trung Maluku, và được sử dụng ở những nơi khác tại Maluku như ngôn ngữ thứ hai. Một thứ tiếng thương mại bồi cổ gọi là Portugis đã biến mất. Song ngữ cùng với tiếng Indonesia có tỷ lệ cao quanh thành phố Ambon. Có những căng thẳng tôn giáo trên đảo giữa hai cộng đồng Hồi giáo và Ki-tô giáo và căng thẳng sắc tộc giữa người Ambon bản địa và người Java di cư.

Lịch sử

Thời kỳ thuộc địa

Năm 1513, người Bồ Đào Nha trở thành những người châu Âu đầu tiên đạt chân lên Ambon, và hòn đảo này trở thành một trung mới đối với các hoạt động của Bồ Đào Nha tại Maluku sau khi họ bị trục xuất khỏi Ternate. Tuy nhiên, người Bồ Đào Nha đã thường xuyên bị người Hồi giáo bản địa tấn công ở vùng bờ biển phía bắc của đảo, đặc biệt là tại Hitu, tức nơi có mối quan hệ thương mại và tôn giáo với các thành phố cảng chính ở bờ biển phía bắc đảo Java. Người Bồ Đào Nha lập một nhà xưởng vào năm 1521, song vẫn không có được sự yên ổn cho đến năm 1580. Người Bồ Đào Nha đã không bao giờ có thể kiểm soát được các giao thương về gia vị bản địa, và đã thất bại trong các nỗ lực nhằm thiết lập quyền lực trên quần đảo Banda, trung tâm của việc sản xuất nhục đậu khấu. Tuy nhiên, ngôn ngữ thương mại bồi là tiếng Portugis đã được sử dụng cho đến thế kỷ 19 và nhiều gia đình vẫn giữ tên họ Bồ Đào Nha và tuyên bố rằng mình có nguồn gốc Bồ Đào Nha như: Muskita, De Fretes.

Người Bồ Đào Nha đã bị người Hà Lan thay thế vào năm 1605, khi Steven van der Hagen chiếm được pháo đài mà không cần một phát đạn. Ambon là trụ sở của Công ty Đông Ấn Hà Lan (VOC) từ năm 1610 đến 1619 khi người Hà Lan thành lập Batavia (nay là Jakarta). Khoảng năm 1615, người Anh đã thành lập khu định cư trên đảo Cambello, song người Hà Lan đã phá hủy nó vào năm 1623. Các hành động tra tấn khủng khiếp các cư dân người Anh bất hạnh này. Năm 1654, sau các cuộc đàm phán không có kết quả, Oliver Cromwell đã bắt Liên minh các tỉnh cấp cho số tiền là 300.000 gulden, để bồi thường cho các hậu duệ của những người phải trải qua "thảm sát Ambon", cùng với sự kiện tại Manhatan. Năm 1673, nhà thơ John Dryden đã thuật lại bi kịch của ông trong Amboyna; hay những sự hung ác của người Hà Lan đối với các thương gia người Anh. Năm 1796 người Anh dưới sự chỉ huy của đô đốc Admiral Rainier đã chiếm Ambon, song đã trả lại đảo cho người Hà Lan theo thỏa thuận hòa bình ở Amiens vào năm 1802. Đảo lại về tay Anh Quốc và năm 1810, song một lần nữa lại được trả lại cho Hà Lan vào năm 1814. Ambon là trung tâm trên toàn thế giới đối ngành sản xuất đinh hương; cho đến thế kỷ 19, người Hà Lan đã ngăm cấm việc trồng các cây đinh hương trên tất cả các đảo khác nằm dưới quyền kiểm soát của mình để đảm bảo độc quyền tại Ambon.

nhỏ|upright|Dân thành thị Ambon tụ tập tại nhà thờ ở thị trấn Ambon.

Dưới thời đế quốc Hà Lan, thành phố Ambon là nơi đặt trụ sở của chỉ huy quân sự và cư dân Hà Lan tại quần đảo Maluku. Pháo đài Victoria bảo vệ cho đô thị, và Encyclopædia 1911 đã mô tả "một đô thị nhỏ sạch sẽ với các đường phố rộng, được thiết lập tốt". Dân cư được chia thành hai tầng lớp orang burger hay các công dân, và orang negri hay các dân làng, hạng công dân gồm những người có nguồn gốc bản địa được hưởng quyền ưu đãu nhất định do Công ty Đông Ấn Hà Lan trao cho tổ tiên họ. Bên cạnh người Hà Lan, đảo Ambon khi ấy còn có một số người Ả Rập, người Hoa và một vài người định cư Bồ Đào Nha.

Thành phố Ambon là một căn cứ quân sự lớn của Hà Lan, thành phố bị quân đội đế quốc Nhật Bản chiếm từ tay Đồng minh trong trận Ambon vào năm 1942 của Chiến tranh thế giới thứ II. Sau trận chiến là hành động thảm sát 300 tù binh Đồng Minh.

Xung đột sau khi độc lập

Indonesia giành được độc lập vào giai đoạn 1945–49. Do hậu quả của các xung đột sắc tộc và tôn giáo, và việc Tổng thống Sukarno biến Indonesia thành một quốc gia đơn nhất, Ambon là nơi đã diễn ra một cuộc đấu tranh chống lại chính quyền Indonesia, kết quả là cuộc nổi loạn của Cộng hòa Nam Maluku vào năm 1950.

Vào tháng 4 và tháng 5 năm 1958, trong cuộc nổi loạn Permesta ở Bắc Sulawesi, Hoa Kỳ đã ủng hộ và tiếp tế cho quân nổi loạn. Các phi công đến từ một tổ chức của CIA đặt tại Đài Loan, Công ty Không vận Dân hàng, đã lái các máy bay B-26 Invader của CIA, liên tục ném bom và bắn các mục tiêu tại Ambon. Từ ngàu 27 tháng 4 cho đến 18 tháng 5, CIA đã không kích thành phố Ambon. Đến ngày 8 tháng 5 năm 1958, phi công Allen Lawrence Pope|Allen Pope của CIA đã đánh bom căn cứ của Không quân Indonesia tại Liang ở đôgn bắc của đảo, làm hư hại đường băng và phá hủy một Consolidated PBY Catalina. Không quân Indonesian chỉ một chiến máy bay chiến đấu có thể dùng được trên đảo Ambon: một chiếc P-51 Mustang ở Liang. Cuộc không kích cuối cùng của Pope là vào ngày 18 tháng 5, khi một phi công Indonesia tại Liang, Phi trưởng Ignatius Dewanto, đã đột ngột cất cánh chiếc P-51. Pope đã tấn công thành phố Ambon trước khi Dewanto có thể bắt anh ta, song Dewanto đã chặn đứng anh ngay khi Pope đang tấn công một cặp tàu chiến trong một hạm đội Indonesia ở phía tây đảo Ambon. Chiếc B-26 đã bị bắn rơi từ hỏa lực của cả Dewanto và pháo phòng không trên tàu. Pope bị bắt, và đã phơi bày sự trợ giúp của CIA đối với cuộc nổi loạn Permesta. Bối rối, chính quyền Eisenhower nhanh chóng chấm dứt sự hỗ trợ của CIA dành cho Permesta và rút các máy bay còn lại khỏi cuộc xung đột.

Từ năm 1999 đến 2002, Ambon là trung tâm của các cuộc xung đột giáo phái khắp quần đảo Maluku.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
phải|quần đảo Maluku **Ambon** là một hòn đảo thuộc quần đảo Maluku tại Indonesia. Hòn đảo có diện tích , và có địa hình đồi núi, đất đai phì nhiêu và điều kiện tưới tiêu
**Quần đảo Maluku** (cũng gọi là **Moluccas**, **quần đảo Moluccan**, **quần đảo Gia vị** hay đơn giản là **Maluku**) là một quần đảo ở Indonesia, một phần của quần đảo Mã Lai. Nhóm đảo này
**Trận Ambon** (30 tháng 1-3 tháng 2 năm 1942) diễn ra tại đảo Ambon ở Đông Ấn Hà Lan (mà ngày nay là Indonesia), là một phần của các cuộc tiến công của Nhật Bản
thumbnail **Ambon** (tiếng Indonesia: **Kota Ambon** hay **_Ambong_** trong tiếng Ambon) là tỉnh lỵ và thành phố lớn nhất tỉnh Maluku. Thành phố nằm trên đảo Muluku Thành phố cũng có tên gọi , có
**Đảo Alor** là đảo lớn nhất trong quần đảo Alor, nằm ở rìa phía đông của nhóm các đảo gọi chung là quần đảo Nusa Tenggara (quần đảo Sunda Nhỏ) chạy dọc theo miền nam
thumb|Bản đồ Indonesia. Đây là danh sách các hòn đảo của quần đảo Indonesia. Indonesia gồm 17.508 - 18.306 hòn đảo và 8.844 đảo trong số đó đã được đặt tên theo ước tính của
nhỏ|Vị trí của quần đảo Aru so với các đảo xung quanh ở miền đông Indonesia nhỏ|Vị trí quần đảo Aru trong quần đảo Maluku **Quần đảo Aru** (), cũng gọi là quần đảo Aroe,
thumbnail thumb|Kota Saparua from Duurstede Fort **Saparua** là hòn đảo nằm ở phía đông đảo Ambon ở tỉnh Maluku, Indonesia. Đảo Haruku nằm giữa đảo Saparua và đảo Ambon. Cảng chính nằm ở phía nam
**Maluku** là một tỉnh của Indonesia bao gồm nhóm đảo phía Nam của quần đảo Maluku. Trước đây, Maluku bao gồm toàn bộ quần đảo. Nhưng từ năm 1999, nhóm đảo phía Bắc tách thành
**Nam Maluku**, tên chính thức **Cộng hòa Nam Maluku**, viết tắt theo tiếng Indonesia là **RMS** (_Republik Maluku Selatan_), là nước cộng hòa ly khai không được công nhận ở các đảo phía nam quần
**Buru** là hòn đảo lớn thứ ba trong quần đảo Maluku của Indonesia. Đảo nằm giữa biển Banda ở phía nam và biển Seram ở phía bắc, phía tây của đảo Ambon và đảo Seram.
**Seram** (trước đây viết là **Ceram**, cũng gọi là Seran hay Serang) là đảo lớn nhất của tỉnh Maluku tại Indonesia. Đảo Seram nằm ở ngay phía bắc của đảo Ambon, một hòn đảo nhỏ
Nhóm ngôn ngữ **Mã Lay-Đa Đảo Trung Tâm-Đông** (CEMP) tạo thành một nhánh được đề xuất của ngữ tộc Mã Lay-Đa Đảo bao gồm hơn 700 ngôn ngữ (R. 1993). ## Phân bố Nhóm ngôn
**_Pycnochromis amboinensis_** là một loài cá biển thuộc chi _Pycnochromis_ trong họ Cá thia. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1871. ## Từ nguyên Từ định danh _amboinensis_ được đặt theo
**_Pomacentrus amboinensis_** là một loài cá biển thuộc chi _Pomacentrus_ trong họ Cá thia. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1868. ## Từ nguyên Từ định danh trong danh pháp được
**_Lethrinus amboinensis_** là một loài cá biển thuộc chi _Lethrinus_ trong họ Cá hè. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1854. ## Từ nguyên Từ định danh _amboinensis_ được đặt theo
**_Reinwardtoena reinwardti_** là danh pháp khoa học của một loài chim thuộc họ Bồ câu (Columbidae) do nhà động vật học người Hà Lan Coenraad Jacob Temminck lần đầu mô tả vào năm 1824. Đây
**Richard Louhenapessy** (sinh ngày 20 tháng 4 năm 1955) là một cựu chính trị gia người Indonesia thuộc đảng Golkar, ông từng là thị trưởng Ambon, Maluku trong hai nhiệm kỳ từ 2011–2016 đến 2017–2022.
**Thời đại Khám phá** hay **Thời đại Thám hiểm** là cách gọi phổ thông về những khám phá địa lý của châu Âu vào khoảng thời kỳ cận đại, phần lớn trùng lặp với kỷ
**Chiến dịch Đông Ấn Hà Lan** là một chuỗi các hoạt động quân sự của Đế quốc Nhật Bản từ tháng 12 năm 1941 đến tháng 3 năm 1942 nhằm đánh chiếm Đông Ấn Hà
**_ Kinu_** (tiếng Nhật: 鬼怒) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Nagara_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Tên của nó được đặt theo sông Kinu trong tỉnh Tochigi của Nhật
**Người Buru** () là một nhóm dân tộc, chủ yếu sống tại đảo Buru của Indonesia, cũng như một số đảo khác thuộc quần đảo Maluku. Họ tự gọi mình là **Gebfuka** hay **Gebemliar**. Người
**_I-65_**, sau đổi tên thành **_I-165_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai V nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1932. Nó đã phục vụ trong
**_Tupistra_** là một chi thực vật có hoa trong họ Asparagaceae. ## Các loài Chi này chứa khoảng 20 loài thực vật có hoa ở khu vực miền nam châu Á, từ miền nam Trung
**Người Mã Lai** hay **Người Malay** (; chữ Jawi: ملايو) là một dân tộc Nam Đảo nói Tiếng Mã Lai chủ yếu sinh sống trên bán đảo Mã Lai cùng các khu vực ven biển
**Indonesia**, tên gọi chính thức là **Cộng hòa Indonesia** (tiếng Indonesia: _Republik Indonesia_), thường được gọi ngắn là **Indo**, là một đảo quốc liên lục địa, nằm giữa Đông Nam Á và Châu Đại Dương.
phải|quần đảo Maluku **Wetar** là một hòn đảo thuộc tỉnh Maluku ở phía đông của Indonesia. Đây là đảo lớn nhất của quần đảo Barat Daya (nghĩa là _quàn đảo tây nam_). Wetar nằm ở
thumb|Bản đồ chuyến hải trình của [[Willem Janszoon|Janszoon vào năm 1605–06]] Willem Janszoon từng thực hiện cuộc đổ bộ đầu tiên của người châu Âu được ghi nhận đến lục địa Úc vào năm 1606,
**_Kongō_** (tiếng Nhật: 金剛, Kim Cương) là chiếc tàu chiến-tuần dương đầu tiên của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc kiểu siêu-Dreadnought, là chiếc dẫn đầu của lớp Kongō bao gồm những chiếc _Hiei_,
nhỏ|242x242px|Sự hình thành của Majapahit cho đến khi tan rã năm 1527 **Majapahit** (tiếng Indonesia: Majapahit, âm "h" trong tiếng Java là âm câm) là một vương quốc theo đạo Hindu và đạo Phật Đại
**Darwin** (phát âm tiếng Anh: ) là thủ phủ của Lãnh thổ Bắc Úc, tọa lạc bên cạnh biển Timor, Darwin là thành phố lớn nhất tại Lãnh thổ Bắc Úc, với dân số khoảng
**Tidore** là một thành phố, đảo và nhóm đảo thuộc quần đảo Maluku ở phía đông Indonesia, ở phía tây của hòn đảo Halmahera lớn hơn. Trong thời kỳ tiền thuộc địa, vương quốc Hồi
**USS _Bull_ (DE-693/APD-78)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _Buckley_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên nó được đặt theo Thiếu úy Hải quân
**Biển Banda** là một biển ở Nam Molucca thuộc Indonesia, về mặt tự nhiên là một phần của Thái Bình Dương nhưng bị cô lập khỏi nó bằng hàng trăm hòn đảo lớn nhỏ, cũng
**_Troides oblongomaculatus_** là một loài bướm ngày được tìm thấy ở Indonesia và New Guinea. Có 7 phụ loại được công nhận, đó là: *_oblongomaculatus_ (Goeze, 1779) từ Seram, Ambon, Saparua, Haruku, Seram Laut, Geser,
phải|Bản đồ vị trí [[mảng Timor.]] **Động đất biển Banda** bao gồm các trận động đất xảy ra trên vùng biển Banda liên quan đến sự hút chìm của mảng Ấn-Úc bên dưới mảng Timor
**_Isonami_** (tiếng Nhật: 磯波) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_ bao gồm hai mươi bốn chiếc, được chế tạo sau khi Chiến tranh Thế
**Sanana** (tên ban đầu là Xulla Besi ) là một hòn đảo thuộc quần đảo Sula, một phần của quần đảo Maluku tại Indonesia. Sadana cũng là tên gọi của điểm dân cư lớn nhất
**USS _Capelin_ (SS-289)** là một tàu ngầm lớp _Balao_ và là con tàu duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo loài cá trứng. _Capelin_ chìm không rõ nguyên nhân vào tháng
Một bát mắm tôm đã vắt chanh và đánh tơi. **Mắm tôm** (tiếng Anh: **shrimp paste**) là loại mắm được làm chủ yếu từ tôm hoặc moi và muối ăn, qua quá trình lên men
**_Canthigaster amboinensis_** là một loài cá biển thuộc chi _Canthigaster_ trong họ Cá nóc. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1864. ## Từ nguyên Từ định danh được đặt theo tên
**_Chaetodon meyeri_** là một loài cá biển thuộc chi Cá bướm (phân chi _Citharoedus_) trong họ Cá bướm. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1801. ## Từ nguyên Từ định danh
**_Thorelliola_** là một chi nhện trong họ Salticidae (nhện nhảy). Chi này được đặt tên theo Tamerlan Thorell. ## Loài * _Thorelliola biapophysis_ Gardzinska & Patoleta, 1997 (đảo Ambon, quần đảo Banda) * _Thorelliola cyrano_
**Đông Ấn Hà Lan thuộc Nhật Bản** bắt đầu vào năm 1942 và kết thúc vào ngày 17 tháng 8 năm 1945 cùng với tuyên ngôn độc lập Indonesia của Sukarno và M. Hatta thay
**_Deuterocopus atrapex_** là một loài bướm đêm thuộc họ Pterophoridae. Nó được tìm thấy ở Sri Lanka, Assam, Selangor, Tenasserim, tây nam Borneo, Ternate, đảo Ambon, Batian, miền nam Sulawesi, quần đảo Sangihe, Halmahera, Neu
**Cua sỏi** (danh pháp sinh học: **_Leucosia anatum_**) là một loài cua sống ở biển thuộc họ Leucosiidae. Loài này phân bố từ Ấn Độ Dương sang tây Thái Bình Dương. ## Miêu tả Loài
**_Paracheilinus nursalim_** là một loài cá biển thuộc chi _Paracheilinus_ trong họ Cá bàng chài. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 2008. ## Từ nguyên Từ định danh được đặt theo
**_Pomacentrus cuneatus_** là một loài cá biển thuộc chi _Pomacentrus_ trong họ Cá thia. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1991. ## Từ nguyên Từ định danh _cuneatus_ trong tiếng Latinh
**_Thor amboinensis_** là một loài tôm thuộc chi _Thor_ trong họ Hippolytidae. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1888. ## Từ nguyên Từ định danh trong danh pháp được đặt theo
**Tràm lá dài** hay **tràm lá hẹp**(danh pháp hai phần: **_Melaleuca leucadendra_** L.) là cây thuộc chi Tràm (_Melaleuca_) của họ Đào kim nương (_Myrtaceae_). Loài này được Carl von Linné miêu tả khoa học