✨Quần đảo Aru

Quần đảo Aru

nhỏ|Vị trí của quần đảo Aru so với các đảo xung quanh ở miền đông Indonesia nhỏ|Vị trí quần đảo Aru trong quần đảo Maluku

Quần đảo Aru (), cũng gọi là quần đảo Aroe, là một nhóm gồm 95 hòn đảo có cao độ thấp thuộc tỉnh Maluku ở phía đông Indonesia. Chúng cũng tạo thành một huyện của tỉnh Maluku, với tổng diện tích đất liền là 6.269 km².

Địa lý

Quần đảo là cực đông của tỉnh Maluku, và nằm ở biển Arafura thuộc phía tây nam New Guinea và phía bắc Australia. Tổng diện tích của quần đảo là 8.563 km² (3.306 mi²). Hòn đảo lớn nhất là Tanahbesar (cũng gọi là Wokam); Dobo, cảng chính của quần đảo, nằm trên đảo Wamar, ngay ngoài khơi Tanahbesar. Các đảo chính khác là Kola, Kobroor, Maikoor, và Trangan. Các đảo chính nổi lên thành những ngọn đồi thấp, và tách nhau bằng các kênh uốn khúc. Về mặt địa chất, nhóm đảo là một phần của châu Úc, cùng với New Guinea, Tanimbar, Tasmania và Timor thuộc mảng Ấn-Úc.

Aru được bao phủ bởi một sự kết hợp giữ rừng lá rộng nhiệt đới ẩm, xa van, và rừng ngập mặn. Quần đảo nằm trên thềm lục địa Australia-New Guinea, và kết nối với Australia và New Guinea bằng lục địa khi mực nước biển xuống thất trong các kỷ băng hà. Các loài động thực vật tại Aru là một phần của hệ sinh thái Australasia, và có quan hệ gần gũi với New Guinea. Aru là một phần của hệ sinh thái cạn rừng mưa đất thấp Vogelkop-Aru cùng với phần lớn miền tây New Guinea,.

Là một phần trong tiến trình phi tập trung hành chính và chính trị của Indonesia sau khi Suharto bị hạ bệ năm 1998, quần đảo Aru nay là một huyện độc lập (kabupaten), trụ sở đặt tại Dobo, tách khỏi huyện Maluku.

Kinh tế

Ngành nuôi ngọc trai là một nguồn thu nhập chính của đảo. Ngành công nghiệp ngọc trai của Aru đã bị chí trích trên các phương tiện truyền thông quốc gia vì bị cáo buộc duy trì hình thức bóc lột và mối quan hệ bất bình đẳng giữa chủ tàu, thương nhân với các lao động lặn tìm ngọc trai.

Các mặt hàng xuất khẩu khác của Aru là sago, dừa, thuốc lá, xà cừ, trepang (một loài dưa chuột biển ăn được, được sấy khô và xử lý), mai rùa, và lông chim thiên đường.

Vào tháng 11 năm 2011, chính phủ Indonesia đã quyết định ký hợp đồng phân chia sản xuất dầu mỏ và khí thiên nhiên (PSC) cách khoảng 200 km về phía tây quần đảo Aru cho BP. Hai lô liền kề ngoài khơi tên là Tây Aru I và II, với diện tích 16.400 km² với vùng nước sâu từ 200 mét đến 2.500 mét. BP có kế hoạch thăm dò địa chấn ở hai lô này.

Lịch sử

Quần đảo Aru có một lịch sử lâu dài là một phần của mạng lưới giao thương rộng khắp trên khu vực mà nay là miền đông Indonesia. Thời kỳ tiền thuộc địa, Aru có mối liên hệ đặc biệt chặt chẽ với quần đảo Banda, và các thương gia Bugis và Makasar cũng đến thăm đảo thường xuyên. Quần đảo bị người Hà Lan thuộc địa hóa từ năm 1623, mặc dù vậy, ban đầu Công ty Đông Ấn Hà Lan là một trong số các tập đoàn thương mại trong khu vực và chỉ có ảnh hưởng hạn chế đối với công việc nội bộ của quần đảo.

Năm 1857, nhà tự nhiên học nổi tiếng Alfred Russel Wallace đã đến viếng thăm quần đảo. Chuyến thăm này đã khiến ông nhận ra rằng quần đảo Aru phải được kết nối bằng một cầu lục địa với đại lục New Guinea trong kỷ băng hà.

Vào thế kỷ 19, Dobo, đô thị lớn nhất của Aru, tạm thời trở thành một trung tâm thương mại quan trọng cấp vùng, là điểm gặp gỡ của các thương gia người Hà Lan, người Makassar, người Hán. Thời kỳ từ thập niên 1880 đến 1917 đã chứng kiến một phản ứng mạnh mẽ chống lại ảnh hưởng bên ngoài, khi nổ ra một phong trào tinh thần của các cư dân địa phương nhằm giải thoát đảo khỏi người ngoài.

Nhân khẩu

Theo điều tra năm 2010, tổng số cư dân của quần đảo là 83.977 người. Hầu hết các cư dân bản địa của đảo có huyết thống pha trộng giữa người Mã Lai và Papua. Mười bốn ngôn ngữ gồm: Barakai, Batuley, Dobel, Karey, Koba, Kola, Kompane, Lola, Lorang, Manombai, Mariri, Đông Tarangan, Tây Tarangan, và Ujir - là các ngôn ngữ bản địa của Aru. Chúng thuộc Nhóm ngôn ngữ Trung Mã Lai-Đa Đảo, và có quan hệ với các ngôn ngữ khác tại Maluku, Nusa Tenggara, và Timor. Tiếng Mã Lai Ambon cũng được sử dụng tại Wamar.

Cư dân quần đảo chủ yếu là các Ki-tô hữu và một thiểu số nhỏ là tín dồ Hồi giáo. Số liệu trích dẫn của Glenn Dolcemascolo vào năm 1993 cho thấy xấp xỉ 90% là tín đồ Tin Lành, 6% là tín đồ Công giáo La Mã, và 4% là tín đồ Hồi giáo. Một thống kê khác gần đây hơn, vào năm 2007, cho rằng con số 4% tín đồ Hồi giáo chỉ có thể áp dụng cho cư dân bản địa và rằng tỉ lệ người Hồi giáo có thể cao hơn đáng kể. Hồi giáo được cho là đã đến quần đảo vào cuối thế kỷ 15. Người Hà Lan đưa Ki-tô giáo đến vào thế kỷ 17 và 18 song việc cải đạo của phần lớn cư dân đã không diễn ra cho đến thế kỷ 20.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|Vị trí của quần đảo Aru so với các đảo xung quanh ở miền đông Indonesia nhỏ|Vị trí quần đảo Aru trong quần đảo Maluku **Quần đảo Aru** (), cũng gọi là quần đảo Aroe,
**Quần đảo Maluku** (cũng gọi là **Moluccas**, **quần đảo Moluccan**, **quần đảo Gia vị** hay đơn giản là **Maluku**) là một quần đảo ở Indonesia, một phần của quần đảo Mã Lai. Nhóm đảo này
nhỏ|Bản đồ thể hiện quần đảo Tanimbar với màu đỏ phải|nhỏ|Vị trí quần đảo Tanimbar trong [[quần đảo Maluku ]] **Quần đảo Tanimbar**, cũng gọi là **_Timur Laut_**, là một nhóm gồm khoảng 65 đảo
**Quần đảo Kai** (cũng gọi là **quần đảo Kei**) nằm ở phía đông nam của quần đảo Maluku thuộc tỉnh Maluku của Indonesia. Các cư dân bản địa gọi quần đảo của mình là Nuhu
Nhóm ngôn ngữ **Mã Lay-Đa Đảo Trung Tâm-Đông** (CEMP) tạo thành một nhánh được đề xuất của ngữ tộc Mã Lay-Đa Đảo bao gồm hơn 700 ngôn ngữ (R. 1993). ## Phân bố Nhóm ngôn
**_Pteropus aruensis_** là một loài động vật có vú trong họ Dơi quạ, bộ Dơi. Loài này được Peters mô tả năm 1867. Loài này được tìm thấy ở quần đảo Aru ở Indonesia. Trước
Melanesia trong khung màu hồng **Melanesia** (tiếng Việt: **Mê-la-nê-di**) là tiểu vùng của châu Đại Dương từ Tây Thái Bình Dương đến biển Arafura và đông bắc Úc. Danh từ này do Jules Dumont d'Urville
thumb|Bản đồ Indonesia. Đây là danh sách các hòn đảo của quần đảo Indonesia. Indonesia gồm 17.508 - 18.306 hòn đảo và 8.844 đảo trong số đó đã được đặt tên theo ước tính của
**Trangan** là một đảo trong quần đảo Aru trên biển Arafura. Đảo thuộc tỉnh Maluku của Indonesia. Đảo có diện tích 2.149 km2. Các đảo lớn khác trong quần đảo là Tanahbesar (còn gọi là Wokam),
**Kobroor** là một đảo thuộc quần đảo Aru trên biển Arafura. Đảo thuộc về tỉnh Maluku, Indonesia, có diện tích 1.723 km². Các đảo lớn khác trong quần đảo là Tanahbesar (còn gọi là Wokam), Kola,
**Tanahbesar** (hay **Wokam**) là một trong bốn đảo chính của quần đảo Aru trên biển Arafura. Diện tích của đảo là 1.604 km². Đảo thuộc về tỉnh Maluku, Indonesia. Các đảo chính khác của quần đảo
**Barakai** là một trong những ngôn ngữ Aru, được nói bởi người dân ở Quần đảo Aru.
**Batuley** (Gwataley) là một ngôn ngữ được nói ở Quần đảo Aru phía đông Indonesia. Ngôn ngữ này gần giống với Mariri.
là một anime truyền hình thuộc thể loại hành động, hài kịch, tâm lý, đời thường của đạo diễn . Phim do A-1 Pictures sản xuất và Aniplex đảm nhận khâu phân phối. Imigimuru chịu
phải|Bản đồ vị trí [[mảng Timor.]] **Động đất biển Banda** bao gồm các trận động đất xảy ra trên vùng biển Banda liên quan đến sự hút chìm của mảng Ấn-Úc bên dưới mảng Timor
**Sabah** () là một trong hai bang của Malaysia nằm trên đảo Borneo (cùng với Sarawak). Bang được hưởng một số quyền tự trị trong hành chính, nhập cư và tư pháp khác biệt với
**_Theridion_** là một chi nhện trong họ Theridiidae. Đây là một chi nhện phân bố ở Hà Lan. ## Các loài * _T. abruptum_ Simon, 1884 — North Africa * _T. accoense_ Levy, 1985
**_Toxidia inornatus,_** **bướm nhảy cỏ không đốm** hay **bướm nhảy inornata** là một loài bướm thuộc Họ Bướm nhảy. Chúng được tìm thấy ở Indonesia (Papua, quần đảo Aru, quần đảo Kei), New Guinea, Cape
**_Coracina caeruleogrisea_** là một loài chim trong họ Campephagidae. Nó được tìm thấy trên quần đảo Aru và New Guinea. Môi trường sống tự nhiên của nó là các khu rừng ẩm vùng đất thấp
**Bướm phi tiêu nhãn hẹp** (_Telicota mesoptis_) là một loài bướm thuộc Họ Bướm nhảy. Chúng được tìm thấy ở Úc (miền bắc Gulf và đông bắc bờ biển của Queensland), the quần đảo Aru,
**_Hasora discolor_** là một loài bướm thuộc Họ Bướm nhảy. Người ta tìm thấy nhiều phân loài ở Úc (nơi nó được tìm thấy dọc theo phía tây nam bờ biển của New South Wales
**Cá mập thảm** (_Eucrossorhinus dasypogon_) là một loài cá mập thuộc họ Orectolobidae và là loài duy nhất trong chi **_Eucrossorhinus_**. Nó cư ngụ vùng rạn san hô ven bờ ngoài khơi bắc Úc, New
**Chi Sim** hay **chi Đào kim nương** (danh pháp khoa học: **_Rhodomyrtus_**) là một chi chứa các loài cây gỗ và cây bụi thuộc họ Myrtaceae. ## Lịch sử phân loại Chi này nguyên ban
thumb|Bản đồ chuyến hải trình của [[Willem Janszoon|Janszoon vào năm 1605–06]] Willem Janszoon từng thực hiện cuộc đổ bộ đầu tiên của người châu Âu được ghi nhận đến lục địa Úc vào năm 1606,
nhỏ|phải|Khu vực Malesia **Malesia** là một khu vực sinh địa lý học nằm trong ranh giới giữa các khu vực sinh thái Indomalaya và Australasia. Malesia ban đầu được nhận dạng như là một tỉnh
**_Xylotrupes_** là một chi bọ cánh cứng, với hơn 25 loài và phân loài phân bố trên toàn thế giới, nhưng đặc biệt là ở châu Á. ## Các loài * _Xylotrupes australicus_ J. Thomson,
**_Papilio ambrax_** là một loài bướm thuộc họ Papilionidae. Nó được tìm thấy ở Queensland, quần đảo Aru, Irian Jaya và Papua New Guinea. Sải cánh dài 90–100 mm. Ấu trùng ăn các loài _Citrus_, _Clausena
**_Dascyllus aruanus_**, một số tài liệu tiếng Việt gọi là **cá thia đồng tiền sọc**, là một loài cá biển thuộc chi _Dascyllus_ trong họ Cá thia. Loài này được mô tả lần đầu tiên
**Họ Đà điểu châu Úc** (**Casuariidae**) là họ chim duy nhất của **Bộ Casuariiformes** hiện còn 4 loài còn sinh tồn: 3 loài đà điểu đầu mào, 1 loài đà điểu Emu và khoảng 4-5
**Chi Côm** (danh pháp khoa học: **_Elaeocarpus_**) là một chi gồm các loài cây thường xanh và cây bụi ở nhiệt đới và cận nhiệt đới. Có khoảng 350-485 loài (tùy hệ thống phân loại)
**Chi Rẻ quạt** (danh pháp khoa học: **_Rhipidura_**) là một chi chim trong họ Rhipiduridae. ## Các loài [[Rẻ quạt Willie (_Rhipidura leucophrys_).]] Sắp xếp các loài trong chi này về cơ bản dựa theo
**_Asota diana_** là một loài bướm đêm thuộc họ Erebidae. Nó được tìm thấy ở quần đảo Solomon và ở Indonesia. Sải cánh dài 56–59 mm. ## Phụ loài *_Asota diana diana_ (quần đảo Aru, quần
**_Pitohui uropygialis_** là một loài chim trong họ Oriolidae. Loài này được tách ra từ _Pitohui kirhocephalus_, trên cơ sở bài báo của Dumbacher _et al._ (2001). Nó được tìm thấy ở New Guinea và
**_Epinephelus multinotatus_**, thường được gọi là **cá mú đốm trắng**, là một loài cá biển thuộc chi _Epinephelus_ trong họ Cá mú. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1876. ## Phân
**Biển Banda** là một biển ở Nam Molucca thuộc Indonesia, về mặt tự nhiên là một phần của Thái Bình Dương nhưng bị cô lập khỏi nó bằng hàng trăm hòn đảo lớn nhỏ, cũng
**_Chaetodontoplus duboulayi_** là một loài cá biển thuộc chi _Chaetodontoplus_ trong họ Cá bướm gai. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1867. ## Từ nguyên Từ định danh của loài được
**_Notocrypta waigensis_** là một loài bướm ngày thuộc họ Bướm nhảy. Nó được tìm thấy ở Indonesia (Irian Jaya, quần đảo Aru, quần đảo Kei), New Guinea và Queensland. Sải cánh dài khoảng 40 mm. Ấu
**Ocybadistes ardea** là một loài bướm ngày thuộc họ Hesperiidae. Nó được tìm thấy ở Indonesia (Irian Jaya, quần đảo Aru, quần đảo Kei), Úc (Queensland) và Papua New Guinea. Sải cánh dài khoảng 20 mm.
**Sabera dobboe** là một loài bướm ngày thuộc họ Họ Bướm nhảy. Nó được tìm thấy ở Queensland, Papua New Guinea, Quần đảo Aru, Irian Jaya và Quần đảo Kei. Sải cánh dài khoảng 30 mm.
**Bọ dừa** hay **bọ cánh cứng dừa** (tên khoa học: _Brontispa longissima_) là một loài bọ cánh cứng ăn các lá non của dừa và gây hư hại đọt dừa. Nó là loài gây hại
**_Pentapodus porosus_** là một loài cá biển thuộc chi _Pentapodus_ trong họ Cá lượng. Loài cá này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1830. ## Từ nguyên Tính từ định danh _porosus_ trong
**_Deplanchea tetraphylla_** là một loài thực vật có hoa trong họ Chùm ớt. Loài này được (R.Br.) F.Muell. ex Steenis mô tả khoa học đầu tiên năm 1927. Chúng mọc tự nhiên ở New Guinea,
thumb|Thềm Sahul và [[thềm Sunda]] Về địa chất học **Thềm Sahul** là một phần của thềm lục địa của lục địa Australia, nằm ngoài khơi bờ biển phía bắc và tây bắc của lục địa
**_Banksia dentata_** là một loài thực vật có hoa trong họ Quắn hoa. Loài này được L.f. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1782. Loài cây này phân bố ở miền bắc Australia, miền
**_Mimene atropatene_**, **purple swift** là một loài bướm thuộc Họ Bướm nhảy. Chúng được tìm thấy dọc theo bờ biển đông bắc của Queensland, cũng như quần đảo Aru, Irian Jaya và Papua New Guinea.
**_Abraxas punctifera_** là một loài bướm đêm thuộc họ Geometridae. Nó được Walker miêu tả năm 1865. Nó được tìm thấy ở quần đảo Aru.
**_Sabera caesina_** là một loài bướm ngày thuộc họ Hesperiidae. Nó được tìm thấy ở Queensland, Papua New Guinea, Quần đảo Aru và Irian Jaya. Sải cánh dài khoảng 30 mm. ## Phụ loài *_Sabera caesina
**_Psilogramma papuensis_** là một loài bướm đêm thuộc họ Sphingidae. Loài này có ở Papua New Guinea và đông bắc Úc. ## Phân loài *_Psilogramma papuensis papuensis_ (Papua New Guinea và đông bắc Australia) *_Psilogramma
**_Aedes scutellaris_** là một loài muỗi được tìm thấy ở Ambon, quần đảo Aru, Seram, New Guinea. Nó là vật chủ trung gian truyền dengue virus.
**_Thyreus nitidulus_** là một loài ong ký sinh trong họ Apidae. Ban đầu được mô tả bởi nhà côn trùng học người Đan Mạch Johan Christian Fabricius năm 1804 dưới tên _Melecta nitidula_ – từ