✨Sabah

Sabah

Sabah () là một trong hai bang của Malaysia nằm trên đảo Borneo (cùng với Sarawak). Bang được hưởng một số quyền tự trị trong hành chính, nhập cư và tư pháp khác biệt với các bang tại Malaysia bán đảo. Sabah nằm tại miền bắc đảo Borneo, có biên giới với bang Sarawak về phía tây nam, và giáp với phần đảo Borneo thuộc Indonesia hay còn gọi là Kalimantan về phía nam (tỉnh Bắc Kalimantan), bị chia tách qua biển với Lãnh thổ Liên bang Labuan và Việt Nam ở phía tây và với Philippines về phía bắc và đông. Kota Kinabalu là thành phố thủ phủ và trung tâm kinh tế của bang. Các đô thị lớn khác tại Sabah là Sandakan và Tawau. Theo điều tra nhân khẩu năm 2015 tại Malaysia, dân số bang là 3.543.500.

Sabah sở hữu sự đa dạng về dân tộc, văn hóa và ngôn ngữ. Nguyên thủ của bang là thống đốc hay còn gọi là Yang di-Pertua Negeri, còn người đứng đầu chính phủ là thủ hiến (Chief Minister). Hệ thống chính phủ theo sát hệ thống nghị viện Westminster và có hệ thống cơ quan lập pháp bang vào hàng sớm nhất tại Malaysia. Bang được phân thành các tỉnh và huyện. Tiếng Mã Lai là ngôn ngữ chính thức của bang; và Hồi giáo là tôn giáo chính thức; song các tôn giáo khác có thể được hành đạo trong hòa bình và hài hòa tại bất kỳ nơi nào trong bang. Sompoton là một nhạc cụ truyền thống nổi tiếng của Sabah. Lễ hội Văn hóa Dân gian Quốc tế Sabah là sự kiện văn hóa dân gian chủ yếu tại Malaysia. Sabah là bang duy nhất tại Malaysia tổ chức lễ hội Kaamatan.

Sabah có nguồn tài nguyên phong phú, kinh tế bang có khuynh hướng xuất khẩu mạnh mẽ, chủ yếu dựa vào dầu khí, gỗ và dầu cọ. Các ngành kinh tế khác là nông nghiệp và du lịch sinh thái.

Từ nguyên

Hiện ta chưa rõ cái tên Sabah bắt nguồn từ đâu, và vì vậy cũng đang có rất nhiều suy đoán xung quanh vấn đề này. Một giả thuyết cho rằng trong thời kỳ thuộc vương quốc Brunei, lãnh thổ này được đặt là Saba theo tên của loài chuối pisang saba (còn gọi là pisang menurun) được trồng rất phổ biến tại vùng duyên hải và tại Brunei. Cộng đồng Bajau gọi loài chuối này là pisang jaba. Có lẽ do ảnh hưởng của thổ ngữ, cộng đồng địa phương đã đọc trại Saba thành Sabah. song họ không có bất kỳ tên gọi nào cho khu vực này. Phải đến tận đời Tống người Hoa mới gọi tên toàn khu đảo này là Bột Nê, và họ cũng dùng từ đó để chỉ toàn bộ vương quốc Brunei đương thời. Một thuyết khác cho rằng địa danh này bắt nguồn từ sabak tiếng Mã Lai mang nghĩa "nơi đường cọ được chiết suất".

Lịch sử

Tiền sử

thumb|left|Cổng vào Hang Madai. Con người lần đầu định cư tại khu vực từ khoảng 20.000-30.000 năm trước, được chứng minh thông qua các cuộc khai quật dọc theo khu vực Vịnh Darvel tại Hang Madai-Baturong gần sông Tingkayu, tại đó phát hiện được các công cụ bằng đá và tàn dư thực phẩm. Các cư dân sớm nhất trong khu vực được cho là tương tự thổ dân Úc, song chưa rõ nguyên nhân khiến họ biến mất. Năm 2003, các nhà khảo cổ học phát hiện các dấu tích tại thung lũng Mansuli thuộc huyện Lahad Datu, nâng lịch sử của Sabah lên đến 235.000 năm. Những người Nam Mongoloid đầu tiên di cư đến đây vào khoảng 5.000 năm trước, Một số nhà nhân loại học như S.G. Tan và Thomas R. Williams cho rằng những người Mongoloid này (hậu duệ nay là các dân tộc Kadazan-Dusun, Murut hay Orang Sungai) Những tuyên bố này được hỗ trợ nhờ các phát hiện của Charles Hose và William McDougall trong tường trình "Pagan Tribes of Borneo":

Vương quốc Brunei và Vương quốc Sulu

thumb|right|Một chiếc thuyền buồm Trung Hoa tại miền bắc Borneo tại [[Kinabatangan do Martin và Osa Johnson chụp vào năm 1935, hai vương quốc Brunei và Sulu đều có truyền thống tham gia mậu dịch với Trung Quốc và các thuyền của Trung Quốc tiếp tục đến trong thời kỳ thực dân Anh.]] Trong thế kỷ 7, một cộng đồng định cư mang tên Vijayapura, một chư hầu của Srivijaya, được cho là tồn tại ở tây bắc Borneo. Vương quốc đầu tiên bị nghi ngờ là tồn tại từ đầu thế kỷ 9 mang tên Bột Nê 勃泥 theo như ghi nhận trong "Thái bình hoàn vũ ký" thời Bắc Tống. Người ta cho rằng Bột Nê tồn tại ở cửa sông Brunei và là tiền thân của Đế quốc Brunei. Trong thế kỷ 14, Brunei trở thành một nước chư hầu của Majapahit trên đảo Java song đến năm 1370 thì chuyển lòng trung thành sang nhà Minh. Quốc vương Karna của Borneo sau đó cùng gia đình đến chầu triều Minh và mất tại Trung Quốc. Người kế vị ông ta là con trai Hiawang, người này đồng ý cống nạp cho nhà Minh ba năm một lần. Em gái của thủ lĩnh khu người Hoa là Hoàng Sâm Bình 黃森屏 kết hôn với Ahmad (người sáng lập Vương quốc Hồi giáo Brunei sau khi theo Hồi giáo). Có lẽ do các mối quan hệ này, một điểm an táng có 2.000 quan tài bằng gỗ với niên đại ước tính 1.000 năm được phát hiện trong Hang Agop Batu Tulug, cũng tại khu vực Kinabatangan. Loại hình văn hóa an táng này được cho là do các thương nhân Trung Quốc và Đông Dương đem đến miền bắc Borneo do các quan tài bằng gỗ tương tự cũng được phát hiện tại những nơi đó.

thumb|left|Quốc vương [[Omar Ali Saifuddin II tiếp phái đoàn Anh đến ký kết Hiệp ước Labuan vào ngày 18 tháng 12 năm 1846 tại cung điện của ông theo đó nhượng đảo Labuan cho Đế quốc Anh.]] Trong thời gian trị vì của vị sultan thứ 5 là Bolkiah, từ năm 1485 đến năm 1524, bá quyền hàng hải của vương quốc Brunei mở rộng đến miền bắc Borneo và Quần đảo Sulu, xa đến Kota Seludong (nay là Manila) còn ảnh hưởng vươn đến Banjarmasin, tận dụng lợi thế mậu dịch hàng hải sau khi Malacca thất thủ trước người Bồ Đào Nha. Nhiều người Mã Lai Brunei di cư đến khu vực trong thời kỳ này, song quá trình này bắt đầu ngay từ đầu thế kỷ 15 sau khi Brunei chinh phục lãnh thổ. Do lâm vào xung đột nội bộ, nội chiến, hạn hải tặc và các cường quốc phương Tây tiếp cận, Brunei bắt đầu suy thoái. Người Bồ Đào Nha là những người Âu đầu tiên đến thăm Brunei, họ mô tả thủ đô của Brunei đương thời do một bức tường đá bao quanh. Sulu giành được độc lập vào năm 1578, thành lập vương quốc hồi giáo riêng mang tên Vương quốc Hồi giáo Sulu.

thumb|right|Sultan Jamal ul-Azam là người cai trị [[Quần đảo Sulu và một bộ phận miền bắc Borneo đang tiếp phái đoàn Pháp tại cung điện của mình để thảo luận về khả năng nhượng đảo Basilan cho Đế quốc Pháp. Jamal ul-Azam cũng đàm phán với người Anh vào năm 1878 về nhượng miền bắc Borneo cho Đế quốc Anh.]] Khi nội chiến bùng phát tại Brunei giữa các sultan là Abdul Hakkul Mubin và Muhyiddin, Sulu khẳng định yêu sách của họ đối với các lãnh thổ của Brunei tại miền bắc Borneo. Sulu tuyên bố Sultan Muhyiddin đã cam kết nhượng phần phía bắc và phía đông của Borneo cho họ để đổi lấy giúp đỡ trong nội chiến. Lãnh thổ dường như chưa từng được nhượng lại trên thực tiến, song Sulu tiếp tục yêu sách lãnh thổ. Brunei đương thời không thể làm gì nhiều do họ đang bị suy yếu hơn nữa sau chiến tranh với Tây Ban Nha, khu vực miền bắc Borneo bắt đầu rơi vào phạm vi ảnh hưởng của Vương quốc Sulu. Do Sulu cũng bị uy hiếp trước việc người Tây Ban Nha đến, người ta cho rằng nhiều người trong số đó đang chạy trốn khỏi sự đàn áp của thực dân Tây Ban Nha trong khu vực của họ. Trong khi các vương quốc Brunei và Sulu lần lượt kiểm soát duyên hải phía tây và phía đông của Sabah, khu vực nội lục phần lớn độc lập với họ.

Bắc Borneo thuộc Anh

thumb|left|Trái: Hiệp ước nhượng địa đầu tiên được ký bởi Sultan [[Abdul Momin của Brunei vào ngày 29 tháng 12 năm 1877. Năm 1765, Dalrymple tìm cách giữ lại đảo bằng việc dàn xếp một hiệp ước liên minh và thương nghiệp với Sultan của Sulu. Một nhà máy nhỏ của Anh được thành lập vào năm 1773 tại đảo Balambangan nằm ngoài khơi miền bắc Borneo. Công ty chọn Kimanis (họ đổi tên thành "Ellena") và bắt đầu xây căn cứ tại đó. Các nỗ lực tìm kiếm hỗ trợ tài chính từ chính phủ Hoa Kỳ trở nên vô ích và khu định cư của họ sau đó bị bỏ hoang. Trước khi rời đi, Torrey tìm cách bán toàn bộ quyền lợi của mình cho Lãnh sự Áo tại Hồng Kông là Gustav von Overbeck. Overbeck sau đó đến Brunei và gặp Temenggong để khôi phục nhượng địa. Đến năm sau, Kudat được lập làm thủ phủ song do hải tặc thường xuyên tấn công nên thủ phủ được chuyển đến Sandakan vào năm 1883. Công ty tiếp cận mang đến nhiều thịnh vượng cho cư dân miền bắc Borneo do công ty cho phép mọi cộng đồng bản địa tiếp tục phương thức sinh hoạt truyền thống của họ, trong khi áp đặt pháp luật bằng việc cấm chỉ thi hành săn đầu người, thù hận dân tộc, mua bán nô lệ và kiểm soát nạn hải tặc. Bắc Borneo sau đó trở thành một lãnh thổ bảo hộ của Anh Quốc vào năm 1888, song diễn ra kháng cự tại địa phương từ năm 1894 đến năm 1900 dưới quyền Mat Salleh và trong năm 1915 dưới quyền Antanum. Cuộc chiếm đóng đẩy nhiều người từ các đô thị duyên hải vào khu vực nội lục để tìm thực phẩm và đào thoát hành động tàn ác của người Nhật. Người Mã Lai nhìn chung có vẻ được người Nhật chiếu cố, song một số người cũng bị đàn áp còn các dân tộc khác như người Hoa và thổ dân thì bị đàn áp ác liệt. Người Hoa đã sẵn kháng cự quân Nhật chiếm đóng đặc biệt là khi Chiến tranh Trung-Nhật diễn ra tại Trung Quốc. Họ thành lập một tổ chức kháng chiến mang tên Quân Du kích Kuching dưới quyền Quách Ích Nam 郭益南, được ủng hộ rộng rãi từ nhiều dân tộc tại miền bắc Borneo như Dusun, Murut, Suluk và Illanun. Phong trào cũng được thống đốc tương lai là Mustapha Harun ủng hộ. Quách Ích Nam và nhiều cảm tình viên khác bị quân Nhật hành quyết sau khi phong trào thất bại.

Nằm trong Chiến dịch Borneo nhằm tái chiếm đảo, Đồng Minh oanh tạc hầu hết các đô thị lớn do người Nhật kiểm soát, trong đó Sandakan bị san bằng. Tồn tại một trại tù binh chiến tranh tàn bạo mang tên trại Sandakan do quân Nhật điều hành dành cho mọi đối thủ đứng về phía người Anh. Phần lớn tù binh chiến tranh là các binh sĩ người Anh và người Úc bị bắt sau khi Malaya và Singapore thất thủ. Các tù binh phải chịu điều kiện vô nhân đạo khét tiếng, và các cuộc oanh tạc tiếp diễn của Đồng Minh khiến người Nhật buộc họ đi đến Ranau cách xa 260 km, một sự kiện mang tên Hành trình chết chóc Sandakan. Số lượng tù binh chiến tranh giảm đi 2.345, do nhiều người bị giết trên đường, chỉ còn sáu người Úc còn sống. Ngoài ra, tổng cộng 17.488 lao công người Java được người Nhật đưa đến trong thời kỳ chiếm đóng, song chỉ có 1.500 người sống sót, chủ yếu là do chết đói, điều kiện làm việc khắc nghiệt và ngược đãi.

Thuộc địa hoàng gia Anh

thumb|right|Ten bưu chính của Bắc Borneo với chân dung [[Elizabeth II|Nữ hoàng Elizabeth II vào năm 1964.]] Sau khi người Nhật đầu hàng, Bắc Borneo nằm dưới quyền cai quản của Chính phủ Quân sự Anh và đến ngày 18 tháng 7 năm 1946 thì trở thành một thuộc địa hoàng gia Anh. Thuộc địa hoàng gia Labuan cũng được hợp nhất làm bộ phận của thuộc địa mới. Trong lễ kỷ niệm, quốc kỳ Anh và quốc kỳ Trung Quốc đều được kéo lên từ tòa nhà Jesselton Survey Hall. Đến khi Philippines độc lập vào năm 1946, bảy đảo thuộc Quần đảo Turtle do Anh kiểm soát ngoài khơi Borneo được nhượng cho Philippines theo đàm phán trước đó giữa chính phủ thực dân Mỹ và Anh.

Malaysia

thumb|left|[[Fuad Stephens|Donald Stephens (trái) tuyên bố thành lập Liên bang Malaysia tại Padang Merdeka, Jesselton vào ngày 16 tháng 9 năm 1963. Bên cạnh ông là Phó Thủ tướng Malaya Abdul Razak (phải) và Mustapha Harun (phải thứ hai).]] Ngày 31 tháng 8 năm 1963, Bắc Borneo giành được quyền tự quản. Hầu hết các thủ lĩnh cộng đồng dân tộc của Sabah, gồm Mustapha Harun đại diện cho người Hồi giáo bản địa, Donald Stephens đại diện cho người bản địa phi Hồi giáo, và Khoo Siak Chew đại diện cho người Hoa cuối cũng ủng hộ liên hiệp. Sau khi thảo luận mà đỉnh điểm là Hiệp ước Malaysia và hiệp ước 20 điểm, ngày 16 tháng 9 năm 1963 Bắc Borneo (với tên Sabah) hợp nhất cùng Malaya, Sarawak và Singapore, để hình thành Liên bang Malaysia độc lập.

Từ trước khi thành lập Malaysia đến năm 1966, Indonesia thi hành một chính sách thù địch đối với Malaya được Anh hỗ trợ, và sau khi hình thành Malaysia dẫn đến đối đầu giữa hai nước. Cuộc chiến không tuyên bố này xuất phát từ điều mà Tổng thống Indonesia Sukarno nhận thức là sự bành trướng ảnh hưởng của Anh trong khu vực và ý định của ông nhằm kiểm soát toàn đảo Borneo theo quan điểm Đại Indonesia. Trong khi Tổng thống Philippines Diosdado Macapagal bắt đầu đưa ra yêu sách với Sabah từ ngày 22 tháng 6 năm 1962 trên cơ sở bối cảnh lịch sử trong quan hệ với Vương quốc Sulu. Tổng thống Philippines nhìn nhận nỗ lực hợp nhất Sabah, Sarawak và Brunei vào Liên bang Malaysia như "nỗ lực áp đặc quyền lực của Malaya lên các bang này" trong khi cho rằng Sabah là một tài sản thuộc sở hữu của Vương quốc Sulu. Cư dân Bắc Borneo yêu cầu rằng quyền tự do tôn giáo của họ phải được tôn trọng, toàn bộ đất trong lãnh thổ nằm dưới quyền chính phủ bang, các phong tục và truyền thống bản địa cần được chính phủ liên bang tôn trọng và duy trì, đổi lại người Sabah sẽ cam kết trung thành với chính phủ liên bang Malaysia. Một hòn đá tuyên thệ được chính thức khánh thành vào ngày 31 tháng 8 năm 1964 tại Keningau để kỷ niệm hiệp ước và cam kết để tham khảo trong tương lai. Trong cùng năm, thủ phủ bang đổi tên từ "Jesselton" thành "Kota Kinabalu".

Ngày 14 tháng 6 năm 1976, chính phủ bang Sabah dưới quyền Harris Salleh ký một hiệp ước với công ty dầu khí quốc doanh Petronas, theo đó cấp cho công ty quyền khai thác và giành thu nhập từ dầu mỏ phát hiện trong lãnh hải Sabah để đổi lấy 5% thu nhập hàng năm tiền thuê mỏ theo Đạo luật Phát triển Dầu mỏ 1974. Chính phủ bang Sabah nhượng Labuan cho chính phủ liên bang Malaysia, và Labuan trở thành một lãnh thổ liên bang vào ngày 16 tháng 4 năm 1984. Năm 2000, thủ phủ Kota Kinabalu được cấp vị thế thành phố, trở thành thành phố thứ sáu tại Malaysia và là thành phố đầu tiên trong bang. Trước tranh chấp lãnh thổ giữa Indonesia và Malaysia từ năm 1969 về hai đảo Ligitan và Sipadan trên Biển Celebes, Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ) ra phán quyết cuối cùng là trao hai đảo cho Malaysia vào năm 2002 dựa trên "chiếm hữu thực tế".

Chính trị

Chính phủ

thumb|right|Tòa nhà Hành chính Bang Sabah (phải), sau Wisma Innoprise (trái). Yang di-Pertua Negeri có vị thế cao nhất trong bang, tiếp đến là hội đồng lập pháp bang và nội các bang. Thủ hiến là người đứng đầu chính phủ cũng như là người lãnh đạo nội các bang. Nhà đương cục địa phương hoàn toàn do chính phủ bang bổ nhiệm do chính phủ liên bang đình chỉ các cuộc bầu cử dưới cấp bang. Pháp luật về các cuộc bầu cử cấp bang nằm trong phạm vi quyền lực của chính phủ liên bang. Bầu cử hội đồng lập pháp bang cần phải được tổ chức 5 năm một lần, nghị viên phải trên 21 tuổi và được bầu theo hình thức phổ thông đầu phiếu. Sabah được phân 25 ghế trong quốc hội liên bang, đại diện cho 25 khu vực bầu cử quốc hội. Chính phủ bang và liên bang hiện nằm trong tay Barisan Nasional (BN), một liên minh các chính đảng như Tổ chức Dân tộc Mã Lai Thống nhất (UMNO), Đảng Tiến bộ Sabah (SAPP), Đảng Liên hiệp Pasokmomogun Kadazandusun Murut (UPKO), Đảng Liên hiệp Nhân dân Sabah (PBRS), Đảng Liên hiệp Sabah (PBS), Đảng Dân chủ Tự do (LDP), và Công hội người Hoa Malaysia (MCA).

Trước khi thành lập Malaysia vào năm 1963, chính phủ lâm thời Bắc Borneo đệ trình một hiệp ước 20 điểm cho chính phủ Malaysia làm điều kiện trước khi Bắc Borneo tham gia thành lập liên bang. Sau đó, hội đồng lập pháp Bắc Borneo chấp thuận thành lập Malaysia theo điều kiện các quyền lợi của Bắc Borneo sẽ được bảo vệ. Bắc Borneo do đó gia nhập Malaysia với vị thế bang tự trị cùng các luật tự trị về kiểm soát nhập cư và quyền lợi phong tục bản địa, và lãnh thổ đổi tên thành "Sabah". Tuy nhiên, dưới quyền cai trị của Tổ chức Dân tộc Sabah Thống nhất (USNO) do Mustapha Harun lãnh đạo, quyền tự trị này dần bị xói mòn trước ảnh hưởng và quyền bá chủ của chính phủ liên bang, người Sabah phổ biến cho rằng cả USNO và UMNO đã làm việc với nhau để chứa chấp những di dân bất hợp pháp từ miền nam Philippines và Indonesia cư trú tại bang và trở thành công dân để bầu cho các đảng Hồi giáo. Điều này tiếp diễn dưới chính phủ của Mặt trận Thống nhất Nhân dân Sabah (BERJAYA) dưới quyền Harris Salleh khi tổng cộng 73.000 người tị nạn từ miền nam Philippines được đăng ký. Thêm vào đó, việc nhượng đảo Labuan cho chính phủ liên bang của chính phủ bang Sabah dưới quyền BERJAYA cùng phân chia và khai thác bất bình đẳng tài nguyên dầu mỏ của Sabah cũng trở thành tranh chấp chính trị thường nổi lên trong xã hội Sabah cho đến nay, khiến cư dân Sabah xuất hiện tình cảm chống liên bang và thậm chí là thỉnh thoảng có kêu gọi ly khai. Một đặc điểm độc đáo trên chính trường Sabah là một chính sách do Thủ tướng Malaysia đương thời là Mahathir Mohamad khởi xướng vào năm 1994 mà theo đó chức vụ thủ hiến được luân phiên giữa các đảng trong liên minh mỗi hai năm bất kể đảng nào nắm quyền, do đó theo lý thuyết thì trao thời gian bình đẳng cho mỗi dân tộc lớn cai quản bang. Tuy nhiên, trên thực tế hệ thống có vấn đề do các lãnh đạo có thời gian quá ngắn để tiến hành kế hoạch nhiệm kỳ lâu dài. Quy tắc này do đó dừng lại và quyền lực nay nằm trong tay đảng chiếm đa số trong hội đồng lập pháp bang. Can thiệp chính trị trực tiếp từ liên bang đôi khi được nhận định là một chiến thuật chính trị của chính phủ liên bang do UMNO lãnh đạo nhằm kiểm soát và quản lý quyền tự trị của các bang trên đảo Borneo. Chính phủ liên bang tuy nhiên có xu hướng nhìn nhận các hành động này là chính đáng do biểu thị chủ nghĩa địa phương trong xã hội Đông Malaysia không hài hòa với kiến thiết quốc gia. Điều này làm phức tạp quan hệ giữa liên bang-bang, trở thành một nguồn tranh luận chủ yếu trên chính trường Sabah. Vào thời thuộc Anh, một công sứ được bổ nhiệm để cai quản mỗi tỉnh và được cấp một dinh thự (Istana). Chức vụ công sứ bị bãi bỏ và thay thế bằng huyện trưởng khi Bắc Borneo trở thành bộ phận của Malaysia. Giống như phần còn lại của Malaysia, chính quyền địa phương nằm trong phạm vi quản lý của chính phủ bang.

Hành chính

An ninh

thumb|right|Một binh sĩ Malaysia đang canh phòng bờ biển phía đông Sabah. Điều thứ chín trong Hiến pháp Malaysia viết rằng chính phủ liên bang Malaysia là thể chế duy nhất chịu trách nhiệm về chính sách đối ngoại và quân sự trong nước. Trước khi thành lập Malaysia, an ninh của Bắc Borneo là trách nhiệm của Anh Quốc, Úc và New Zealand. Trước sự trỗi dậy mối đe dọa "sáp nhập" từ Philippines sau khi Tổng thống Ferdinand Marcos ký một dự luật liệt Sabah thành bộ phận của nước Cộng hòa Philippines trong đường cơ sở hàng hải của nước này vào ngày 18 tháng 9 năm 1968, người Anh phản ứng vào ngày sau đó bằng cách phái oanh tạc cơ chiến đấu Hawker Hunter của họ đến Kota Kinabalu với các máy bay dừng chân tại Căn cứ Không quân Clark không xa thủ đô Manila. Sĩ quan Anh Michael Carver nhắc nhở Philippines rằng Anh Quốc tôn trọng nghĩa vụ của mình theo Hiệp ước Phòng thủ Anh-Malaya (AMDA) nếu giao tranh bùng phát.

Khu vực miền đông Sabah đối diện với miền nam Philippines và miền bắc Indonesia được đặt dưới Bộ Tư lệnh An ninh Đông Sabah (ESSCOM) và Khu vực An ninh Đông Sabah (ESSZONE) sau khi xảy ra các cuộc xâm nhập của dân quân, di dân bất hợp pháp và buôn lậu hàng hóa và các mặt hàng trợ giá.

Tranh chấp lãnh thổ

thumb|left|Bản đồ [[Quần đảo Trường Sa bị nhiều quốc gia chiếm giữ, nằm không xa bờ biển Sabah.]]

Sabah có một số tranh chấp lãnh thổ với các quốc gia láng giềng Indonesia và Philippines. Năm 2002, Malaysia và Indonesia đệ trình lên ICJ về vấn đề tranh chấp lãnh thổ đối với các đảo Ligitan và Sipadan với kết quả thắng lợi của Malaysia. Yêu sách của Malaysia đối với một phần Quần đảo Trường Sa dựa trên việc chúng chia sẻ một thềm lục địa với Sabah.

Philippines có yêu sách lãnh thổ đối với phần lớn phần phía đông của Sabah. Yêu sách của Philippines dựa trên ba sự kiện lịch sử, như Nội chiến Brunei từ năm 1660 đến năm 1673, hiệp định giữa Đông Ấn Hà Lan và Vương quốc Bulungan năm 1850 và hiệp định giữa Sultan Jamal ul-Azam với Overbeck năm 1878.

Các nỗ lực tiếp theo của một số chính trị gia Philippines như Ferdinand Marcos nhằm "gây bất ổn" Sabah tỏ ra vô ích và dẫ đến thảm sát Jabidah tại đảo Corregidor của Philippines. Kết quả là chính phủ Malaysia từng ủng hộ nổi loạn tại miền nam Philippines. Mặc dù Philippines không theo đuổi tích cực yêu sách đối với Sabah trong một số năm, song một số chính trị gia Philippines cam kết đặt vấn đề trở lại, trong khi chính phủ Malaysia yêu cầu Philippines không đe dọa quan hệ về các vấn đề như vậy. Cảnh sát Hoàng gia Malaysia và Phó Thủ tướng Malaysia đề xuất cấm chỉ trao đổi hàng hóa giữa Malaysia và Philippines do nó chỉ có ích cho một phía và đe dọa an ninh của bang. Điều này được thi hành dù vấp phải nhiều phản đối từ cư dân Philippines trên các đảo nằm sát Sabah do làm tăng chi phí sinh hoạt tại khu vực của họ, các chính đảng đối lập tại Malaysia cũng phản đối lệnh cấm, trong khi đó các cư dân và chính trị gia Sabah hoan nghênh tích cực.

Môi trường

Địa lý

thumb|right|Sabah nằm tại miền bắc đảo Borneo, ảnh vệ tinh của [[NASA.]] Tổng diện tích đất liền của Sabah là gần , Biển Đông nằm ở phía tây, Biển Sulu nằm ở phía đông bắc và Biển Celebes nằm ở phía đông nam. Do Sabah giáp với ba biển, bang sở hữu tài nguyên hải dương phong phú. Vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của bang trên Biển Đông và Biển Celebes lớn hơn so với trên Biển Sulu. Đường bờ biển của bang bị các khu rừng ngập mặn và dừa nước bao phủ. Rừng ngập mặn chiếm khoảng 331.325 ha đất của bang và chiếm 57% tổng diện tích rừng ngập mặn toàn quốc. Khu vực mũi cực bắc của Borneo là Tanjung Simpang Mengayau có kiểu bãi biển hõm đặc trưng. Các khu vực tại bờ tây có khu đất ngập nước ngọt lớn, trong đó Bán đảo Klias có một khu vực đất ngập nước thủy triều có diện tích lớn. Phần miền tây của Sabah thường có địa hình đồi núi, có ba đỉnh cao nhất. Dãy núi chính là Dãy Crocker với một số núi có độ cao từ 1.000 mét đến 4.000 mét. Lận cận Dãy Crocker là Dãy Trus Madi có Núi Trus Madi với độ cao 2.642 mét. Đỉnh cao nhất trong bang là Núi Kinabalu có độ cao khoảng 4.095 mét. Đây là một trong các đỉnh cao nhất nằm giữa Dãy Himalaya và Đảo New Guinea. Nằm không xa Núi Kinabalu là Núi Tambuyukon có độ cao 2.579 mét.

thumb|right|Dãy Crocker là dãy núi chính tại Sabah. Cắt ngang các dãy núi đồi này là một hệ thống các thung lũng sông rộng lớn và trong hầu hết trường hợp có rừng rậm nhiệt đới bao phủ. Có các dãy đồi thấp kéo dài đến bờ biển phía tây, đồng bằng phía nam, và nội lục của Sabah. Phần miền trung và miền đông của Sabah thường có các dãy núi thấp cùng các đồng bằng và đôi khi là vùng đồi. Tại bờ biển phía đông có sông Kinabatangan, là sông dài thứ nhì tại Malaysia sau sông Rajang tại Sarawak với chiều dài 560 km. Sông bắt nguồn từ các dãy núi miền tây và uốn khúc qua khu vực trung tâm hướng về bờ biển phía đông để đổ ra Biển Sulu. Các sông lớn khác gồm Sông Kalabakan, Sông Kolopis, Sông Liwagu, Sông Padas, Sông Paitan, Sông Segama và Sông Sugut. Ngoài ra còn có các sông Babagon, Bengkoka, Kadamaian, Kalumpang, Kiulu, Mawao, Membakut, Mesapol, Nabawan, Papar, Pensiangan, Tamparuli và Wario.

Đất liền Sabah nằm trong địa lý nhiệt đới cùng khí hậu xích đạo. Bang có hai mùa gió mùa là đông bắc và tây nam. Gió mùa đông bắc xuất hiện từ tháng 11 đến tháng 3 với mưa lớn, còn gió mùa tây nam từ tháng 5 đến tháng 9 đem đến ít mưa hơn. Bão khiến cho hơn 100 người thiệt mạng, cùng 200–300 người khác mất tích và 3.000–4.000 người mất nhà ở. Sabah nằm trên Mảng Sunda song chịu sức nén từ Mảng Úc và Mảng Philippines, do vậy dễ bị động đất và bang từng chịu ba trận động đất lớn kể từ năm 1923, trong đó động đất năm 2015 là mạnh nhất. Dãy Crocker cùng với Núi Kinabalu được tạo thành trong thời kỳ Trung Tân giữa, sau khi bị Kiến tạo sơn Sabah nâng lên do sức nén.

Đa dạng sinh học

thumb|right|[[Bồng chanh tai xanh tại khu vực hạ du sông Kinabatangan, một loài đặc hữu của Borneo.]] Rừng rậm Sabah sở hữu hệ thống động thực vật đa dạng. Hầu hết sự đa dạng sinh học của Sabah nằm trong các khu vực bảo tồn rừng, vốn chiếm một nửa tổng diện tích bang là 7,34 triệu ha. Các khu bảo tồn rừng là bộ phận của 20 triệu ha rừng rừng mưa xích đạo được phân định theo sáng kiến "Heart of Borneo". Vườn quốc gia Dãy Crocker là vườn quốc gia lớn nhất trong bang, có diện tích 139.919 ha. Hầu hết khu vực vườn có rừng rậm bao phủ và có tấm quan trọng do là một khu vực chứa nước khi nước đầu nguồn của nó nối với năm sông lớn tại khu vực bờ tây. Vườn quốc gia Kinabalu được xác định là một di sản thế giới UNESCO vào năm 2000 nhờ phong phú về đa dạng thực vật cùng với các điều kiện địa chất, địa hình, và khí hậu độc đáo. Vườn có hơn 4.500 loài động thực vật, gồm có 326 loài chim và khoảng 100 loài thú cùng với hơn 110 loài ốc cạn.

thumb|left|Một đường tản bộ qua Trung tâm Phục hồi Sepilok Orang Utan. Đảo Tiga được hình thành thông qua núi lửa bùn phun trào vào năm 1897. Đảo nay là bộ phận của Vườn quốc gia Đảo Tiga cùng các đảo Kalampunian Besar và Kalampunian Damit, là một điểm đến du lịch, có sản phẩm du lịch tắm bùn. Vườn quốc gia Tunku Abdul Rahman gồm có một nhóm năm đảo Gaya, Manukan, Mamutik, Sapi và Sulug. Các đảo này được cho là từng liền với Dãy Crocker song bị tách ra khi mực nước biển dâng lên từ cuối kỷ băng hà. Vườn Hải dương Tun Mustapha là vườn hải dương lớn nhất nằm tại phía bắc của Sabah. Nó bao gồm ba đảo lớn là Banggi, Balambangan và Malawali. Vườn Hải dương Tun Sakaran nằm tại phía đông nam của Sabah. Vườn gồm có các đảo Bodgaya, Boheydulang, Sabangkat và Salakan cùng các cồn cát Maiga, Mantabuan và Sibuan. Bodgaya được công bố là một khu bảo tồn rừng, còn Boheydulang là một khu bảo tồn chim.

Vườn quốc gia Tawau Hills là một khu vực đầu nguồn nước tự nhiên. Vườn gồm các cảnh quan núi lửa gồ ghề, có một suối nước nóng và các thác nước ngoạn mục. Giáp ranh với Quần đảo Turtle của Philippines là Vườn quốc gia Quần đảo Turtle, nó gồm có ba đảo Selingaan, Bakkungan Kechil và Gulisaan và nổi tiếng do là nơi đẻ trứng của đồi mồi dứa và đồi mồi. Các khu vực hoang dã quan trọng khác tại Sabah gồm Bồn địa Maliau, Thung lũng Danum, Tabin, Hẻm núi Imbak và Sepilok. Các địa điểm này được xác định là vườn quốc gia, khu bảo tồm loài hoang dã, khu bảo tồn rừng nguyên sinh, hay khu vực bảo tồn rừng phòng hộ. Ngoài khơi bờ biển Sabah là một số đảo có nhiều rặng san hô như Ligitan, Sipadan, Selingaan, Tiga và Layang-Layang (đá Hoa Lau). Các đảo lớn khác gồm có Jambongan, Timbun Mata, Bum Bum và Sebatik. Chính phủ bang Sabah đã ban hành một số luật nhằm bảo vệ các khu rừng và các loài hoang dã gặp nguy hiểm theo Sắc lệnh Động vật năm 1962, Đạo luật Rừng năm 1968 và Đạo luật Bảo tồn Loài hoang dã năm 1997 cùng các luật khác. Theo Đạo luật Bảo tồn Loài hoang dã, bất kỳ cá nhân nào săn bắn trong đất khu bảo tồn sẽ bị tống giam đến 5 năm và bị phạt 50.000 ringgit.

Các vấn đề bảo tồn

thumb|right|Một xe tải chở gỗ tại Tawau, đốn gỗ đóng góp trên 50% thu nhập của bang. Từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, ngành gỗ bùng nỗ do nhu cầu nguyên liệu thô từ các quốc gia công nghiệp, các khu rừng của Sabah dần bị xâm hại do khai thác gỗ không kiểm soát và chuyển đổi đất rừng thành đồn điền cọ dầu. Từ năm 1970, lĩnh vực lâm sản đóng góp trên 50% thu nhập của bang, một nghiên cứu tiến hành vào năm 1997 chỉ ra rằng bang hầu như mất hết các khu rừng nguyên sinh bên ngoài các khu vực bảo tồn. Trong lúc đôi khi đối diện với nhiệm vụ khó khăn để kiểm soát các hoạt động như vậy dù có luật để ngăn chặn chúng. Hoạt động khai mỏ thải trực tiếp chất gây ô nhiễm và kim loại nặng ra sông, hồ chứa, ao và ảnh hưởng đến nước ngầm. Một báo cáo môi trường công bố vào năm 1994 tường thuật sự tồn tại của kim loại nặng tại Sông Damit/Tuaran vượt mức an toàn để sử dụng. Nước của sông Liwagu cũng được báo cáo là có kim loại nặng được cho là bắt nguồn từ Mỏ đồng Mamut. Cháy rừng cũng là một mối lo ngại do hạn hán và do các nông dân hoặc cá nhân thiếu trách nhiệm gây ra, trong vụ cháy rừng năm 2016 có hàng nghìn ha rừng bảo tồn tại Binsuluk trên bờ tây Sabah bị mất đi.

Đánh cá bằng thuốc nổ tràn lan đã hủy hoại nhiều rạn san hô và ảnh hưởng đến sản lượng thủy sản trong bang. Hơn nữa, các hoạt động khai thác cát sỏi phi pháp trên các sông Padas, Papar và Tuaran trở thành các mối lo ngại mới cùng với săn bắn và cậu trộm loài hoang dã và động vật thủy sinh. Một số loài khắc bị đe dọa tuyệt chủng là bò rừng, lợn râu, báo gấm, cá cúi, voi, cá sấu Mã Lai, đồi mồi dứa, đồi mồi, đười ươi, tê tê, khỉ vòi, cá mập sông, cá đuối ó mũi thô, Mặc dù cộng đồng bản địa cũng liên quan đến săn bắn, song họ săn dựa trên niềm tin tinh thần và thói quen và trên quy mô nhỏ, khác biệt với những người săn trộm. Các tập quản bản địa như "maganu totuo" hay "montok kosukopan", "tuwa di powigian", "managal" hay "tagal" và "meminting", đã giúp duy trì tài nguyên và ngăn chặn chúng suy giảm. Hiện tại khu vực thứ ba giữ vai trò quan trọng trong kinh tế bang, đặc biệt là du lịch và dịch vụ. Do phong phú về đa dạng sinh học, bang cung cấp loại hình du lịch sinh thái. Mặc dù trong những năm gần đây ngành công nghiệp du lịch chịu tác động từ các cuộc tấn công và bắt cóc du khách của các nhóm chiến binh có căn cứ tại miền nam Philippines, song nó vẫn ổn định cùng với việc tăng cường an ninh tại miền đông Sabah và Biển Sulu. Lĩnh vực du lịch đóng góp 10% GDP của bang và được dự đoán còn tăng lên. Đa số khách du lịch đến từ Trung Quốc, tiếp đến là Hàn Quốc, Úc, và Đài Loan. Kể từ thập niên 1950, cao su và dừa là các nguồn thu chính của nông nghiệp Bắc Borneo. Ngành gỗ bắt đầu nổi lên trong thập niên 1960 do nhu cầu cao về nguyên liệu thô từ các quốc gia công nghiệp. Tuy nhiên, nó bị ngành dầu mỏ thay thế trong thập niên 1970 sau khi phát hiện được dầu trong khu vực bờ biển phía tây Sabah. Trong cùng năm, ca cao và dầu cọ được đưa vào danh sách. Chính phủ bang Sabah tìm cách tăng ngân quỹ bang từ 6 triệu ringgit lên 12 triệu ringgit và tỷ lệ nghèo giàm suốt gần một nửa còn 33,1% vào năm 1980. GDP của bang đương thời đứng sau Selangor và Kuala Lumpur, là bang giàu thứ ba mặc dù lĩnh vực chế tạo có quy mô nhỏ. Tuy nhiên, đến năm 2000, Sabah bắt đầu trở thành bang nghèo nhất do vẫn dựa trên tài nguyên tự nhiên làm nguồn thu nhập chính của mình. Do đó Hành lang Phát triển Sabah (SDC) được Thủ tướng Abdullah Ahmad Badawi lập ra vào năm 2008 với tổng vốn đầu tư 105 tỷ ringgit trong 18 năm để tăng GDP của bang lên 63,2 tỷ ringgit vào năm 2025. Khoảng 5,83 tỷ ringgit được phân bổ mỗi năm để phát triển hạ tầng cùng với tạo ra 900.000 việc làm. Bang hiện có tám cảng, trong đó hai cảng tại Sepanggar và mỗi đô thị Kota Kinabalu, Sandakan, Tawau, Kudat, Kunak và Lahad Datu có một cảng, chúng do Cục Cảng bộ Sabah điều hành và bảo quản, thuộc sở hữu của Suria Group. Theo Kế hoạch thứ 11 của Malaysia (11MP), chính phủ liên bang phê chuẩn phân bổ 800 triệu ringgit để mở rộng xử lý hàng hóa của Cảng Container Sapangar Bay từ 500.000 lên 1,25 triệu TEU mỗi năm cũng như tiếp nhận tàu lớn như tàu cỡ Panamax. Một khoản phân bổ bổ sung 333,51 triệu ringgit được tiến hành trong cùng năm, đưa tổng kinh phí của sự án lên 1,13 tỷ ringgit và dự kiến bắt đầu vào năm 2017. Ngành ngư nghiệp vẫn là bộ phận quan trọng trong kinh tế khu vực một của Sabah, đóng góp khoảng 200.000 tấn cá trị giá 700 triệu ringgit mỗi năm cũng như đóng góp 2,8% GDP của bang.

Sabah hiện nhận được 5% tiền thuê mỏ dầu (tỷ lệ sản lượng dầu do công ty khai mỏ trả cho chủ mỏ) từ Petronas đối với dầu thăm dò tại lãnh hải của Sabah dựa trên Đạo luật Phát triển Dầu mỏ 1974. Đa số tài nguyên dầu khí nằm tại bồn Sabah Trough trên bờ biển phía tây. Sabah cũng nhận được 10% cổ phần trong cơ sở khí đốt hóa lỏng của Petronas tại Bintulu, Sarawak. Bất bình đẳng thu nhập và chi phí sinh hoạt cao vẫn là một vấn đề kinh tế lớn tại Sabah. Chi phí cao bị quy cho chính sách buôn bán duyên hải, song nguyên nhân là do khối lượng mậu dịch thấp, chi phí vận chuyển và năng lực xử lý hàng hóa tại cảng. Do đó, Thủ tướng Malaysia Najib Razak cam kết thu hẹp khoảng cách phát triển giữa Sabah và Bán đảo bằng cách cải thiện và xây thêm nhiều cơ sở hạ tầng trong bang. Dựa theo một báo cáo, tỷ lệ thất nghiệp trong bang giảm từ 5,1% (2014) xuống 4,7% (2015), song số lượng thất nghiệp vẫn ở mức cao. Khu ô chuột gần như không tồn tại ở Malaysia, tuy nhiên do lượng lớn người tị nạn đến từ miền nam Philippines nên Sabah chứng kiến gia tăng đáng kể số lượng khu ổ chuột. Nhằm giải quyết ô nhiễm nguồn nước và cải thiện vệ sinh, chính phủ bang Sabah đang làm việc để tái định cư họ đến các khu nhà ở tốt hơn. Nằm trong Khu vực Tăng trưởng Đông ASEAN (BIMP-EAGA), Sabah tiếp tục vị thế là một cửa ngõ chính của đầu tư khu vực. Đầu tư nước ngoài chủ yếu tập trung tại khu vực Khu Công nghiệp Kota Kinabalu (KKIP).

Hạ tầng

Cơ sở hạ tầng công cộng của Sabah vẫn tụt hậu do thách thức về địa lý là bang lớn thứ nhì tại Malaysia. Bộ Phát triển hạ tầng Sabah (trước đây là Bộ Truyền thông và Công trình) chịu trách nhiệm về quy hoạch và phát triển toàn bộ cơ sở hạ tầng công cộng trong bang. Nhằm thu hẹp khoảng cách phát triển, chính phủ liên bang đang cho xây dựng mới và cải thiện cơ sở hạ tầng. và bang được phân bổ thêm 4,07 tỷ ringgit từ chính phủ liên bang trong Ngân sách Malaysia năm 2015. Kể từ Kế hoạch Malasyia thứ tám (8MP) cho đến năm 2014, tổng số 11,115 tỷ ringgit được phân bổ cho các dự án hạ tầng trong bang. Theo Kế hoạch Malaysia thứ 10 (10MP), cơ sở hạ tầng tại khu vực nông thôn được quan tâm bằng việc gia tăng cung cấp nước nông thôn, cung cấp điện và đường bộ.

Năng lượng và tài nguyên nước

thumb|right|Cột điện cao áp nằm gần Nhà máy Điện Kimanis. Phân phối điện tại Sabah và Labuan do Sabah Electricity Sdn. Bhd. (SESB) vận hành và quản lý. Điện năng của Sabah hầu hết lấy từ nhà máy nhiệt điện diesel, thủy điện và nhà máy điện chu trình hỗn hợp. Nhà máy thủy điện lớn duy nhất trong bang nằm tại Đập Tenom Pangi. Nhà máy là liên doanh giữa Petronas và NRG Consortium, liên doanh cũng sở hữu các hạ tầng như đường ống dẫn khí Sabah-Sarawak và Cơ sở đầu mối Dầu khí Sabah. Năm 2009, phạm vi cung cấp điện bao phủ 67% dân số bang và đến năm 2011 thì tăng lên 80%. Lưới điện được phân thành Bờ Tây và Bờ Đông, chúng được tích hợp kể từ năm 2007. Do đó, Sabah bắt đầu tìm phương pháp khác để phát điện bằng cách sử dụng năng lượng tái tạo như mặt trời, mini hydro, sinh khối, địa nhiệt, vi tảo và thủy triều. Chính phủ Nhật Bản viện trợ cho dự án điện mặt trời trên đảo Larapan tại bờ biển phía đông Sabah vào năm 2010. Năm 2016, dự án địa nhiệt đầu tiên tại Malaysia được bắt đầu phát triển tại Tawau để gia tăng điện năng tại bờ biển phía đông sau khi một nghiên cứu của United States GeothermEx Inc. và Jacobs New Zealand biểu thị sự tồn tại của một hệ thống địa nhiệt có hiệu năng tập trung quanh sườn Núi Maria tại Apas Kiri. Công ty GS Caltex của Hàn Quốc cũng dự định xây nhà máy năng lượng sinh học butanon đầu tiên của Malaysia tại Sabah.

Toàn bộ các đường ống cung cấp nước trong bang nằm dưới quyền điều hành của Cục Nước Sabah thuộc Bộ Phát triển Hạ tầng Sabah. Cục điều hành 73 nhà máy xử lý nước, trung bình 1,19 tỷ lít nước được phân phối mỗi ngày để đáp ứng nhu cầu của cư dân Sabah. Phạm vi cung cấp nước đạt 100% tại các đô thị lớn còn tại các khu vực nông thôn, phạm vi chỉ khoảng 75% với tổng chiều dài đường ống công cộng lên tới 15.031 km. Nhằm đáp ứng nhu cầu gia tăng, Đập Kaiduan được đề xuất xây dựng song bị các dân làng vùng dự án phản đối. Sabah có nhu cầu khí đốt tự nhiên 350 mmscfd vào năm 2013, tăng lên 523 mmscfd vào năm 2015. Khí dầu mỏ hóa lỏng của Malaysia rẻ hơn nhiều do được chính phủ liên bang trợ giá, người ta phát hiện vào năm 2015 rằng khoảng 20.000 xylanh khí tại bờ đông của Sabah bị buôn lậu sang Indonesia và miền nam Philippines khiến cho nhiều người Sabah khó có đủ nguồn cung khí. Nhằm đối phó, Bộ Nội thương, Hợp tác xã và Bảo vệ người Tiêu dùng Malaysia đã đình chỉ tạm thời toàn bộ giấy phép bán xylanh khí đến các quốc gia láng giềng.

Viễn thông và truyền thông

thumb|right|Tháp viễn thông trên đỉnh Núi Silam đối diện Vịnh Darvel tại Lahad Datu. Viễn thông tại Sabah và Sarawak ban đầu do Cục Bưu chính Viễn thông quản lý cho đến năm 1967, và do Cable & Wireless Communications của Anh bảo trì cho đến khi toàn bộ được chuyển giao cho công ty có trụ sở tại Malaysia Bán đảo. Công ty viễn thông Anh đã lập một tuyến cáp ngầm nối Kota Kinabalu với Singapore và Hồng Kông. Đến cuối năm 2014, chỉ có 934 hotspot viễn thông tại Sabah. Do đó, chính phủ hành động nhằm tăng thâm nhập và năng lực kết nối internet cung như để khắc phục khoảng cách giữa Sabah và Bán đảo. Viễn thông di động tại Sabah chủ yếu sử dụng 4G và 3G và có dịch vụ Wi-Fi nông thôn miễn phí do chính phủ liên bang cung cấp mang tên Kampung Tanpa Wayar 1Malaysia (KTW) song tốc độ internet công cộng của Malaysia thấp hơn nhiều quốc gia khác.

Lưu lượng internet của bang hiện tại được định tuyến thông qua một hub tại thủ đô Kuala Lumpur, truyền qua một cáp ngầm nối Bán đảo với Kota Kinabalu. Hệ thống được xem là tốn kém và không hiệu quả đặc biệt là do giá thuê băng thông với khoảng cách lớn. Theo Dự án Hệ thống Cáp 1Malaysia (SKR1M), một tuyến cáp ngầm mới cho internet tốc độ cao được xây dựng từ Kota Kinabalu đến Pahang tại Bán đảo, hoàn thành vào năm 2017. Hệ thống cáp ngầm 1Malaysia cũng sẽ liên kết thủ phủ bang với Miri, Bintulu và Kuching tại Sarawak cùng với Mersing tại Johor, sẽ tăng tốc độ băng thông lên đến 12 terabyte mỗi giây. Tuyến cáp ngầm khác là Dự án Cáp ngầm và cạn BIMP-EAGA (BEST) được xây dựng từ Kota Kinabalu đến Tawau để liên kết Sabah với Brunei, Kalimantan và Mindanao, hoàn thành vào năm 2018. Đầu năm 2016, chính phủ bang và công ty Huawei ký một thỏa thuận để đưa Sabah trở thành trung tâm công nghệ thông tin và viễn thông bằng cách tận dụng chuyên môn ICT của Huawei. Có thêm nhiều điểm Wi-Fi tốc độ cao được quy hoạch tại Sabah, đặc biệt là cho thủ phủ.

Chính phủ liên bang Malaysia điều hành một kênh truyền hình là TVi và hai kênh phát thanh cho Sabah, mang tên Sabah FM và Sabah vFM cùng các kênh phát thanh cấp huyện như Sandakan FM, Tawau FM và Keningau FM. Các kênh phát thanh khác như KK FM nằm dưới quyền điều hành của Đại học Malaysia Sabah, còn Bayu FM chỉ hiện diện trên truyền hình vệ tinh Astro. Một đài phát thanh độc lập mang tên Kupi-Kupi FM được lên sóng vào năm 2016. Các đài phát thanh có căn cứ tại Bán đảo cũng đặt văn phòng của họ tại bang để khai thác thị trường mới nổi. Các DJ người Sabah chủ yếu được thuê và các bài hát địa phương của bang sẽ được phát để đáp ứng thị hiếu của thính giả. Truyền hình phát sóng tại bang được phân thành truyền hình mặt đất và vệ tinh. Do Malaysia đặt mục tiêu chuyển đổi truyền hình số, toàn bộ tín hiệu analogue sẽ ngưng lại. Có hai loại nhà cung cấp truyền hình trả phí như MYTV Broadcasting (số mặt đất) và Astro NJOI (vệ tinh). Tờ báo đầu tiên được lập ra tại Sabah là Sabah Times (đổi tên thành New Sabah Times), do người sau này trở thành thủ hiến đầu tiên của bang thành lập nên. Các báo lớn khác gồm có Daily Express, Hoa kiều nhật báo, The Borneo Post có trụ sở tại Sarawak, Tinh Châu nhật báo có trụ sử tại Bán đảo và Borneo Bulletin có trụ sở tại Brunei.

Giao thông

thumb|left|Xa lộ tám làn tại thủ phủ Kota Kinabalu, thuộc Xa lộ Liên Borneo. Sabah có hệ thống đường bộ dài tổng cộng vào năm 2016, trong đó là đường được xử lý bề mặt. Trước khi thành lập Malaysia, Sabah cùng với Sarawak chỉ có hệ thống đường bộ thô sơ. Hầu hết các đường trục được xây dựng từ thập niên 1970 cho đến thập niên 1980 bằng tiền vay của Ngân hàng Thế giới. Năm 2005, 61% đường bộ trong bang vẫn là đường rải sỏi hoặc chưa được lát, có đường liên bang và đường cấp bang, trong đó được xử lý kín bề mặt trong khi còn lại được rải sỏi hoặc chưa được lát. Đầu năm 2016, dự án mở rộng Xa lộ Liên Borneo được tiến hành để nâng số làn từ hai lên bốn, trong khi xa lộ thành phố được nâng số làn từ bốn lên tám, cũng như xây dựng các tuyến đường mới để liên kết Sabah với Sarawak, Brunei và Xa lộ Liên Kalimantan tại Indonesia. Dự án được chia thành hai gói, gói Bờ Tây sẽ hoàn thành vào năm 2021, còn gói Bờ Đông sẽ hoàn thành vào năm 2022. Toàn bộ đường cấp bang do Cục Công trình Công cộng của bang bảo quản, trong khi đường cấp liên bang do Cục Công trình Công cộng quốc gia bảo quản.

Sabah sử dụng đường làn kép và theo quy tắc giao thông bên trái. Một tuyến đường sắt do Sabah State Railway vận hành cung cấp dịch vụ hàng ngày cho những người đi làm, lữ khách, cũng như vận chuyển hàng hóa. Một công ty tư nhân do Sutera Harbour sở hữu mang tên North Borneo Railway vận hành các chuyến di thư giãn cho du khách. Ga xe lửa và cơ sở đầu cuối nằm tại Tanjung Aru, không xa sân bay thành phố. Các ga lớn khác gồm có Papar, Beaufort, Halogilat và Tenom. Dự án Aeropod tại ga lớn Tanjung Aru sẽ hiện đại hóa ga và cung cấp tiền đề cho đường sắt nhẹ trong tương lai. Sân bay quốc tế Kota Kinabalu là cửa ngõ chính đến Sabah. Các sân bay nhỏ hơn gồm có Sân bay Kudat, Sân bay Lahad Datu, Sân bay Sandakan và Sân bay Tawau. Sân bay Layang-Layang trên đá Hoa Lau tại Trường San đóng vai trò là một sân bay quân sự và dân sự. Ba hãng hàng không phục vụ các tuyến bay tại Sabah: Malaysia Airlines, AirAsia, và Malindo Air. Sabah Air là một công ty hàng không thuê bao trực thăng, thuộc sở hữu của chính phủ bang Sabah, phục vụ các chuyến bay ngắm cảnh cho khách hàng cũng như vận chuyển các quan chức chính phủ bang.

Sabah có tổng cộng tám cảng hoạt động tại Sepanggar, Kota Kinabalu, Sandakan, Tawau, Kudat, Kunak và Lahad Datu. Tại Bờ Đông, có dịch vụ phà từ Tawau đến Nunukan và Tarakan tại Kalimantan, Indonesia. Cũng có dịch vụ phà từ Sandakan đến Zamboanga và từ Kudat đến Buliluyan, Bataraza của Palawan tại Philippines, song hai dịch vụ này bị đình chỉ vì lý do an ninh.

Y tế

thumb|left|Bệnh viện Queen Elizabeth là một bệnh viện lớn tại Sabah. Sabah có bốn bệnh viện công lớn: Bệnh viện Queen Elizabeth, Bệnh viện Queen Elizabeth Hospital II, Bệnh viện Duchess of Kent và Bệnh viện Tawau cùng với 13 bệnh viện cấp huyện, các bệnh viện phụ khoa và nhi khoa, bệnh viện tâm thần, phòng khám công cộng, phòng khám 1Malaysia và các phòng khám nông thôn. Ngoài các bệnh viện và phòng khám công, còn có một số bệnh viện tư nhân như Gleneagles Kota Kinabalu, Bệnh viện chuyên khoa KPJ, Trung tâm chuyên khoa Damai (DSC), Trung tâm chuyên khoa Rafflesia (RSC) và Trung tâm Y khoa Jesselton (JMC). Ngoài ra, còn có một cơ sở điều trị nghiện mang tên Solace Sabah tại thủ phủ bang để chữa trị các vấn đề liên quan đến nghiện rượu và ma túy.

Năm 2011, tỷ lệ bác sĩ-bệnh nhân trong bang là 1:2.480 – thấp hơn mức khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) là 1 bác sĩ trên 600 bệnh nhân. Do khối lượng công việc nặng và thiếu quan tâm từ những cử nhân trẻ tuổi, Sabah đối diện với thiếu hụt bác sĩ. Nhiều bác sĩ từng phục vụ trong các bệnh viện công đã quyết định chuyển sang bệnh viện tư nhân do công việc nặng nhọc mà chỉ nhận được lương thấp song các bệnh viện tư nhân không dễ dàng tuyển dụng họ.

Giáo dục

thumb|right|Tòa nhà hiệu bộ của Đại học Malaysia Sabah (UMS). Toàn bộ các trường tiểu học và trung học trong bang thuộc phạm vi quyền hạn và giám sát của Cục Giáo dục Bang Sabah, theo chỉ đạo của Bộ Giáo dục Malaysia. Các trường học lâu năm nhất tại Sabah là Trường St. Michael Sandakan (1886), Trường St. Michael Penampang (1888), Trường All Saints, Likas (1903) và Trường St. Patrick Tawau (1917). Dựa theo thống kê năm 2013, Sabah có tổng cộng 207 trường trung học công lập, 5 trường quốc tế (gồm Trường Quốc tế Charis, Trường Quốc tế Kinabalu, Trường Quốc tế Sayfol, cùng Trường Indonesia tại Kota Kinabalu và Trường Nhật Bản tại Kota Kinabalu). và 9 trường độc lập Hoa ngữ. Một lượng đán kể học sinh bản địa theo học tại các trường Hoa ngữ tại Sabah.

Chính phủ bang Sabah cũng nhấn mạnh giáo dục mầm non trong bang, được tiếp sức từ viện trợ của Quỹ Sabah Foundation (Yayasan Sabah) và Nestlé giúp lập các trường mầm non trong bang. Sabah có hai đại học công lập: Đại học Malaysia Sabah (UMS) và Đại học Công nghệ MARA (UiTM). Đại học Tun Abdul Razak (UNIRAZAK) lập trung tâm khu vực của họ tại Kota Kinabalu. Tính đến năm 2016, có khoảng 15 trường cao đẳng tư nhân, hai cao đẳng đại học cùng các trường khác mới thành lập. Năm 1960, tỷ lệ biết chữ tổng thể tại Bắc Borneo là 24%. Nghiên cứu vào năm 2011 cho thấy tỷ lệ này tăng lên 79%. Hầu hết các học sinh trung học không tiếp tục học tập sau khi hoàn thành kỳ thi tốt nghiệp Sijil Pelajaran Malaysia (SPM) chủ yếu do nguyên nhân tài chính cũng như do thiếu quan tâm và tự tin để tiếp tục học cao hơn, một nghiên cứu vào năm 2015 cho thấy chỉ có 16.000 trong số hơn 36.000 học sinh tốt nghiệp phổ thông tiếp tục học tập.

Đầu năm 2016, Sabah có tổng số 42.047 giáo viên giảng dạy trong các trường mầm non, tiểu học và trung học. Sau khi phân quyền từ chính phủ liên bang sang chính phủ bang cũng như cải thiện giáo dục trong bang, xuất hiện mục tiêu đạt 9% giáo viên là người Sabah. Thư viện Bang Sabah là thư viện công cộng chính trong bang. Còn có 11 trường học Indonesia khác (ngoài trường Indonesia chính tại thủ phủ) trên khắp Sabah chủ yếu dành cho trẻ em di dân Indonesia cư trú tại bang. Từ năm 2014, trẻ nhập cư người Philippines cũng theo học tại Trung tâm Học tập Thay thế (ALC) do các tình nguyện viên Philipines tại Sabah thành lập với sự cộng tác của nhiều tổ chức phi chính phủ địa phương.

Nhân khẩu

thumb|left|Một số dân tộc tại Sabah. Theo điều tra nhân khẩu năm 2015 tại Malaysia, dân số Sabah là 3.543.500, là bang dông dân thứ ba tại Malaysia và có 870.400 cư dân không phải là công dân. và Sabah cùng bang láng giềng Sarawak có số lượng ngoại kiều tương đương. Đến năm 1980, dân số bang tăng đột biến lên trên 1.011.000 sau khi dòng người tị nạn tràn đến nhằm tránh xung đột tại miền nam Philippines. Đồng thời kỳ, kinh tế Sabah bùng nổ trong khu vực sơ khai nên thu hút lượng lớn công nhân hợp pháp đến từ Indonesia và Philippines. Dân số bang tăng lên 1.863.600 vào năm 1991, và đến năm 2010 đạt 3.117.405. Sabah có 900.000 công nhân di cư có đăng ký, làm việc trong các lĩnh vực nông nghiệp, đồn điền, dịch vụ và nội trợ. Trong khi tổng số di dân bất hợp pháp (bao gồm người tị nạn) được dự đoán là trên một triệu do quy tắc tranh cãi trong quá khứ vì lý do chính trị, Sabah cũng có lượng ngoại kiều tăng mạnh, hầu hết họ đến từ Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Úc và Châu Âu.

Có ước tính rằng Sabah có 42 dân tộc và trên 200 phân nhóm dân tộc cùng ngôn ngữ, văn hóa và đức tin riêng, dự kiến con số này tăng thêm trong tương lai do hôn nhân dị chủng và nhập cư mới. Bumiputera (con của đất) chỉ người Mã Lai và các dân tộc bản địa khác tại Malaysia Bán đảo, Sarawak và Sabah. Nhóm này thường được hưởng các đặc quyền trong giáo dục, công việc, tài chính và chính trị. Orang Asal chỉ toàn bộ các dân tộc bản địa tại Malaysia ngoại trừ người Mã Lai.

Dân tộc

Ba dân tộc lớn nhất tại Sabah là Kadazan-Dusun, Bajau và Murut; tiếp đến là người Mã Lai Brunei, Suluk và các dân tộc bản địa khác, còn người Hoa là nhóm phi bản địa chủ yếu:

Kadazan-Dusun là nhóm bản địa lớn nhất tại Sabah, gồm pha trộn của hai nhóm với 40 phân nhóm. Mặc dù thuật ngữ chủ yếu được dùng để thống nhất hai nhóm, song nó cũng gồm các phân nhóm khác là Murut, Orang Sungai, Rungus và Tidong. Ngày nay, người Kadazan chủ yếu cư trú tại khu vực đô thị, còn người Dusun thường cư trú tại vùng đồi và thung lũng thượng du. Họ từng được biết đến vì tục săn đầu người cũng như nghề nghiệp là nông dân, săn bắt, đánh cá trên sông. còn người Dusun sống trong một nhà truyền thống đơn lẻ song một số cũng sống trong một nhà dài. Do hai nhóm có truyền thống làm nông dân trồng lúa, họ tổ chức lễ hội thu hoạch thường niên mang tên Kaamatan. Cộng đồng Kadazan-Dusun có đức tin là tổ tiên họ đến từ Nunuk Ragang (một cây đa đỏ). Nằm không xa cây là hai sông Liwagu và Gelibang, trở thành tuyến đường cộng đồng họ phát triển ra toàn bộ các khu vực nội lục tại Sabah.

Nhóm bản địa lớn thứ nhì là người Bajau, người Bajau tại Sabah được phân thành hai nhóm chính là Bờ Tây và Bờ Đông. Họ hầu hết định cư tại khu vực từ Kota Belud, Kota Kinabalu, Tuaran và Papar. Trong khi người Bajau Bờ Đông chủ yếu dành thời gian sống trên biển, có lễ hội "regatta lepa" thường niên và định cư quanh khu vực Semporna, Lahad Datu và Kunak. Người Bajau Bờ Tây từng là nhóm người đi biển, họ bắt đầu học trồng trọt và chăn nuôi sau khi di cư từ quần đảo Philippines một thời gian dài trước đây.

Người Murut là nhóm bản địa lớn thứ ba tại Sabah, cư trú tại khu vực quanh Keningau, Tenom, Nabawan, Pensiangan và dọc các khu vực sông Sapulut, Padas và Kinabatangan. Người Murut có kiến thức lớn về thảo dược, mỗi cộng đồng của họ có một thầy thuốc thảo dược có thể chữa các bệnh như tiêu chảy, tiểu đường và cao huyết áp.

Người Mã Lai truyền thống trong bang là người Mã Lai Brunei, hầu hết cư trú tại khu vực duyên hải tây nam. Họ hầu hết cư trú tại Beaufort, Sipitang, Kuala Penyu và Papar. Quá trình di cư của họ đến miền bắc Borneo đáng kể trong thời gian trị vì của Vương quốc Brunei.

Người Suluk cư trú quanh bờ đông của Sabah, chủ yếu tại Sandakan, Semporna và Lahad Datu. Họ bắt đầu định cư tại khu vực sau khi di cư khỏi Quần đảo Sulu thời Vương quốc Sulu, cùng với người Bajau và Illanun. Nhiều người trong số họ bấy giờ được cho là tránh nạn mua bán nô lệ tại Quần đảo Sulu, người Tây Ban Nha đàn áp, Người Suluk bản địa khác biệt với các di dân Tausūg mới đến từ Philippines do họ đón nhận chủ nghĩa đa văn hóa tại miền bắc Borneo và hầu hết các lãnh đạo cộng đồng của họ thích các nhà nghiên cứu không đưa họ vào chung vị thế của người Tausūg Philippines.

Người Hoa là nhóm phi bản địa lớn nhất, nhiều người trong số họ đến thậm chí trước khi người Anh đến miền bắc Borneo, theo như tường thuật của các vương quốc Brunei và Sulu. Người Hoa tại Sabah có thể được phân thành ba nhóm lớn là Khách Gia, Quảng Đông và Mân Nam. Nhóm Khách Gia chiếm đa số trong số người Hoa tại Sabah, Ngoài ra, còn có một cộng đồng người miền bắc Trung Quốc tại Sabah, hầu hết họ tự nhận là người Thiên Tân. Toàn bộ cộng đồng người Hoa thống nhất dưới Tổng thương hội Trung Hoa Sabah (SUCC), một tổ chức xúc tiến đoàn kết dân tộc và tiếp tục đóng góp cho kinh tế bang.

Tôn giáo

Trước khi Hồi giáo và Cơ Đốc giáo được truyền đến, cư dân bản địa tại Bắc Borneo chủ yếu tin theo thuyết vật linh và dị giáo. Hồi giáo truyền đến vào thế kỷ 10 tại bờ tây của Borneo sau khi quân chủ Brunei cải sang Hồi giáo. Ngoài ra, Hồi giáo truyền bá từ Sulu và Sulawesi đến các khu vực duyên hải của miền đông Borneo. Còn Phật giáo, Đạo giáo và các tôn giáo dân gian Trung Hoa khác cũng như Ấn Độ giáo và Sikh giáo đến cùng với các di dân người Hoa và người Ấn tới miền bắc Borneo. Người ta cho rằng điều này xảy ra khi yêu cầu của cư dân bản địa không được bản vệ khi hiến pháp bị sửa đổi. Trong khi tỷ lệ của người theo thuyết vật linh và dị giáo giảm đáng kể so với trước khi có biến đổi nhân khẩu học có động cơ chính trị tranh cãi. Do đó, ảnh hưởng của các đoàn truyền giáo Cơ Đốc giáo và Hồi giáo đã thay đổi lớn đức tin tôn giáo của cư dân Sabah.

Vấn đề cải đạo hàng loạt

Từ thời thuộc địa, các nhóm Cơ Đốc giáo từ Phương Tây tích cực cải đạo người bản địa theo thuyết vật linh tại Bắc Borneo. Tuy nhiên, khi Sabah nằm dưới quyền cai quản của Mustapha Harun, các nhóm Cơ Đốc sau đó liên quan đến một tranh chấp với Mustapha về cáo buộc kỳ thị, thiên vị và bất công đối với họ. Dưới quyền chính đảng USNO của Mustapha, Hồi giáo hóa quy mô lớn được tiến hành bởi Hiệp hội Hồi giáo Thống nhất Sabah. Tổ chức này đương thời trục xuất mội số nhà truyền đạo Cơ Đốc, cải đạo chính trị gia tinh hoa và tiến hành cải đạo hàng loạt các dân làng theo thuyết vật linh cũng như một số thế hệ người Hoa cao tuổi để đổi lấy quyền công dân. Tiếp theo là

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Sabah** () là một trong hai bang của Malaysia nằm trên đảo Borneo (cùng với Sarawak). Bang được hưởng một số quyền tự trị trong hành chính, nhập cư và tư pháp khác biệt với
**Mishal Al-Ahmad Al-Jaber Al-Sabah** (; sinh ngày 27 tháng 9 năm 1940) là Emir Kuwait. Mishal dành phần lớn sự nghiệp trong bộ máy an ninh và tình báo của Kuwait. Trước khi lên ngôi
Sheikh ** Mubarak bin Sabah Al-Sabah**, KCSI, KCIE (1837 - 1915), còn có danh hiệu là "Vĩ đại" vua nước Kuwait từ 1896 tới năm 1915. Mubarak Al-Sabah ra đời năm 1837, con của Sabah
**Các cuộc tấn công Malaysia của Moro** là loạt các cuộc tấn công của người Moro (Hồi giáo) từ miền nam Philippines di chuyển vào miền đông Malaysia từ thời thực dân Anh đến nay.
**Sabah Tanah Airku** (tiếng Việt: Sabah, quê hương tôi) là bang ca của Sabah, Malaysia. Bài hát này được sáng tác bởi H.B. Hermann và đã giành chiến thắng trong một cuộc thi để chọn
Sheikh **Jaber Al-Mubarak Al-Hamad Al-Sabah** (, , sinh ngày 4 tháng 1 năm 1942) là chính chị gia Kuwait, giữ chức Thủ tướng Kuwait từ năm 2011. Trước đó, ông từng là Bộ trưởng Bộ
**Sabah IV Ahmad Al-Jaber Al-Sabah** (tiếng Ả rập: الشيخ صباح الأحمد الجابر الصباح sinh ngày 16 tháng 6 năm 1929 tại Kuwait - mất ngày 29 tháng 9 năm 2020 tại Hoa Kỳ) là Tiểu
**Nawaf Al-Ahmad Al-Jaber Al-Sabah** ( _Nawwāf al-ʾAḥmad al-Jābir aṣ-Ṣabāḥ_; 25 tháng 6 năm 193716 tháng 12 năm 2023) là Tiểu vương Kuwait và Tư lệnh Lực lượng Quân sự Kuwait. Vào ngày 30 tháng 9
**Ali Sabah Adday Al-Qaysi** (sinh ngày 1 tháng 1 năm 1977) là trọng tài bóng đá người Iraq, được FIFA công nhận. Sabah làm trọng tài FIFA từ năm 2002, từng bắt vòng loại FIFA
**_Philoponella sabah_** là một loài nhện trong họ Uloboridae. Loài này thuộc chi _Philoponella_. _Philoponella sabah_ được Hajime Yoshida miêu tả năm 1992.
**_Madrasostes sabah_** là một loài bọ cánh cứng trong họ Hybosoridae. Loài này được Paulian miêu tả khoa học năm 1989.
**_Eusphaeropeltis sabah_** là một loài bọ cánh cứng trong họ Hybosoridae. Loài này được Paulian miêu tả khoa học năm 1989.
**Oued Sabah** là một đô thị thuộc tỉnh Aïn Témouchent, Algérie. Dân số thời điểm năm 2002 là 9.478 người.
**Huyện Sabah** là một huyện thuộc tỉnh Al Bayda', Yemen. Đến thời điểm năm 2003, huyện này có dân số 27472 người
**_Belisana sabah_** là một loài nhện trong họ Pholcidae. Loài này có ở Borneo.
**Kota Kinabalu** (đọc là [ˈkota kinaˈbalu]), trước đây mang tên **Jesselton**, là thủ phủ của bang Sabah, Malaysia và cũng là thủ phủ của Phân khu Bờ Tây thuộc bang này. Thành phố có diện
|- !bgcolor="#4682B4" colspan="4"|Statistics (2005)[http://www.malaysiaairports.com.my/index.php?ch=17&pg=55&ac=173] |- ! colspan="3"|Số lượng khách |3.970.000 |- ! colspan="3"|Số lượng chuyến |49.680 |- **Sân bay quốc tế Kota Kinabalu** (KKIA) cách thành phố Kota Kinabalu, thủ phủ của
**Sân bay Tawau** , tọa lạc tại Tawau, là sân bay thứ 3 ở Sabah với các quầy phục vụ cho các chuyến bay quốc tế. Sân bay cách Sabah 31 km. Đường băng mới có
**Đảo Banggi** là một đảo Malaysia. Đảo này thuộc Sabah. Banggi đảo nằm trong Vùng Kudat của Sabah ở Malaysia. Với diện tích 440,7 km² nó là hòn đảo lớn nhất ở Malaysia sau đảo Betruit,
**Labuan** là một Lãnh thổ Liên bang của Malaysia. Labuan được biết đến bởi đây là một trung tâm tài chính và thương mại quốc tế cũng như là một địa điểm du lịch cho
nhỏ|Tháp Tun Mustapha **Tháp Tun Mustapha** là một tòa tháp bằng kính cao 30 mét, dài 122 mét ở Kota Kinabalu, Sabah, Malaysia. Nó được xây dựng vào năm 1977 bởi Công ty Xây dựng
**Đười ươi Borneo**, (danh pháp hai phần: **_Pongo pygmaeus_**), là một loài đười ươi trong họ Hominidae, bộ Linh trưởng. Loài này được Linnaeus mô tả năm 1760. ## Môi trường sống và phân bố
**Tawau** (, Jawi: , ) trước đây gọi là **Tawao**, là thành phố và trung tâm hành chính của Tawau, Sabah, Malaysia. Đây là đô thị lớn ba của Sabah, sau Kota Kinabalu và Sandakan.
**Sandakan** là thành phố ở bang Sabah, Malaysia. Thành phố Sandakan có diện tích ki lô mét vuông, dân số thời điểm năm 2010 là 501.195 người. Đây là thành phố đông dân thứ 12
**Người Malaysia gốc Hoa** (, ) là người mang quốc tịch Malaysia có nguồn gốc người Hoa. Hầu hết họ là hậu duệ của những người Hoa đến từ giai đoạn đầu và giữa thế
**Huyện Tuaran** là một huyện thuộc bang Sabah của Malaysia. Huyện Tuaran có dân số thời điểm năm 2010 ước tính khoảng 101786 người.
**Huyện Tenom** là một huyện thuộc bang Sabah của Malaysia. Huyện Tenom có dân số thời điểm năm 2010 ước tính khoảng 56201 người.
**Huyện Tambunan** là một huyện thuộc bang Sabah của Malaysia. Huyện Tambunan có dân số thời điểm năm 2010 ước tính khoảng 35307 người.
**Huyện Sipitang** là một huyện thuộc bang Sabah của Malaysia. Huyện Sipitang có dân số thời điểm năm 2010 ước tính khoảng 34680 người.
**Huyện Semporna** là một huyện thuộc bang Sabah của Malaysia. Huyện Semporna có dân số thời điểm năm 2010 ước tính khoảng 133939 người.
**Huyện Ranau** là một huyện thuộc bang Sabah của Malaysia. Huyện Ranau có dân số thời điểm năm 2010 ước tính khoảng 95632 người.
**Huyện Putatan** là một huyện thuộc bang Sabah của Malaysia. Huyện Putatan có dân số thời điểm năm 2010 ước tính khoảng 54615 người.
**Huyện Penampang** là một huyện thuộc bang Sabah của Malaysia. Huyện Penampang có dân số thời điểm năm 2010 ước tính khoảng 122388 người.
**Huyện Papar** là một huyện thuộc bang Sabah của Malaysia. Huyện Papar có dân số thời điểm năm 2010 ước tính khoảng 123495 người.
**Huyện Nabawan** là một huyện thuộc bang Sabah của Malaysia. Huyện Nabawan có dân số thời điểm năm 2010 ước tính khoảng 31633 người.
**Huyện Lahad Datu** là một huyện thuộc bang Sabah của Malaysia. Huyện Lahad Datu có dân số thời điểm năm 2010 ước tính khoảng 199934 người.
**Huyện Kunak** là một huyện thuộc bang Sabah của Malaysia. Huyện Kunak có dân số thời điểm năm 2010 ước tính khoảng 60068 người.
**Huyện Kudat** là một huyện thuộc bang Sabah của Malaysia. Huyện Kudat có dân số thời điểm năm 2010 ước tính khoảng 83123 người.
**Huyện Kuala Penyu** là một huyện thuộc bang Sabah của Malaysia. Huyện Kuala Penyu có dân số thời điểm năm 2010 ước tính khoảng 20346 người.
**Huyện Kota Marudu** là một huyện thuộc bang Sabah của Malaysia. Huyện Kota Marudu có dân số thời điểm năm 2010 ước tính khoảng 65807 người.
**Huyện Kota Belud** là một huyện thuộc bang Sabah của Malaysia. Huyện Kota Belud có dân số thời điểm năm 2010 ước tính khoảng 90121 người.
**Huyện Kinabatangan** là một huyện thuộc bang Sabah của Malaysia. Huyện Kinabatangan có dân số thời điểm năm 2010 ước tính khoảng 147017 người.
**Huyện Keningau** là một huyện thuộc bang Sabah của Malaysia. Huyện Keningau có dân số thời điểm năm 2010 ước tính khoảng 172553 người.
**Huyện Beluran** là một huyện thuộc bang Sabah của Malaysia. Huyện Beluran có dân số thời điểm năm 2010 ước tính khoảng 106583 người.
**Huyện Beaufort** là một huyện thuộc bang Sabah của Malaysia. Huyện Beaufort có dân số thời điểm năm 2010 ước tính khoảng 68318 người.
nhỏ|trái|Biên giới giữa [[Malaysia và Indonesia trên đảo Sebatik.]] **Đảo Sebatik** (_Pulau Sebatik_) nằm ngoài khơi bờ biển phía đông của đảo Borneo, một phần thuộc về Indonesia và một phần thuộc Malaysia. Đảo có
Cuộc **đụng độ tại Lahad Datu năm 2013** khơi dậy sau khi 235 chiến binh, một phần trong số này được võ trang, đi bằng thuyền đặt chân lên Lahad Datu, Sabah, Malaysia từ đảo
**Người Tausug** hay **Tausūg** hay **Suluk** là một nhóm sắc tộc cư trú ở Philippines, Malaysia và Indonesia. Người Tausug là một thành phần của thực thể rộng lớn hơn của người Hồi giáo ở
**Vườn quốc gia Tunku Abdul Rahman** () là một vườn quốc gia nằm ở bang Sabah, Malaysia. Trải rộng trên 4.929 hecta, với hai phần ba diện tích là bề mặt biển. Phần còn lại
**Nội chiến Brunei** là một cuộc nội chiến nổ ra ở Brunei từ năm 1660 đến năm 1673. ## Nguyên nhân Trong thời gian trị vì của Sultan Muhammad Ali (1660-1661), có một bất đồng