✨Reinwardtoena reinwardti
Reinwardtoena reinwardti là danh pháp khoa học của một loài chim thuộc họ Bồ câu (Columbidae) do nhà động vật học người Hà Lan Coenraad Jacob Temminck lần đầu mô tả vào năm 1824. Đây là loài sinh sống chủ yếu ở vùng rừng nguyên sinh, bìa rừng tại New Guinea, các hòn đảo lân cận và Wallacea. R. reinwardti có ngoại hình lớn và dễ phân biệt, với chiều dài rơi vào khoảng 47,5–52,5 cm và cân nặng đạt khoảng 208–305 g. Ở giai đoạn trưởng thành, chim có đầu, cổ và ngực màu trắng hoặc màu lam xám, cùng bộ cánh rìa ngoài màu đen. Phần thân dưới của chim có màu xám xanh nhạt, còn phần trên thì màu nâu hạt dẻ. Chim mái khác chim trống ở đặc điểm là mống mắt vàng hơn và mép viền mắt tối hơn. Chim non có bộ lông màu nâu xám đậm, với phần cổ và phần bụng màu trắng đục.
Khẩu phần của R. reinwardti là các loại hạt và hoa quả. Bình thường chim sống đơn độc hoặc theo từng cặp, nhưng cũng có lúc sống thành đàn với các loài chim ăn trái khác trên cây ăn quả. R. reinwardti có tập tính kiếm ăn hiếm có ở loài chim là bảo vệ bụi cây hoa quả của chúng khi có loài khác đến tranh giành. Chim sinh sản quanh năm và thay đổi theo từng khu vực trong phạm vi phân bố, với mỗi lần đẻ là chỉ cho một quả trứng duy nhất. Giai đoạn sinh sản mạnh nhất của loài rơi vào tháng 10 đến tháng 12 tại New Guinea. R. reinwardti dùng cành cây, rêu, rễ cây và dương xỉ để xây dựng tổ, với hình dáng phẳng hoặc hơi lõm. Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế phân loại loài này vào nhóm loài ít quan tâm do phạm vi phân bố đủ lớn và số lượng loài ổn định.
Phân loài và hệ thống
left|thumb|alt=Hình minh họa của Reinwardtoena reinwardti|Hình minh họa của [[Pauline Rifer de Courcelles vào khoảng năm 1845|upright=0.8]] Nhà động vật học người Hà Lan Coenraad Jacob Temminck lần đầu mô tả Reinwardtoena reinwardti vào năm 1824 nhưng với tên gọi là Columba reinwardtsi dựa trên một loài chim đến từ đảo Ambon, Indonesia (lúc đầu ông tuyên bố nhầm là đến từ Sulawesi). Cách viết reinwardtsi là bị in nhầm từ reinwardtii, và ngay cả chính Temminck cũng sử dụng reinwardtii để giới thiệu trong bảng mục lục. Một số tác giả đã cập nhật chỉnh sửa lại tên thành reinwardti và cho đến ngày nay, cả hai cách viết reinwardti hoặc reinwardtii đều được sử dụng. Cả hai cách đặt tên chung và tên cụ thể này là nhằm vinh danh nhà nghiên cứu tự nhiên người Hà Lan Caspar Reinwardt. Trong tiếng Anh, Liên đoàn các nhà điểu học quốc tế (IOU) chính thức lấy "great cuckoo-dove" làm tên thông thường cho R. reinwardti. Ngoài ra, loài chim này còn được gọi bằng tên tiếng Anh thông thường phổ biến khác như long-tailed cuckoo-dove, Reinwardt's cuckoo-dove, giant cuckoo-dove, Reinwardt's long-tailed pigeon, chestnut-and-grey pigeon và maroon-and-grey pigeon. Ở ngôn ngữ Sansundi tại đảo Biak, R. reinwardti còn được gọi là Man Wupu.
R. reinwardti là một trong ba loài thuộc chi Reinwardtoena trong họ Bồ câu, Columbidae. Hai loài này thì có thể phân biệt với R. reinwardti nhờ vào ngoại hình nhỏ và phần thân dưới có màu rượu vang, nhiều vạch kẻ hơn, ít tương phản với phần thân trên hơn. Kiểu hót thứ hai là một loạt khoảng 12 tiếng "hu" trở nên sâu lắng hơn và nhanh hơn về cuối, Người ta cũng quan sát thấy loài này ăn đất và một số cá thể được các nhà nghiên cứu phát hiện có sỏi trong dạ dày.
R. reinwardti chỉ đẻ một quả trứng màu trắng duy nhất với kích thước . Trong môi trường nuôi nhốt, chim sẽ đẻ nhiều lứa nếu lứa đầu tiên không nở. Cả chim bố và mẹ đều có thể ấp trứng. Theo quan sát, trứng R. reinwardti nở sau 16 ngày ở điều kiện nuôi nhốt và sau 22 ngày trong tổ hoang dã. Sau khi trứng nở, chim non được ấp 13 ngày, rời tổ sau 25 ngày và bắt đầu tự kiếm ăn sau 35 ngày. và Coloceras museihalense. Đại bàng Hieraaetus weiskei có thể là kẻ săn mồi.
Bảo tồn
Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế xếp Reinwardtoena reinwardti vào nhóm loài ít quan tâm do phạm vi phân bố đủ lớn và quần thể ổn định. Quy mô quần thể của loài này chưa được ước tính. Mặc dù người ta cho rằng R. reinwardti thường không phổ biến trong phạm vi phân bố nhưng chúng có thể phổ biến cục bộ ở các vùng đồi núi. Loài này khá phổ biến ở Papua New Guinea, với mật độ 4–6 con chim trên một kilômét vuông ở Khu quản lý động vật hoang dã Crater Mountain. Tuy nhiên, chúng có thể không phổ biến ở phía Đông Bắc của đất nước. Ở Seram, loài này hiếm gặp ở vùng đất thấp, nhưng phổ biến ở độ cao lớn hơn.