✨Majapahit

Majapahit

nhỏ|242x242px|Sự hình thành của Majapahit cho đến khi tan rã năm 1527 Majapahit (tiếng Indonesia: Majapahit, âm "h" trong tiếng Java là âm câm) là một vương quốc theo đạo Hindu và đạo Phật Đại thừa ở giữa phần phía đông Java, tồn tại từ năm 1293 đến khoảng năm 1527. Có thuyết cho rằng, vào thời kỳ hùng mạnh nhất, tức là thời vua Hayam Wuruk trị vì từ năm 1350 đến năm 1389, vương quốc này đã là một đế quốc có ảnh hưởng chi phối tới các vương quốc khác ở quần đảo Indonesia và bán đảo Mã Lai. Song, cũng có thuyết cho rằng, đế quốc Majapahit chỉ chi phối được khu vực trung đông đảo Java mà thôi.

Đế quốc Majapahit là một Đế quốc hùng mạnh ở thế kỉ 14,quyền lực của Đế quốc chi phối ra khỏi bán đảo Indonesia và Mã Lai và là một Đế quốc Hindu lớn cuối cùng.Majapahit bắt đầu suy yếu ở thế kỉ 15 sau khi biến động trong quốc gia mặc dù có những năm biến đổi tốt nhưng đối với sự trỗi dậy mạnh mẽ của hồi giáo, ảnh hưởng và những nhà truyền đạo hồi từ Đế quốc Ottoman đã khiến Majapahit vốn đã suy yếu lại càng suy yếu. Dưới sự ảnh hưởng của Hồi giáo, Malacca nổi loạn và thành lập Vương quốc Hồi giáo Malacca song với đó Hồi giáo Demak cũng tách ra và thành lập quốc gia riêng. Những năm hấp hối của Majapahit vào thế kỉ 16, chứng kiến những sự nổi loạn mạnh mẽ của hồi giáo tại Bán đảo Indonesia và nhiều vương quốc mới được thành lập tách ra khỏi Majapahit, từ một quốc gia mạnh nhất ở Đông Nam Á mà giờ đây thế lực Majapahit đã ngang bằng với những quốc gia chư hầu trước đó của mình và đỉnh điểm là cuộc chiến tranh với hồi giáo Demak. Demak tiến vào thủ đô của Majapahit , Majapahit thất thủ vào năm 1527. Kết thúc một Đế quốc Hindu lớn cuối cùng

Hình thành

Năm 1290, Singhasari trở thành bá chủ Java sau khi đánh bại vương quốc Malayu. Vua Singhasari là Kertanegara đã dũng cảm từ chối yêu sách đòi cống nạp của hoàng đế nhà Nguyên Hốt Tất Liệt. Đáp trả, năm 1292, quân Nguyên đã vượt biển tấn công Singhasari. Cùng lúc đó, Jayakatwang là vua của vương quốc Kediri, một chư hầu của Singhasari nổi loạn và giết Kertanegara. Con rể của Kertanegara là Raden Wijaya thì được tha, nhưng bị đầy tới thung lũng sông Brantas ở phía nam Surabaya. Wijaya và người của ông đã khai khẩn xứ đó và lập lên làng Majapahit. Khi đoàn quân viễn chinh của Hốt Tất Liệt đặt chân tới Java, Wijaya đã vờ thần phục quân đội Nguyên Mông và làm đạo quân tiên phong dẫn đường. Quân Nguyên Mông đã đánh bại hạm đội của vua Jayakatwang trong trận chiến ở cửa sông Surabaya và tiến vào nội địa, vua Jayakatwang đã phải đầu hàng. Mục tiêu sử dụng quân Nguyên Mông cho việc báo thù đã thuận lợi, Wijaya bất ngờ tấn công quân đội Nguyên. Khi ấy đã mất mát lực lượng khá nhiều, lại đến lúc cuối mùa gió có thể trở về, quân Nguyên đành lên thuyền rút lui.

Ngày 10 tháng 11 năm 1293, Raden Wijaya xưng vua, lấy niên hiệu là Kritanajasa Jayavardhana, đóng đô ở Majapahit. Vương quốc của ông, vì thế, được người đời sau gọi là vương quốc Majapahit. Trong thời gian trị vì của mình, Raden Wijaya đã phải trấn áp các cuộc phản loạn và âm mưu lật đổ của các thủ lĩnh địa phương và quan lại của mình. Năm 1309, Wijaya qua đời.

Các vị vua Majapahit:

Raden Wijaya (1293 - 1309)

Jayanegara (1309 - 1328)

Tribhuwana Wijayatunggadewi (1328 - 1350)

Hayam Wuruk (1350 - 1389)

Wikramawardhana (1389 - 1429)

Suhita (1429 - 1447)

Kertawijaya (1447 - 1451)

Rajasa Wardhana (1451 - 1453)

Girisawardhana (1456 - 1466)

Suraprabhawa (1466 - 1474)

Bhre Kertabhumi (1468 - 1478)

Girindrawardhana (1478 - 1527)

Thời kỳ huy hoàng

Tượng [[Parvati để mô tả Tribhuwanottunggadewi, nữ hoàng Majapahit, mẹ của vua Hayam Wuruk.]] Vị vua thứ hai của Majapahit là Jayanegara, tương truyền, là một hôn quân vô đạo, kẻ đã ép chị em cùng cha khác mẹ của mình làm vợ. Năm 1328, Jayanegara bị ám sát. Có thuyết cho rằng, ông bị chồng của người phụ nữ trên giết; có thuyết lại cho rằng, ông bị thầy thuốc của mình ám sát; và có cả thuyết cho rằng ông bị tướng của mình là Gajah Mada ám sát vì phẫn nộ với hành vi ép chị em làm vợ.

Vì Jayanegara không có con trai nối ngôi, nên triều đình tôn mẹ kế của ông ta là Gayatri Rajapatni làm nữ hoàng, nhưng khi đó bà đã đi tu và cũng không có con trai nên bà đã chỉ định con gái mình là Tribhuvana thay mình làm nữ hoàng. Tribhuvana chỉ định Gajah Mada làm tể tướng và nhiếp chính vào năm 1336.

Gajah Mada là một tể tướng giỏi và đồng thời là một nhà quân sự tài ba. Khi nhậm chức, ông đã thề sẽ phát triển vương quốc và chinh phục các nước xung quanh. Năm 1343, Gajah Mada chinh phạt Bedahulu (Bali) và Lombok. Tiếp theo, ông tiến về phía tây tấn công Srivijaya ở Sumatra. Sau đó, ông chinh phạt Hồi quốc đầu tiên ở Đông Nam Á là Samudra Pasai, cùng một vương quốc khác cũng ở Sumatra tên là Svarnadvipa. Ông chinh phạt cả Bintan, Tumasik (Singapore), Melayu (hay Jambi), và Kalimantan.

Năm 1350, Tribhuvana nhường ngôi cho con trai là Hayam Wuruk, tức vua Rajasanagana. Vua mới vẫn tiếp tục trọng dụng Gajah Mada. Majapahit đã liên tục bành trướng về phía đông, tới Logajah, Gurun, Seram, Hutankadali, Sasak, Makassar, Buton, Banggai, Kunir, Galiyan, Salayar, Sumba, Muar (Saparua), Solor, Bima, Wandan (Banda), Ambon, Timor, và Dompo. Đặc biệt, vua Hayam Wuruk đã xin cưới công chúa vương quốc Sunda. Hoàng gia Sunda hiểu lời đề nghị này như một đề nghị liên minh và đã cử một đoàn hoàng tộc đưa công chúa của mình tới kinh đô Majapahit vào năm 1357. Tại đây, toàn bộ đoàn hoàng tộc Sunda đã bị Gajah Mada cho quân sát hại. Công chúa của Sunda tự vẫn. Chân dung [[Gajah Mada bằng gốm. Hiện vật trưng bày ở Bảo tàng Trowulan.]] Mô hình [[thuyền Majapahit trưng bày tại BI Bảo tàng, Jakarta.]] Năm 1364, Gajah Mada qua đời. Năm 1365, bộ sử thi Nagarakitagama do nhà sư Prapancha biên soạn để ca ngợi chiến công của các vua Majapahit, liệt kê một danh sách các xứ đã bị Majapahit khuất phục. Danh sách này cho thấy phạm vi chi phối của Majapahit bao trùm các đảo New Guinea, quần đảo Maluku, Java, Bali, phần phía nam đảo Borneo, phần lớn đảo Sumatra và có thể một phần phía nam của bán đảo Mã Lai. Nagarakitagama đã không nhắc tới sự kiện thảm sát hoàng tộc Sunda. Một thời gian sau khi Gajah Mada qua đời, Majapahit vẫn tiến hành một vài cuộc chinh phạt nữa, trong đó có cuộc chinh phạt kinh đô Srivijaya vào năm 1377, chính thức tiêu diệt vương quốc một thời bá chú Sumatra và bán đảo Mã Lai này.

Cũng theo Nagarakitagama, ngoài các thuộc quốc ở các đảo trên thì Majapahit có các mối quan hệ hữu hảo với Trung Quốc và các vương quốc Đông Nam Á khác như: Vương quốc Ayutthaya của người Thái, Vương quốc Khmer của người Khmer, Champa của người Chăm và Đại Việt của người Việt thông qua các đoàn sứ thần thường xuyên đến các quốc gia này.

Nagarakitagama còn cho biết bộ máy hành chính trong nước ở thời kỳ này. Ở kinh đô, nhà vua Hayam Woruk được cha là Kritavardhana và chú là Vijayarajasa giúp, rồi đến một đội ngũ các quan lại đứng đầu là một hội đồng 5 vị thượng thư mà người chủ chốt là tể tướng Gajah Mada.

Ngoài bộ sử thi trên, thời kỳ này về mặt văn học còn nổi tiếng với nhà thơ Tantular, tác giả tập thơ ArjunavijayaPurushadacanta, nói về sự hòa hợp giữa Ấn giáo và Phật giáo.

Nhiều công trình tôn giáo cũng được xây dựng trong thời kỳ này, mà công trình lớn nhất là ngôi đền trung tâm Panataran với các bức phù điêu nổi tiếng.

Chia rẽ và kết thúc

Cổng đền Wringin Lawang, cao 15,5 bằng gạch nung. Cổng đền Bajang Ratu, cao 16,5 mét, ở [[Trowulan, di sản quá khứ vàng son của Majapahit]] Sau khi vua Rajasanagara qua đời năm 1389, Majapahit bắt đầu suy vong, trước tiên là do tranh giành ngôi báu và tiếp theo là do sự nổi lên của vương quốc Melaka ở bán đảo Mã Lai như một trung tâm thương mại và một tiêu điểm truyền bá đạo Hồi vào Đông Nam Á.

Kế vị Rajasanagara là con gái ông, công chúa Kusumawardhani, mặc dù ông vẫn có con trai là hoàng tử Wirabhumi. Nội chiến đã xảy ra giữa hai chị em từ năm 1401 đến năm 1406, và kết cục là hoàng tử Vikramavardhana, chồng của công chúa Kusumawardhani đã chiến thắng và lên làm vua. Cuộc nội chiến đã tạo ra thời cơ cho nhiều chư hầu của Majapahit ly khai khỏi sự khống chế của Majapahit.

Đầu thế kỷ 15, Hồi quốc Malacca nổi lên ở eo biển Malacca, và tranh giành với Majapahit quyền thương mại hàng hải, góp phần làm suy yếu Majapahit. Những chuyến du hành các nước Đông Nam Á của Trịnh Hòa, một đô đốc theo đạo Hồi của nhà Minh, đã tạo cơ sở cho cộng đồng người Ả Rập và Hoa theo đạo Hồi nhập cư vào các cảng thị ở phía bắc Java như Semarang, Demak, Tuban, và Ampel. Các cộng đồng người Hồi này ngày càng phát triển và một số Hồi quốc đã được thành lập ở những nơi đó. Hồi quốc Demak sau này đã tiêu diệt Majapahit. Những nghệ sĩ, thợ thủ công theo đạo Hindu của Majapahit di cư tới đảo Bali, và đây là một trong chỉ vài nơi hiếm hoi của Indonesia ngày nay còn theo đạo Hindu.

Văn hóa

nhỏ|phải|Tượng thần gác đền, Đông Java, thế kỷ 14 ([[Bảo tàng Nghệ thuật châu Á, San Francisco)]] phải|nhỏ|Bồn tắm Candi Tikus của vua Majapahit. nhỏ|phải|[[Lợn tiết kiệm bằng gốm thời Majapahit, thế kỷ 14-15 tìm thấy ở Trowulan, East Java. (Hiện vật của Bảo tàng Quốc gia Indonesia, Jakarta)]]

Nền văn hóa Majapahit đã phát triển rực rỡ và có ảnh hưởng tới khắp cả quần đảo Indonesia. Nhiều xứ trên quần đảo này đã tiếp thu phong cách Majapahit trong trang phục và thực hành văn hóa. Tác phẩm văn học Hikayat Banjar hay "Chuyện Banjar" cho biết các đấng cai trị Banjar, một xứ ở miền nam đảo Borneo đã ra lệnh cho quan lại của mình không được ăn mặc như người Mã Lai, người Hoa, người Hà Lan, người Thái Lan, người Aceh, mà phải ăn mặc như người Majapahit.

Các thần thoại, văn bản, tên đất, tên người, danh hiệu, từ vựng Java xuất hiện rất nhiều ở Sumatra, đặc biệt là khu vực Palembang, và ở Lampung, ở Kalimantan, nhiều hòn đảo ở phía đông của Java, đặc biệt là Bali, và cả Lombok và Sumbawa, có lẽ cùng là do tiếp thu văn hóa Majapahit.

Nguồn thu của bản thân triều đình dựa vào hệ thống thuế (từ thương nhân và thợ thủ công) và tô (từ nông dân). Các cơ quan của triều đình sẽ trực tiếp làm nhiệm vụ thu các nguồn nói trên trong các xứ mà triều đình kiểm soát hoàn toàn. Đối với các vùng đất phụ thuộc ở xa, các thủ lĩnh địa phương có nghĩa vụ trưng thu và nộp cho triều đình một phần.

Thời Majapahit, Java đã sản xuất được nhiều lúa gạo và có dư để xuất khẩu. Trong khi đó, gia vị và hương liệu vẫn luôn là mặt hàng xuất khẩu quan trọng của Java. Các nghiên cứu khảo cổ cho thấy nhiều đồ gồm có xuất sứ Trung Quốc ở Java, chứng tỏ thu nhập đã khá cao thúc đẩy nhu cầu tiêu dùng hàng nhập khẩu. Ngoài hàng hóa nước ngoài, tiền nước ngoài cũng được tìm thấy rất nhiều, chứng tỏ sự phát triển của dịch vụ ngoại hối và nền kinh tế tiền tệ.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|242x242px|Sự hình thành của Majapahit cho đến khi tan rã năm 1527 **Majapahit** (tiếng Indonesia: Majapahit, âm "h" trong tiếng Java là âm câm) là một vương quốc theo đạo Hindu và đạo Phật Đại
**Vương quốc Sunda** (tiếng Indonesia: _Karajaan Sunda_, tiếng Sunda: _Karajaan Sunda_) hay **Tốn Tha** (巽他) là một nhà nước cổ của người Sunda ở miền tây Java trải rộng từ eo biển Sunda tới sông
nhỏ|phải|Vị trí [[Đông Nam Á trên bản đồ thế giới]] ## Tiền sử ### Các xã hội nông nghiệp đầu tiên Nông nghiệp, một sự phát triển tự nhiên dựa trên nhu cầu. Trước khi
**Đông Nam Á** (tiếng Anh: **Southeast Asia**, viết tắt: **SEA**) là tiểu vùng địa lý phía đông nam của châu Á, bao gồm các khu vực phía nam của Trung Quốc, phía đông nam của
**Người Java** (Java phát âm như _Ja-oa_ trong tiếng Việt; tiếng Indonesia: _suku Jawa_, tiếng Java: _wong Jawa_) là một trong các dân tộc ở Indonesia. Quê hương của người Java là phần trung và
**Tribhuwana Wijayatunggadewi**, tôn hiệu Tribhuwannottunggadewi Jayawishnuwardhani, còn được gọi là Dyah Gitarja, là một vị vua của Majapahit Java, là nữ vương đầu tiên của Majapahit, bà tại vị ngôi nữ vương Java từ năm
**Người Chăm**, **người Chăm Pa** hay **người Degar-Champa** (tiếng Chăm: ꨂꨣꩃ ꨌꩌꨛꨩ, اوراڠ چامفا, _Urang Campa_; tiếng Khmer: ជនជាតិចាម, _Chónchèat Cham_; ; ), còn gọi là **người Chàm**, **người Chiêm**, **người** **Chiêm Thành**, **người Hời**,
**Lịch sử Indonesia** là dải thời gian rất dài, bắt đầu từ thời Cổ đại khoảng 1.7 triệu năm trước dựa trên phát hiện về Homo erectus Java. Các giai đoạn lịch sử của Indonesia
**Đế quốc Brunei** (, Jawi và ('Iimbraturiat Brunay)), là một Hồi quốc Mã Lai tập trung ở Brunei trên bờ biển phía bắc đảo Borneo tại Đông Nam Á. Vương quốc được thành lập vào
**Champa** (tiếng Phạn: चम्पा, Tiếng Trung: 占婆 _Chiêm Bà_, tiếng Chăm: ꨌꩌꨚ) hay **Chiêm Thành** (占城) là một quốc gia cổ từng tồn tại độc lập liên tục qua các thời kỳ từ năm 192
**Brunei**, quốc hiệu là **Brunei Darussalam**, là một quốc gia có chủ quyền nằm ở bờ biển phía bắc của Borneo tại Đông Nam Á. Ngoại trừ dải bờ biển giáp biển Đông, quốc gia
**Palembang** là thành phố tỉnh lị của tỉnh Nam Sumatra, thuộc phía tây Indonesia. Palembang là một trong những đô thị cổ nhất đất nước và từng có một thời gian dài là kinh đô
Dưới đây là danh sách các vua đảo Java và đảo Madura liền kề thuộc Indonesia. Danh sách bao gồm cả các tiểu quốc từ thời đầu lịch sử thành văn. Một số vị trong
**Borneo** hay **Kalimantan** là đảo lớn thứ ba thế giới và lớn nhất tại châu Á. Đảo thuộc Đông Nam Á hải đảo, nằm về phía bắc của đảo Java, phía tây đảo Sulawesi và
**Nhà Nguyên** (tiếng Trung: 元朝, bính âm: _Yuán Cháo_, Hán-Việt: _Nguyên triều_) hay **Đại Nguyên** (Tiếng Trung: 大元, bính âm: _Dà Yuán_) là nhà nước kế tục của Đế quốc Mông Cổ và đánh dấu
**Trowulan** là một ngôi làng trong Mojokerto, tỉnh Đông Java của Indonesia. Nó được bao quanh bởi một địa điểm khảo cổ bao gồm khoảng 100 km vuông. Nó đã được cho là nơi đóng kinh
**Cuộc xâm lăng của Mông Cổ ở Java** là một nỗ lực quân sự của Hốt Tất Liệt, người sáng lập nhà Nguyên (một phần của Đế quốc Mông Cổ), xâm chiếm Java, một hòn
**Java** (, tiếng Java: _ꦗꦮ_; tiếng Sunda: _ᮏᮝ_) là một đảo của Indonesia, giáp Ấn Độ Dương ở phía nam và biển Java ở phía bắc. Với hơn 148 triệu (chỉ riêng mình đảo Java)
**Manila** (phát âm tiếng Anh Philippines: ; , ) là thủ đô và là thành phố lớn thứ hai của Philippines. Đây là một trong 16 thành phố thuộc Vùng đô thị Manila với tổng
Tập tin:Silat (vietnamese).jpg **Pencak-Silat** là một môn võ xuất phát từ Indonesia. Các kiểu đánh của môn võ này khác nhau tùy theo vùng và thường mô phỏng theo động tác của các con vật
**Vương quốc Malacca** (, chữ Jawi: ) hay **Melaka** là một vương quốc từng tồn tại ở Đông Nam Á, chịu ảnh hưởng của Hồi giáo, và do Parameswara thành lập năm 1402, đến năm
**Visayas** (), hay **quần đảo Visayas**, là một trong ba phân vùng địa lý chính của Philippines, cùng với Luzon và Mindanao. Visayas nằm tại miền trung của quần đảo, gồm một số đảo chủ
**Gajah Mada** (được dịch là _Tướng Voi_) (mất khoảng năm 1364), theo các văn bản bản viết tay tiếng Java cũ cũng như thi ca và chuyện thần thoại, là một lãnh đạo mạnh quân
upright|phải|nhỏ|Tượng [[Bhairava ở Bảo tàng quốc gia Indonesia]] **Adityawarman** (cũng Adityavarman), một nhà quý tộc sinh ra ở phía đông Java, từ thơ Pararaton mẹ là Dara Jingga, công chúa Dharmasraya, cha là Adwayawarman từ
thumb|Một vũ công [[người Khmer trong trang phục Apsara ở Angkor Wat, Campuchia]] thumb|Một bức tượng đá Apsara từ thế kỷ 12 ở [[Uttar Pradesh, Ấn Độ]] **Apsara** (tiếng Hindi:अप्सरा) là một dạng tiên nữ
nhỏ|300x300px| Biểu diễn gamelan kiểu [[Yogyakarta (thành phố)|Yogyakarta trong một đám cưới của người Java ]] **Gamelan** là thể loại nhạc dàn truyền thống của đảo Java và Bali ở Indonesia, tương tự một kiểu
**Quan hệ Indonesia – Tòa Thánh** là một phần quan trọng trong cuộc đối thoại giữa các quốc gia kể từ khi Indonesia có dân số đông người Hồi giáo lớn nhất thế giới, và
**Người Hoa Indonesia** () hoặc (tại Indonesia) chỉ gọi đơn thuần là **Trung Hoa** () là sắc tộc có nguồn gốc từ những người nhập cư trực tiếp từ Trung Quốc hoặc gián tiếp từ
**Jayanegara** hoặc **Jayanagara** (tôn hiệu chính thức **Sri Maharaja Wiralandagopala Sri Sundarapandya Dewa Adhiswara**, hay **Sri Sundarapandyadevadhisvara Vikramottungadeva**, (? - 1328), còn được gọi là Kala Gemet). Là hoàng tử xứ Kediri từ năm 1295.
nhỏ|[[Chand Baori, ở làng Abhaneri gần Bandikui, Rajasthan, là một trong những giếng bậc thang sâu nhất và lớn nhất ở Ấn Độ]] nhỏ|Quang cảnh một giếng bậc thang tại [[Fatehpur|Fatehpur, Shekhawati]] nhỏ|_Birkha Bawari_, quang
Ngày **10 tháng 11** là ngày thứ 314 (315 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 51 ngày trong năm. ## Sự kiện *621 – Tùy mạt Đường sơ: Lương Đế Tiêu Tiển hạ lệnh
**Hốt Tất Liệt** (, _Xubilaĭ Khaan_, ; 23 tháng 9, 1215 - 18 tháng 2, 1294), Hãn hiệu **Tiết Thiện Hãn** (ᠰᠡᠴᠡᠨ ᠬᠠᠭᠠᠠᠨ, Сэцэн хаан, _Sechen Khan_), là Đại Hãn thứ năm của đế quốc
**Indonesia**, tên gọi chính thức là **Cộng hòa Indonesia** (tiếng Indonesia: _Republik Indonesia_), thường được gọi ngắn là **Indo**, là một đảo quốc liên lục địa, nằm giữa Đông Nam Á và Châu Đại Dương.
**Đông Timor** (phiên âm: "Đông Ti-mo") hay **Timor-Leste** (; **'), tên chính thức là **Cộng hòa Dân chủ Timor-Leste''' (, ), là một quốc gia ở khu vực Đông Nam Á, bao gồm nửa phía
**Palawan** (phiên âm tiếng Việt: Pa-la-van) là tỉnh có diện tích lớn nhất tại Philipines. Đây là một tỉnh đảo thuộc vùng MIMAROPA. Thủ phủ của tỉnh Palawan là thành phố Puerto Princesa (Cảng Công
**Sumba** là một hòn đảo tại Indonesia, một trong các đảo thuộc nhóm đảo gọi chung là quần đảo Nusa Tenggara (quần đảo Sunda Nhỏ). Đảo này có chiều dài theo hướng tây-đông khoảng 220 km
**Sumbawa** là một đảo thuộc Indonesia, nằm ở khoảng giữa của chuỗi các đảo gọi chung là quần đảo Nusa Tenggara (quần đảo Sunda Nhỏ), với đảo Lombok ở phía tây, đảo Flores ở phía
phải|nhỏ|300x300px|Các đảo quốc trên thế giới, những đảo quốc có đường biên giới trên đất liền được biểu thị bằng màu xanh lục và những đảo quốc không có đường biên giới trên đất liền
**Quốc kỳ Indonesia**, tiếng Indonesia gọi là **Bendera Indonesia** hay **Sang Merah Putih**, là lá cờ có hai màu đỏ và trắng tạo thành hai băng ngang bằng nhau. Băng màu đỏ ở trên, băng
phải|nhỏ|Các [[kim tự tháp Ai Cập ở quần thể kim tự tháp Giza, nhìn từ trên không. Quần thể này được xây dựng vào khoảng năm 2600 TCN.]] phải|nhỏ|Đền Prasat Thom ở [[Koh Ker, Campuchia]]
**Srivijaya** hay **Tam Phật Tề** (三佛齊) là một liên minh kiểu mandala gồm nhiều nhà nước cổ từng tồn tại ở miền Đông Sumatra, bán đảo Malay và một phần đảo Borneo và Java, hình
**Sabah** () là một trong hai bang của Malaysia nằm trên đảo Borneo (cùng với Sarawak). Bang được hưởng một số quyền tự trị trong hành chính, nhập cư và tư pháp khác biệt với
**Đông Java** (tiếng Indonesia: **Jawa Timur**) là một tỉnh của Indonesia ở phía Đông của đảo Java và cũng bao gồm các đảo lân cận là Madura và Bawean. Trung tâm hành chính của tỉnh
**Nam Sumatera** hay **Nam Sumatra** (tiếng Indonesia: **Sumatera Selatan**) là một tỉnh của Indonesia ở phía Nam đảo Sumatra, giáp với các tỉnh Lampung về phía Nam, Bengkulu về phía Tây và Jambi về phía
**Trường Đại học Gadjah Mada** (tiếng Indonesia: _Universitas Gadjah Mada_ hay **UGM**) là trường đại học lớn nhất Indonesia tính theo số lượng sinh viên. Đây cũng là trường đại học xưa nhất Indonesia, thành
giữa|360x360px|Đế quốc Sanhasari ở thời kì đỉnh cao năm 1291 **Singhasari** (tiếng Indonesia lẫn tiếng Java: _kerajaan Singhasari_) là một nhà nước cổ theo đạo Hindu và đạo Phật của người Java, từng bá chủ
**Lịch sử Philippines** khác biệt nhiều mặt so với các quốc gia trong vùng Đông Nam Á, là nước duy nhất không bị ảnh hưởng bởi Phật giáo và Ấn giáo, Philippines ngày nay là
Lịch sử thành văn của Singapore có niên đại từ thế kỷ thứ ba. Sau đó, tầm quan trọng của Singapore tăng lên trong thế kỷ 14 dưới quyền cai trị của hoàng tử Srivijaya
**Năm 1345** (Số La Mã: MCCCXLV) là một lịch Julius năm trong thế kỷ 14, ở giữa một thời kỳ trong lịch sử thế giới thường được gọi Hậu Trung Cổ. Trong năm nay, trên
**Terengganu** (; Jawi:ترڠڬانو, tiếng Mã Lai Terengganu: Tranung, tiếng Mã Lai Kelantan - Pattani: Ganu) là một vương quốc Hồi giáo và một bang cấu thành của Malaysia. Thành phố ven biển Kuala Terengganu nằm